Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013 về mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội và các tổ chức xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.92 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013 VỀ MẶT TRẬN </b>


<b>TỔ QUỐC VIỆT NAM, CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ-XÃ HỘI VÀ CÁC </b>



<b>TỔ CHỨC XÃ HỘI </b>



<i><b> PGS.TS. Bùi Xuân Đức </b></i>
<i><b> Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam </b></i>


<i><b> Nguyên Viện trưởng Viện NCKH Mặt trận </b></i>
<i><b> </b></i>


<b>1. Quy định của Hiến pháp năm 2013 về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ </b>
<b>chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội </b>


Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam - hình thức hiện tại của Mặt trận Dân tộc thống
nhất Việt Nam ra đời từ năm 1930 – có vị trí, vai trị quan trọng trong đời sống chính trị đất
nước. Trước đây, trong thời kỳ đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc và giải phóng đất
nước, Mặt trận đã là nơi tập hợp các lực lượng yêu nước, cùng với Đảng đấu tranh giành độc
lập, giành chính quyền về tay nhân dân. Trong thời kỳ xây dựng đất nước hiện nay, Mặt trận
<i>tiếp tục đóng vai trị là là « nơi tập hợp khối đại đồn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ </i>
<i><b>của nhân dân”, « nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động » của các thành viên </b></i>
để cùng với Đảng và Nhà nước phấn đấu vì mục tiêu chung là giữ gìn độc lập dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá, xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.


Tổ chức chính trị - xã hội (hay cịn gọi là đồn thể nhân dân, đồn thể chính trị-xã hội)
là những tổ chức quần chúng rộng rãi của các tầng lớp nhân dân (chủ yếu là lao động như
công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ) được Đảng tập hợp và lãnh đạo, cùng với Đảng
tiến hành đấu tranh giành và và sau đó là giữ, xây dựng chính quyền cách mạng. Đây là
những tổ chức quần chúng nịng cốt, gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng, không phải
là một tổ chức xã hội đơn thuần (tuy chúng cũng có tính xã hội) mà là một tổ chức gắn liền


với hoạt động quyền lực (hoạt động chính trị - tham chính). Hiện tại đó là các tổ chức: Tổng
liên đoàn lao động, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nơng dân, Hội Liên hiệp
<i>phụ nữ, Hội Cựu chiến binh. Các tổ chức này là thành tố của hệ thống chính trị nước ta, cùng </i>
với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chúng được coi là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.


<i>Tổ chức xã hội (hay Hội) hiện nay ở nước ta được hiểu là “tổ chức tự nguyện của công </i>
<i>dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập </i>
<i>hợp, đồn kết hội viên, hoạt động thường xun, khơng vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích </i>
<i>hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần </i>
<i>vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” (theo Nghị định 45/NĐ-CP ngày </i>
21/4/2010). Dự thảo Luật về Hội (đang soạn thảo) lúc đầu (năm 2015) nêu định nghĩa gần
<i>như trong Nghị định hiện hành: “Hội là tổ chức tự nguyện, bao gồm những người có cùng </i>
<i>nhu cầu, mục đích, hoạt động khơng vì mục đích lợi nhuận, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp </i>
<i><b>của hội, hội viên và cộng đồng; góp phần phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước </b></i>
<i>mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhưng gần đây sau khi tiếp thu nhiều ý kiến đã </i>
<i>nhấn mạnh tính pháp nhân của hội: «Hội là tổ chức có tư cách pháp nhân được hình thành </i>
<i>do sự tự nguyện của công dân, pháp nhân Việt Nam cùng chung mục đích, nhằm phục vụ lợi </i>
<i>ích chung của hội, hội viên; góp phần thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà </i>
<i>nước về lĩnh vực hội hoạt động”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

chức, phối hợp hoạt động giữa các hội viên vì lợi ích chung của hội; hòa giải tranh chấp
trong nội bộ hội; phổ biến, huấn luyện kiến thức cho hội viên; cung cấp thông tin cần thiết
<i><b>cho hội viên theo quy định của pháp luật. </b></i>


Việc quy định trong Hiến pháp và pháp luật là để chính thức hóa và từ đó tạo cơ sở
pháp lý cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội hoạt động và phát huy vai
trị của mình. Điều này có ý nghĩa lớn vì rằng ai cũng biết vị trí, vai trị Mặt trận, tổ chức
chính trị- xã hội, tổ chức xã hội là như vậy nhưng nếu khơng quy định thành pháp luật chính
thức hóa thì Mặt trận và các tổ chức đó cũng khơng thể thực hiện được. Trên thực tế điều này
không phải tất cả đều chung nhận thức như vậy. Có ý kiến cho rằng Mặt trận cứ hoạt động


vậy thôi, cần gì phải thể chế hóa, quy định hóa. Khi xây dựng Luật Mặt trận Tổ quốc năm
1999 và những lần đề nghị sửa đổi, bổ sung sau đó đã có khơng ít ý kiến như vậy. Nói thế để
thấy ý nghĩa lớn của việc quy định mà Hiến pháp đã làm và cũng để thấy công việc này còn
cần phải tiếp tục hơn nữa trong các luật sau này.


Các Hiến pháp Việt Nam năm 1946, năm 1959 trước đây chưa có quy định. Bắt đầu từ
Hiến pháp năm 1980 mới có quy định và ngày càng hoàn thiện dần qua các Hiến pháp sau này:


<i>- Hiến pháp năm 1980 có một điều (Điều 9) quy định về Mặt trận Tổ quốc: « Mặt trận </i>
<i>Tổ quốc Việt Nam - bao gồm các chính đảng, Tổng cơng đồn Việt Nam, tổ chức liên hiệp </i>
<i>nơng dân tập thể Việt nam, Đồn thanh niên công sản HCM, Hội liên hiệp phụ nữ Việt nam </i>
<i>và các thành viên khác của Mặt trận - là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước. Mặt trận phát </i>
<i>huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí vê chính trị và tinh thần trong </i>
<i>nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, giáo dục và động viên nhân </i>
<i>dân đề cao ý thức làm chủ tập thể, ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ </i>
<i>quốc” (ngồi ra cịn có Đ. 10 về Tổng cơng đồn Việt Nam và điểu 11 về tập thể nhân dân </i>
lao đông ở cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã, khu dân cư và các đơn vị cơ sở khác tham gia
<i>công việc của Nhà nước và xã hội). </i>


<i>- Hiến pháp năm 1992 (cũng tại Điều 9) quy định: «Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các </i>
<i>tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền </i>
<i>thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, </i>
<i>tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi </i>
<i>ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi </i>
<i>hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và </i>
<i>cán bộ, viên chức nhà nước ». (bỏ điều 11 quy định về tập thể lao động nhưng vẫn giữ Điều </i>
10 quy định về Công đoàn Việt Nam).


- Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001) lần đầu tiên đưa ra
<i>quy định định nghĩa về Mặt trận: «Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, </i>


<i>liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các </i>
<i>cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người </i>
<i>Việt Nam định cư ở nước ngoài ». Và quy định tiếp: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ </i>
<i>chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống </i>
<i>đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia </i>
<i>xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính </i>
<i>đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành </i>
<i>Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán </i>
<i>bộ, viên chức nhà nước. </i>


<i>Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có </i>
<i>hiệu quả." </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>quy định cụ thể 6 nhiệm vụ của Mặt trận: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp, </i>
<i>xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong </i>
<i>nhân dân; tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, </i>
<i>chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát </i>
<i>hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước; tập hợp ý </i>
<i>kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây </i>
<i>dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích </i>
<i>chính đáng của nhân dân; tham gia phát triển tình hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt </i>
<i>Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới”. </i>


<b>Hiến pháp năm 2013 đã sửa đổi, hoàn thiện nhiều quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt </b>
Nam, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội cịn chưa được thể hiện rõ và đầy đủ trong
các Hiến pháp trước như: chưa quy định tách riêng MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị
- xã hội, các tổ chức xã hội gây hiểu lẫn lộn vị trí, chức năng của các tổ chức này nhất là hiểu
MTTQ giống như một tổ chức chính trị - xã hội; quy định gộp « MTTQ Việt Nam và các tổ
chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân » là khơng chuẩn xác vì chỉ có
MTTQ Việt Nam (với tính cách là một tổ chức liên minh chính trị) mới là cơ sở chính trị của


chính quyền nhân dân, cịn các tổ chức thành viên khác thì khơng phải tất cả đều là cơ sở
chính trị của chính quyền; chưa quy định vai trò tham gia xây dựng Đảng của Mặt trận mà
chỉ quy định vai trị xây dựng chính quyền nhân dân…). Chưa thể hiện một số chức năng,
<i>nhiệm vụ vốn đã được Mặt trận thực hiện như vai trị đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp </i>
<i>pháp, chính đáng của Nhân dân; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà </i>
<i>nước, thực hiện hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”; Hiến </i>
pháp cũng đã dành một khoản quy định về vị trí, vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội (5
tổ chức) và một khoản quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước tạo điều kiện cho Mặt trận và
<i>các tổ chức thành viên hoạt động và lần đầu tiên nêu tạo điều kiện cho cả « các tổ chức xã </i>
<i>hội khác ». Ngoài ra Hiến pháp tiếp tục dành một điều riêng (Đ.10) để quy định về Cơng </i>
đồn Việt Nam do tính chất dặc biệt của tổ chức này.


Điều 9 Hiến pháp quy định:


<i>“1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của </i>
<i>tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong </i>
<i>các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. </i>


<i>Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo </i>
<i>vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại </i>
<i>đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện </i>
<i>xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây </i>
<i>dựng và bảo vệ Tổ quốc. </i>


<i>2. Cơng đồn Việt Nam, Hội nơng dân Việt Nam, Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí </i>
<i>Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - </i>
<i>xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, </i>
<i>chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt </i>
<i>trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. </i>



<i>3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã </i>
<i>hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt </i>
<i>trận Tổ quốc Việt Nam các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt </i>
<i><b>động”. (Điều 9) </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Đi vào phân tích cụ thể cho thấy:


- Đối với MTTQ Việt Nam, Hiến pháp lần này đã hoàn chỉnh quy định về MTTQ Việt
Nam, đã kế thừa và phát triển các quy định trước phù hợp và đày đủ và nâng cao hơn về vị
trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của MTTQ. Hiến pháp được sửa đổi đã:


+ Xác định rõ và đầy đủ và chuẩn xác hơn so với các Hiến pháp trước về vị trí, tính
<i>chất của MTTQ. Nếu như ở Hiến pháp năm 1980 mới xác định Mặt trận là “chỗ dựa của Nhà </i>
<i>nước”, Hiến pháp năm 1992 thời kỳ đầu coi “MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên là </i>
<i>cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung một số </i>
<i>điều năm 2001) xác định thêm “MTTQ Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị” nhưng </i>
vẫn giữ “các tổ chức thành viên” trong mệnh đề “MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên
<i>là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”. Nay Hiến pháp sửa đổi chuẩn hóa: “Mặt trận </i>
<i>Tổ quốc Việt Nam – tổ chức liên minh chính trị của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - </i>
<i>xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, tầng lớp - là cơ sở chính trị </i>
<i>của chính quyền nhân dân”, tức chỉ có MTTQ Việt Nam (với các thành viên của mình) mới </i>
là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, cịn các tổ chức thành viên khơng phải tất cả đều
là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.


<i>+ Ghi nhận các nhiệm vụ cơ bản của Mặt trận như về « tập hợp, phát huy sức mạnh </i>
<i>đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; thực hiện hoạt </i>
<i>động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, đặc biệt là vai trò mới </i>
<i>« đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân” và “giám sát, phản </i>
<i>biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước” là thể hiện vị trí, vai trị mới của MTTQ </i>
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay.



Như vây, lần đầu tiên trong lịch sử, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đại diện
cho lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân đã được hiến định. Cũng lần đầu tiên Hiến
pháp hiến định vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là một bước
tiến mới của tiến trình thực hiện dân chủ là cơ hội để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy
vai trị của mình và đóng góp nhiều hơn nữa vào tiến trình phát triển của đất nước. Nhưng
cũng từ đây, đòi hỏi Mặt trận phải đổi mới hơn nữa phương thức hoạt động. Có như vậy Mặt
trận mới có thể hồn thành được trọng trách mà nhân giao phó thơng qua Hiến pháp sửa đổi.


- Đối với các tổ chức chính trị - xã hội đồng thời là các tổ chức thành viên của Mặt
trận việc quy định cũng có những tiến bộ. MTTQ Việt Nam hiện tại tập hợp 46 tổ chức
<i>thành viên. (xin mở ngoặc: Bên cạnh đó cịn có các thành viên khác là các cá nhân tiêu biểu </i>
<i>trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước </i>
<i>ngoài). Các tổ chức thành viên của Mặt trận gồm có: tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - </i>
<i>xã hội, tổ chức xã hội. Trước đây, Hiến pháp quy định chung vị trí vai trị của các tổ chức </i>
thành viên lẫn chung với MTTQ; Trong 5 tổ chức chính trị xã hội nịng cốt là cơng, nơng,
thanh, phụ, cựu mới chỉ qui định vai trị của Cơng đồn. Nay Hiến pháp, như đã nói trên, đã
quy định tách biệt vị trí, vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội. Đã dành một khoản riêng
(Khoản 2) để quy định về 5 tổ chức chính trị - xã hội: Cơng đồn Việt Nam, Hội Nơng dân
Việt Nam, Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội
Cựu chiến binh Việt Nam (và cịn có thể thêm nữa) chứ không chỉ quy định về mỗi một mình
Cơng đồn Việt Nam như cũ. (Riêng Cơng đoàn Việt Nam, ngoài quy định chung tại Điều
này Hiến pháp vẫn giữ một điều (Điều 10) quy định thêm do tính chất đặc biệt của tổ chức
<i>này). Hiến pháp xác định rõ vị trí, vai trị, trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội về” </i>
<i>đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đồn viên, hội viên tổ chức </i>
<i>mình” và “cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành </i>
<i>động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

cạnh yêu cầu phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, Hiến pháp quy định
<i>“Nhà nước tạo điều kiện để MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên và các tổ chức xã hội </i>


<i>khác hoạt động” chứ không chỉ tạo điều kiện cho “Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành </i>
viên hoạt động” như trước.


Cũng còn một vài điểm thuộc nội dung quan trọng của Mặt trận và các tổ chức chính
trị - xã hội, các tổ chức xã hội khác đáng lẽ cần được đưa vào nhưng chưa được Hiến pháp
<i>thể hiện như về vai trò hiệp thương của Mặt trận; vai trò tập hợp ý kiến, kiến nghị, tâm tư </i>
<i>nguyện vọng của nhân dân, trong đó có cả các hiến kế, để phản ánh với Đảng và Nhà nước; </i>
<i>về vị trí, vai trị của các tổ chức xã hội khác (được gọi là xã hội dân sự) vì chúng cũng có vai </i>
trị quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước. Hy vọng những vấn đề này sẽ được quy
định đày đủ và cụ thể trong các Luật về Mặt trận và Luật về Hội sẽ được ban hành sau này.


Hiến pháp sửa đổi với những nội dung mới về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cũng như của các tổ chức chính trị-xã hội các tổ chức xã hội, tổ chức thành viên của Mặt
trận có hiệu lực thi hành từ 1.4.2014. Có thể xem đây là một cơ hội để MTTQ Việt Nam và
các tổ chức thành viên của mình phát huy tốt hơn vai trị của mình trong sự nghiệp xây dựng
<b>và bảo vệ đất nước trong thời kỳ mới. </b>


<i>Trước đây có nhiều điều Mặt trận chưa được làm một cách chính thức như quyền “đại </i>
<i>diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân” vì cho rằng chỉ có Quốc </i>
hội và Hội đồng nhân dân mới là cơ quan đại diện của nhân dân, Mặt trận không phải là cơ
<i>quan đại diện; hay “chức năng phản biện xã hội” được văn kiện Đảng nêu từ Đại hội X năm </i>
2006 nhưng chưa được thể chế hóa, chưa được pháp luật quy định nên cũng không thực hiện.
Hiện tại, trừ Mặt trận TP Hà Nội đã có những hoạt động phản biện đối với các quyết sách
của chính quyền thành phố theo Quy chế phản biện xã hội do HĐND, UBND và Ủy ban
MTTQ TP ban hành, cịn Mặt trận nói chung chưa có phản biện xã hội đúng nghĩa mà mới
<i>chỉ là những góp ý kiến, kiến nghị thơng thường. Hay “quyền giám sát” tuy đã có quy định </i>
rồi nhưng nhiều chỗ chưa cụ thể và đày đủ nên chưa thống nhất. Nhiều nội dung giám sát
chưa rõ như Mặt trận có giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng khơng, có giám sát Quốc
hội khơng, có được thành lập đoàn giám sát riêng để giám sát hay chỉ đi theo các đoàn giám
sát của cơ quan nhà nước v.v… Nay Hiến pháp sửa đổi, cơ bản đã hiến định hóa tất cả các


điều này tạo cơ sở pháp lý cần thiết và đày đủ cho Mặt trận thực hiện các chức năng đó. Bên
<i>cạnh đó, Hiến pháp còn xác định rõ: Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam </i>
<i>các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động”. Những quy định </i>
mới, phù hợp hơn trên đây cùng với các quy định tại hai văn bản mới được Bộ Chính trị ban
<i>hành ngày 12-12-2013 là Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt </i>
<i>Nam và các đồn thể chính trị - xã hội (Quyết định số 217/QĐ/TW ngày 12/12/2013) và Quy </i>
<i>định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham </i>
<i>gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền (Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/1013) sẽ tạo </i>
cơ sở pháp lý – chính trị - xung lực mạnh mẽ để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội phát huy tốt vai trị của mình trong đời sống chính trị của đất nước, góp
phần đắc lực vào việc xây dựng đất nước. Vấn đề đặt ra phải làm gì để tổ chức thi hành tốt
các quy định đó.


<b>2. Tình hình thực hiện quy định của Hiến pháp về MTTQ Việt Nam, các tổ chức </b>
<b>thời gian qua </b>


<i><b>2.1 Ban hành văn bản cụ thể hóa chi tiết hóa Hiến pháp hoặc hài hịa hóa Hiến </b></i>
<i><b>pháp làm cơ sở cho hoạt động của MTTQ và các tổ chức: </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

+ Thông tri số 28/TTr-MTTW – BTT ngày 17/4/2014 Hướng dẫn thực hiện một số
điều của Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể CTXH;
Quy định về MTTQ VN, các đoàn thể CTXH và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền.


+ Luật MTTQ VN năm 2015 ban hành ngày 9/6/2015 gồm có 7 chương 41 điều quy
<i>định (tại Đ.3) 7 quyền và trách nhiệm của MT: 1. Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn </i>
<i>dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; 2. Tuyên truyền, vận động Nhân </i>
<i>dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp </i>
<i>luật của Nhà nước; 3. Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân </i>
<i>dân.; 4. Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; 5. Thực hiện giám sát và phản biện xã hội.; 6. </i>


<i>Tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng, </i>
<i>Nhà nước; 7. Thực hiện hoạt động đối ngoại nhân dân. </i>


+ Nghị quyết liên tịch số: 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN
ngày 15 tháng 6 năm 2017 giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội - Chính phủ - Đồn Chủ tịch Ủy
ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (cụ thể hóa Điều 27 và 34 của Luật Mặt trận).


<i><b>2.2. Tình hình thực hiện quy định của Hiến pháp trong các năm 2014-2016 </b></i>


<b>Xin tập trung vào một số hoạt động chính sau: </b>


<i>- Về hoạt động tập hợp, phản ánh ý kiến nhân dân đến với Đảng và Nhà nước </i>


Hoạt động tập hợp, phản ánh ý kiến, kiến nghị của nhân dân của các thiết chế chính trị
(Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…) xuất phát từ quan điểm: bảo đảm quyền
lực thuộc về nhân dân. Nhân dân vừa trực tiếp thực hiện vừa ủy quyền cho các thiết chế đại
diện thay mình thực hiện dưới sự “chỉ huy, sai khiến” và giám sát của mình. Cịn các thiết
chế đại diện phải thể hiện và thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phải lắng nghe tâm
tư, nguyện vọng, ý kiến, kiến nghị của nhân dân, quan tâm giải quyết những yêu cầu, kể các
tiếp thu các hiến kế của của nhân dân. Văn kiện của Đảng xác định: các cấp ủy đảng và cấp
<i>chính quyền phải ”…thường xuyên lắng nghe ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể phản ánh </i>
<i>với Đảng, Nhà nước những vấn đề mà nhân dân quan tâm… », Đảng“chân thành lắng nghe </i>
<i>ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đồn thể”. Điều 8 Hiến pháp quy định: “Các cơ quan </i>
<i>nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, </i>
<i>liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân” Trong </i>
hoạt động này có sự tham gia của nhiều chủ thể: tổ chức đảng, cơ quan nhà nước (nhất là các
cơ quan đại diện quyền lực nhà nước), các đồn thể nhân dân (hay cịn gọi là các tổ chức
chính trị - xã hội). Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân - đương nhiên cũng đóng một vai trị quan trọng. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn


<i>quốc lần thứ V của Đảng (3-1982) chỉ rõ: «Các đồn thể có nhiệm vụ… thu thập, phản ánh ý </i>
<i>kiến của nhân dân, đề xuất với cấp ủy đảng và cơ quan nhà nước những chủ trương, biện </i>
<i>pháp giải quyết các vấn đề có quan hệ đến lợi ích của nhân dân và góp sức xây dựng bộ máy </i>
<i>chính quyền các cấp »; Luật MTTQ Việt Nam năm 2015 quy định “Tập hợp. tổng hợp ý </i>
<i>kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước” là một </i>
trong 7 quyền và là trách nhiệm lớn của Mặt trận (Đ.3).


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

xúc cử tri của đại biểu dân cử với ý kiến nhân dân; hình thức phản ánh ý kiến mới chủ yếu
đến các cơ quan nhà nước qua Báo cáo ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân trước kỳ
họp Quốc hội và Báo cáo về Mặt trận tham gia xây dựng chính quyền trước kỳ họp Hội
đồng nhân dân mà chưa có phản ánh chuyên đề hoặc bất thường, đặc biệt việc phản ánh
trực tiếp đến các cơ quan Đảng hầu như còn chưa thực hiện; Việc phản ánh đến Mặt trận
qua các hội nghị, hội thảo còn nhiều hạn chế. Hiện tại, theo quy định tại Điều lệ Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Hội nghị Ủy ban Trung ương mỗi năm họp chỉ có 1 kỳ (riêng địa
phương 6 tháng một kỳ), Đồn Chủ tịch 6 tháng 1 kỳ (có thể có kỳ họp bất thường). Chưa
lơi cuốn mạnh mẽ sự tham gia của các tổ chức thành viên và thành viên cá nhân tiêu biểu.
Tại các Hội nghị ý kiến của Ủy viên chủ yếu theo các nội dung, yêu cầu đã chuẩn bị sẵn.
Việc đăng ký phát biểu là tự nguyện chưa thành một yêu cầu, trách nhiệm nên sự đầu tư
chuẩn bị còn hạn chế, chủ đề đơi lúc chưa tập trung, cịn thiếu khơng khí thảo luận, tranh
luận. Nhiều hội nghị không dành đủ thời gian để các Ủy viên phát biểu, hoặc chỉ chú trọng
sắp xếp phát biểu của lãnh đạo ban, ngành và các tổ chức thành viên còn các ủy viên cá
nhân thì khơng đến lượt. Việc theo dõi, đôn đốc thúc đấy xem xét, giải quyết hầu như chưa
được thực hiện. Việc kết hợp thông tin, tuyên truyền, giải thích, vận động, kêu gọi nhân
dân tích cực hưởng ứng và hăng hái thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước có lúc, có nơi cịn chưa được coi trọng.


<i>- Thực hiện giám sát và phản biện xã hội </i>


Sau khi có Quyết định số 217-QĐ/TƯ ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị về “Quy chế
giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội”, công


tác giám sát và PBXH được Ủy ban MTTQ các cấp triển khai, đi vào nền nếp:


- MTTQ các cấp đã tập trung giám sát, PBXH vào các dự thảo kế hoạch Nghị quyết của
Quốc hội, HĐND về phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, giám sát việc ban hành pháp luật;


- Giám sát việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, các chính sách an sinh
xã hội, cải cách thủ tục hành chính, việc thực hiện chính sách đối với người có cơng, xây
dựng nông thôn mới;


- Giám sát các cơ quan chức năng giải quyết các ý kiến, kiến nghị của cử tri, khiếu
nại, tố cáo của công dân…


<i>- Thời gian qua từ năm 2014 đến 2016 MTTW đã chủ trì thực hiện 9 chương trình </i>
<i>phối hợp giám sát gồm: </i>


+ Tổng rà soát việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có cơng với cách mạng;
+ Giám sát việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội trong các doanh nghiệp;
+ Giám sát việc thực hiện pháp luật về sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp;
+ Giám sát việc chấp hành pháp luật của các cơ sở y tế tư nhân;


+ Giám sát và nâng cao hiệu quả việc giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cơ sở;


+ Giám sát thực hiện Luật Khoa học, công nghệ và Nghị quyết TW 6 Khóa XI về phát
triển khoa học, công nghệ;


+ Giám sát việc thực hiện những nhiệm vụ, gia rpháp chủ yếu nhằm cải thiện môi
trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong lĩnh vực thuế và hải quan;


+ Triển khai xác định chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của
cơ quan hành chính nhà nước;



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Và 03 cuộc giám sát về: </i>


+ Việc thực hiện chính sách về ứng phó với thiên tai và biến đổi klhí hậu;


+ Giám sát việc thực hiện hỗ trợ của Nhà nước đối với nhân dân bốn tỉnh miền Trung
khắc phục thiệt hại do thủy sản chết hàng loạt;


+ Giám sát công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp.


Ở địa phương MT các cấp cũng có những chương trình, cuộc giám sát tương tự. Có
thể thấy phần lớn các chương trình cuộc giám sát là về thực hiện chính sách kinh tế - xã hội;
trong khi cái cần giám sát là giám sát về hoạch định chính sách, pháp luật, thực thi chức
<i>trách công vụ, tư cách, đạo đức của cán bộ đảng viên thì chưa được nhiều (Xem: Báo cáo sơ </i>
<i>kết 3 năm thực hiện Quyết định 217-QĐ/TW và Quyết định 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 </i>
<i>của Bộ Chính trị (Khóa XI) của MTTQ Việt Nam) </i>


Hình thức giám sát và phản biện xã hội sau khi có Quyết định 217 và Luật Mặt trận
mới đã trở nên phong phú (Hình thức giám sát: xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát và
tổ chức đoàn đi giám sát; tiếp thu ý kiến phản ảnh của các thành viên, đoàn viên, hội viên, ý
kiến của nhân dân, ý kiến của các chuyên gia và tổ chức khảo sát thực tế; nghiên cứu văn
bản, tài liệu, báo cáo của các cơ quan, tổ chức; tiếp dân, nhận và nghiên cứu đơn, thư khiếu
nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của các tổ chức, cá nhân gửi Mặt trận Tổ quốc và các đồn
thể chính trị - xã hội và qua phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng; tham gia các
hoạt động giám sát do các cơ quan dân cử đề nghị). Ngoài phối hợp cùng các cơ quan chức
năng, MTTQ VN ở cơ sở còn giám sát độc lập thông qua hệ thống “chân rết” là các Ban
thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Phản biện xã hội dưới các hình thức:
Tổ chức hội nghị các cơ quan lãnh đạo trực thuộc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Ban
Chấp hành các đồn thể chính trị - xã hội từng cấp; Tổ chức lấy ý kiến phản biện (thông qua
tổ chức, cá nhân, đoàn viên, hội viên) trong hệ thống của tổ chức, đồn thể mình hoặc gửi


văn bản dự thảo đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để lấy ý kiến phản biện; Khi
cần thiết, tổ chức đối thoại trực tiếp giữa chủ thể phản biện với cơ quan, tổ chức có văn bản
dự thảo được phản biện.


Để công tác giám sát và PBXH được tổ chức hiệu quả, MTTQ thường xuyên lắng
nghe, tập hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân, đặc biệt các vấn đề dân sinh, bức
xúc. Qua đó, thực hiện PBXH các chương trình, đề án có liên quan trực tiếp đến nhân dân ở
địa phương. Cơng tác PBXH khơng chỉ góp phần hồn thiện, nâng cao chất lượng các quyết
sách trước khi ban hành mà còn tăng cường sự đối thoại, đồng thuận xã hội. Tuy nhiên, cơng
tác này hiện cịn một số “rào cản” về cơ chế nên nhiều việc MTTQ chưa được tham gia giám
sát hoặc ý kiến sau giám sát, PBXH chuyển đến cơ quan chức năng có thẩm quyền nhưng
chậm, thậm chí khơng có hồi âm, khơng được giải quyết.


<b>3. Những vấn đề đang đặt ra trong việc thi hành Hiến pháp </b>


<i><b>* Về tập hợp, phản ánh ý kiến nhân dân </b></i>


<i>1. Chưa nhận thức đúng ý nghĩa vai trò của việc tập hợp, tổng hợp phản ánh ý kiến </i>
<i>của nhân dân (tức ý kiến của Mặt trận) đến Đảng và Nhà nước. Đang có sự lẫn lộn giữa tập </i>
<i>hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của Nhân dân qua lăng kinh Mặt trận với việc báo cáo ý kiến </i>
<i>kiến nghị của cử tri qua việc tiếp xúc cử tri của đại biếu dân cử. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

cấp xây dựng và trình bày Thơng báo về việc MT tham gia xây dựng chính quyền ra trước
HĐND các cấp. Việc này dẫn đến MT chú trọng vào chuyện tập hợp phản ánh ý kiến cử tri
mà lẽ ra phải là tập hợp, phản ánh những vấn đề đang nổi lên trong các giai cấp, tầng lớp
nhân dân. Và không chỉ phản ánh đến các cơ quan đại biểu mà phải và chủ yếu đến các cấp
có thẩm quyền, có trách nhiệm cao. Cần phải nhận thức và quy định lại: Trách nhiệm thu
thập, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri cần quy về đúng đầu mối là các cơ quan thường
trực QH, HĐND tổng hợp và báo ra trước kỳ họp. MTTQ cần tập trung vào nhiệm vụ tập
hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của Nhân dân (các giai cấp, tầng lớp, không phải cử tri) để


phản ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước. Và việc này phải làm thường xuyên chứ không chỉ
trước mỗi kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Ở một số địa phương như Hà Nội đã tách
riêng hai việc này: Thường trực Ủy ban MTTQ xây dựng Thơng báo về việc MTTQ tham
<i>gia xây dựng chính quyền còn Tổng hợp ý kiến của cử tri Thủ đô với kỳ họp HĐND thành </i>
<i>phố do Thường trực HĐND đảm nhiệm</i>107<sub>. </sub>


<i>2. Chưa tổ chức tốt việc thu thập, lấy ý kiến, kiến nghị thường xuyên (Hội nghị Ủy </i>
<i>ban MTTQ, tập hợp ý kiến của thành viên Mặt trận, ý kiến của các tầng lớp nhân dân, báo </i>
<i>chí v.v…). Các thành viên MTTQ nhất là thành viên cá nhân chưa được mời và tích cực tham </i>
gia các cuộc hội nghị, các kỳ họp, phiên họp, cuộc tiếp xúc cử tri, để thu thập và phản ánh
các ý kiến, kiến nghị, tâm tư nguyện vọng của cử tri và nhân dân đến Ủy ban MTTQ các cấp
và tổng hợp chung để phản ánh đến Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.
Còn thiếu việc lấy ý kiến và trao đổi thảo luận của các vị Ủy viên Ủy ban. Chưa đẩy mạnh
hoạt động của các Hội đồng tư vấn của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam. Chưa có các cơ
cấu thích hợp trong Ủy ban MTTQ như các Ban, Ủy ban chuyên đề bao gồm thành viên cá
nhân tiêu biểu theo lĩnh vực để nghiên cứu đề xuất ý kiến, kiến nghị của MTTQ với Đảng và
Nhà nước. Các kỳ họp Hội đồng nhân dân các cấp chưa bố trí đủ thời gian và phù hợp để
MTTQ phản ánh ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân và phải có sự tiếp thu, giải trình.


<i>3. Chưa có nhiều các hình thức hội nghị lấy ý kiến, kiến nghị của nhân dân do Mặt </i>
<i>trận Tổ quốc chủ trì (hội nghị chuyên đề, diễn đàn, bàn tròn v.v…) </i>


Chưa triển khai rộng rãi các hình thức lấy ý kiến nhân dân, hội nghị chuyên đề đã
được khẳng định và nêu tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc MTTQ Việt Nam lần thứ
<i>VIII (9.2014) “… phối hợp tổ chức các diễn đàn nhân dân, hội nghị tiếp xúc cử tri, của đại </i>
<i>biểu dân cử, đa dạng hóa các kênh tiếp nhận, tập hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân </i>
<i>dân với Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;…”, “Tổ chức các diễn đàn và các </i>
<i>phương thức phù hợp để phát huy sáng kiến của nhân dân, nhất là đội ngũ trí thức ở trong </i>
<i>nước và ngoài nước hiến kế xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Chưa xây dựng và ban hành được </i>
các quy chế cụ thể về hoạt động tổ chức lấy ý kiến, kiến nghị của nhân dân. Hoạt động tổ


chức lấy ý kiến, kiến nghị của nhân dân chưa được qui định thành văn bản và thống nhất
trong hệ thống MTTQ Việt Nam và không trái với chỉ thị, nghị quyết của Đảng, luật pháp
của Nhà nước và Điều lệ của MTTQ Việt Nam.


<i>4. Chưa tổng hợp và phản ánh thường xuyên và kịp thời các ý kiến, kiến nghị của </i>
<i>nhân dân đến các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước. </i>


Chưa có các hình thức đa dạng để tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của hội viên,
thành viên, đoàn viên, của các tổ chức thành viên của Mặt trận. Chưa tăng cường hoạt động


107<sub> Việc này ở địa phương đã làm tách riêng: Thường trực HĐND xây dựng Báo cáo tổng hợp ý kiến nhân dân với kỳ </sub>


<i>họp HĐND sắp diễn ra (xem: ví dụ: Tổng hợp ý kiến của cử tri Thủ đô với kỳ họp thứ 19 HĐND thành phố Hà </i>


<i>Nội. Báo Nhân dân, 4/12/2009, trang Hà Nội), còn ban Thường trực Ủy ban MTTQ xây dựng Thông báo về việc </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

phản ánh trực tiếp đến các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước được phân cơng trực tiếp
theo dõi và chỉ đạo công tác Mặt trận, các hội nghị, phiên họp của các cơ quan tổ chức mà
Mặt trận được mời tham dự, mà chủ yếu vẫn chỉ phản ánh đến các cơ quan quyền lực nhà
nước (kỳ họp) và các bộ ngành. Ý kiến thường không xuyên mà chỉ tập trung đưa ra trước
mỗi kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân (6 tháng 1 lần).


<i>5. Việc theo dõi, thúc đẩy việc tiếp thu, giám sát, thúc đẩy việc giải quyết ý kiến, kiến </i>
<i>nghị của nhân dân còn hạn chế. </i>


Chưa đẩy mạnh hoạt động theo dõi, thúc đẩy việc tiếp thu, giám sát, thúc đẩy việc giải
quyết ý kiến, kiến nghị của nhân dân. Chưa có cơ chế đầy đủ về giám sát của MTTQ, các tổ
chức thành viên đối với việc giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; chưa thực
hiện nghiêm túc việc thông báo định kỳ về giải quyết khiếu nại, khiếu kiện cho Mặt trận biết.



<i><b>* Về giám sát và phản biện xã hội: </b></i>


<i>1. Hiện Luật về Hội còn đang gặp khó khăn chưa ban hành được. Các văn bản quy </i>
định về hoạt động xây dựng chính quyền, giám sát, phản biện mới chỉ quy định cho các tổ
chức chính trị - xã hội mà chưa có quy định cho tổ chức xã hội. Do đó, hiện tại, hoạt động
của các tổ chức xã hội về các vấn đề đó cịn chưa có quy chế pháp lý để thực hiện nên nếu có
làm thì phần nhiều là “mượn” các quy định về MT và các tổ chức chính trị- xã hội đó.


<i>2. Nhận thức về ý nghĩa của giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam (theo </i>
<i>quy định của Luật Mặt trận năm 2015) chưa tương xứng, chưa phù hợp với vai trị vị trí của </i>
<i>Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. </i>


<i>Nhận thức “giám sát và phản biện xã hội của MTTQ là mang tính xã hội” là theo quy </i>
định tại điều 25 và Điều 32 Luật MTTQ Việt Nam mới, ban hành ngày 9/6/2015, có vẻ như
khơng thể hiện đúng bản chất của việc giám sát này, không thấy hết và phát huy đầy đủ ý nghĩa
của giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam cũng như vai trị, vị trí của MTTQ trong
hệ thống chính trị. MTTQ Việt Nam là một tổ chức liên minh chính trị với sứ mệnh lịch sử là
hình thức Đảng cộng sản đoàn kết với các lực lương dân chủ tiến bộ khác tạo thành một mặt trận
để đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội thì những cơng việc của nó là
mang tình chính trị-quyền lực (mà lâu nay tạm gọi là “tính nhân dân”) chứ khơng thể mang tính
xã hội thông thường. Mặt khác về mặt pháp quyền, quy định này là khác với quy quy định tại
Quy chế 217 là “giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam mang tính nhân dân”. Do
đó nhận thức hiện tại và quy định tại Luật Mặt trận cịn là khơng phù hợp với văn bản của Đảng
và xét về bản chất là hạ thấp vị trí, vai trị của MT và các tổ chức CTXH trong giám sát và phản
biện xã hội (phía bị giám sát khơng cịn coi trọng ý kiến giám sát của Mặt trận; cịn Mặt trận
cũng vì thế mà cũng làm cho qua, khơng cịn nghiêm túc và thiết tha nữa).


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

sách, cơ chế, pháp luật1<sub> chứ Chính hiệp khơng có giám sát việc thực hành chính sách, </sub>
pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội.



<i>3. Cơ chế giám sát và phản biện xã hội đối với các cơ quan, tổ chức đảng, cán bộ, </i>
<i>đảng viên chưa được quy định cụ thể (nếu khơng muốn nói là chưa có). </i>


Quy định cụ thể nội dung và cơ chế giám sát các tổ chức đảng và giám sát cán bộ,
đảng viên. Hiện chưa có quy định cụ thể về vấn đề giám sát các tổ chức Đảng (chỉ mới có
một số quy định chung trong Quy chế 217 thể hiện MTTQ giám sát cả các cơ quan tổ chức
Đảng và Nhà nước nhưng đến Luật MT thì khơng quy định gì thêm về giám sát tổ chức
<i>Đảng). Đối với đảng viên có Nghị quyết liên tịch số: 05/2006/nqlt-cp-ubtưmttq giữa Chính </i>
phủ - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 21 tháng 4 năm 2006 về việc
ban hành Quy chế “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở
khu dân cư” được thực hiện thí điểm tại 5 tỉnh, thành phố và đã có tổng kết nhưng nay
không thấy nhắc đến nữa. Vậy phải đẩy mạnh công tác này.


Bên cạnh đó, cần tiếp tục thể chế hóa và chi tiết hóa cơ chế hoạt động giám sát và
PBXH của MTTQ VN đã được Quy chế và Luật Mặt trận quy định.


<i>4. Hoạt động giám sát và phản biện xã hội chưa được coi là một nhiệm vụ quan trọng </i>
<i>và hầu như chưa được triển khai thực hiện và đánh giá tổng kết tại cấp cơ sở nhất là ở Ban </i>
<i>công tác Mặt trận. </i>


Các cuộc tổng kết chỉ tập trung vào cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư mà nay đổi thành Cuộc vận động xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh. Hầu
như khơng có đánh giá tổng kết về hoạt động xây dựng chính quyền, giám sát và PBXH. Đề
nghị phải có hướng dẫn triển khai nhiệm vụ này. Nhân đây nói việc mời Ủy viên Trung ương
và cấp trên tham gia các hoạt động của cơ sở (nơi cư trú) cũng không chu đáo. Hầu như chưa
được mới với tư cách ủy viên TW, cấp trên tham dự các hoạt động của MT ở cơ sở theo quy
định của Điều lệ MTTQ Việt Nam.


<i>5. Đối tượng, phương thức giám sát từ khi có Quyết định 217 có vẻ tập trung quá </i>
<i>nhiều vào giám sát thi hành chính sách pháp luật theo chương trình, kế hoạch theo Đoàn mà </i>


<i>sao nhãng giám sát xây dựng đường lối, chính sách, đề án kinh tế- xã hội, giám sát vụ việc </i>
<i>khiếu nại, tố cáo… vốn là đặc trưng và là thế mạnh của Mặt trận trong việc đại diện bảo vệ </i>
<i>quyền lợi hợp pháp, chính đáng của nhân dân: </i>


Thời gian qua MT các cấp tập trung nhiều vào việc giám sát theo chương trình, kế
hoạch dưới hình thức Đồn giám sát nên có hiện tượng coi nhẹ giám sát xây dựng đường lối,
chính sách, đề án kinh tế - xã hội, giám sát khiếu nại, tố cáo, giám sát tư pháp, giám sát theo
vụ việc, giám sát thông qua tập hợp phản ánh của thành viên và nhân dân. Mà đây mới là thể
hiện rõ bản chất của giám sát MT với tư các đại diện quyền, lợi ích của nhân dân. Giám sát
theo đồn cũng quan trọng song mang tính chất giám sát chuyên môn mà MT sẽ bị hạn chế.


Theo chúng tôi, cần tập trung sự giám sát vào hoạt động thực thi quyền lực của các
thiết chế chính trị, bộ máy cơng quyền (như việc đề ra chủ trương, chính sách đúng hay chưa,


1<i><sub> Ở Trung quốc Phương châm quan hệ giữa các thành viên trong chính hiệp là: “Cùng tồn tại lâu dài, giám sát lẫn nhau, thành thật </sub></i>
<i>với nhau (ĐH 16 thay= mạnh dạn chiếu cố), vinh nhục có nhau”; thực hiện nguyên tắc “một tham gia, ba tham dự”của các </i>


<i>đảng phái khác khi nói về vai trị của chính hiệp và các đảng phái khác. Theo đó: Một tham gia là tham gia chính quyền quốc </i>


<i>gia; ba tham dự là: tham dự thảo luận tuyển cử lãnh đạo quốc gia và phương châm chính trị trọng đại quốc gia, tham dự quản </i>
<i>lý công tác quốc gia, tham dự chấp hành và cơ chế pháp luật, chính sách phương châm quốc gia” (Ơng Trần Hỷ Khánh – Phó </i>


<i>ban Mặt trận thống nhất (như Ban Dân vận TƯ - BĐ) thuộc BCH trung ương ĐCS TQ cho biết) </i>


Nguyên tắc này được Giang Trạch Dân đúc kết tại Hội nghị cơng tác Mặt trận thống nhất tồn quốc năm 2000 gồm
<i>20 chữ. Đó là: “Đảng Cộng sản lãnh đạo, đa đảng phái hợp tác; Đảng Cộng sản chấp chính, đa đảng phái </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

tệ quan liêu, lạm dụng quyền lực, vô trách nhiệm), vào tư cách đạo đức của cán bộ, đảng viên
(suy thoái, tha hóa, biến chất, làm giàu bất chính); giám sát tham nhũng, lãng phí (như vụ
PVC) và giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo, giám sát hoạt động tư pháp (giám sát quyết


định hành chính sai trái, bản án oan sai). Khơng nên thiên quá nhiều về các vấn đề kinh tế -
xã hội như vừa qua vì đó là trách nhiệm của các cơ quan kiểm tra, thanh tra chuyên trách của
nhà nước.


<i> 6. Tổ chức các hội nghị (cuộc) phản biện chưa đúng với tinh thần của phản biện xã hội; </i>
<i>chưa khác gì các cuộc góp ý trước đây; chưa có kết luận nêu chính kiến chung của Mặt trận. </i>


Lấy ví dụ Ở MTTW: Hội nghị phản biện đầu tiên được tổ chức ngày 14/10/2016 tại
Ủy ban TW MTTQ VN là phản biện Dự thảo Luật về Hội do Bộ Nội vụ soạn thảo. Thành
phần tham dự khá rộng rãi gồm đại diện Ban Thường trực, các ban chuyên môn của MTTW,
đại diện nhiều tổ chức thành viên, các ủy viên HĐTV, chuyên gia. Cuộc hội nghị diễn ra theo
trình tự cơ bản khơng khác gì với các hội nghị góp ý kiến, gồm: nghe đại diện Ban soạn thảo
trình bày- (có cần không?); các đại biểu phát biểu tùy ý, nhiều đại biểu nói theo quan điểm
hội mình, ngành mình thậm chí ý kiến cá nhân (Hội liên hiệp thanh niên VN, Liên hiệp hội
văn học - nghệ thuật, Liên minh các HTX VN cứ đòi được đặt ra ngoài Luật giống như
MTTQ VN và các tổ chức chính trị-xã hội trong khi tinh thần chung là phải đưa tất cả vào
Luật để điều chỉnh chung); nhiều người chưa nghiên cứu kỹ, dẫn nguồn khơng chuẩn; khơng
có tổng hợp ý kiến kết luận; chưa đặt vấn đề yêu cầu cơ quan soạn thảo tiếp thu giải trình.


Chúng tơi cho rằng phản biện là góp ý kiến ở mức cao, có trình tự, thủ tục được quy
định hẳn hoi nên phải khác với hội nghị góp ý kiến. Hội nghị phản biện cần triển khai theo
các nội dung sau:


+ Thành phần tham dự theo quy định, nhưng cần mời thêm các chuyên gia, nhà khoa
học thông thạo lĩnh vực;


+ Phải có sự lựa chọn đưa ra những vấn đề chính để thảo luận (không phải chỉ là
những vấn đề cịn có ý kiến khác nhau do Ban soạn thảo đưa ra). Muốn vậy phải có sự tổ
chức nghiên cứu trước (Ban Thường trực chủ trì hội nghị phản biện phải lập ra Nhóm nghiên
cứu để làm việc này). Phải bố trí người báo cáo đề dẫn về các vấn đề trên, chứ không cần


phải nghe đại diện Ban soạn thảo trình bày nữa. Báo cáo đề dẫn này có ý nghĩa như nêu dự
kiến quan điểm, ý kiến để hội nghị thảo luận.


+ Hội nghị cần tập trung thảo luận xung quanh những vấn đề được nêu ra đó chứ
khơng nên phát biểu có tính cá nhân giống như góp ý kiến (tất nhiên vẫn có thể nêu thêm nếu
thấy chưa đày đủ);


+ Tinh thần chung của thảo luận là các đại biểu, nhất là các tổ chức thành viên phải
thể hiện sự phối hợp và thống nhất hành động chung trong Mặt trận, tức là phải góp tiếng nói
chung vào các vấn đề chung đó, tránh tình trạng đến hội nghị mà vẫn mang ý kiến riêng của
hội mình, ngành mình, thậm chí ý kiến cá nhân như đã xảy ra.


+ Phải có sự kết luận đưa ra chính kiến chung chứ khơng chỉ tổng hợp ý kiến góp ý
từng hội, từng cá nhân như vẫn làm xưa nay; nếu cần phải cho biểu quyết. Kết luận này được
coi như chính kiến của Mặt trận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>4. Những yêu cầu đặt ra để thi hành tốt các quy định của Hiến pháp </b>


Những yêu cầu đặt ra để có thể triển khai thi hành tốt các quy định của Hiến pháp, có
mấy vấn đề sau:


<i>- Trước hết, cần phải tổ chức nghiên cứu sâu rộng, quán triệt tinh thần và nội dung </i>
mới của Hiến pháp về MTTQ; tham gia tích cực vào các hoạt động xây dựng các văn bản
luật để cụ thể hóa, chi tiết hóa và tạo lập cơ pháp lý cần thiết để thực hiện các chức năng
được Hiến pháp quy định. Trước mắt tập trung cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành Quy chế về
giám sát và phản biện xã hội vừa được Bộ chính trị ban hành và Luật MTTQ Việt Nam năm
2015; sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật khác có quy định về MTTQ Việt Nam(đến hơn
100 văn bản). Đẩy nhanh việc ban hành luật về Hội.


<i>Hai là, phải có sự nhận thức đúng đắn hơn tính chất giám sát và phản biện của MTTQ </i>


Việt Nam để từ đó vận dụng và phát huy đúng ý nghĩa của nó. Theo nhận thức của chúng tôi,
giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam khơng mang tính xã hội thuần túy như của
các tổ chức khác. Đây là giám sát và phản biện xã hội với tư cách là tổ chức đại diện cho
quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân,
thành tố của hệ thống chính trị. Sự giám sát này mang tính quyền đại diện, quyền lực trực tiếp
nhân dân. Giám sát và phản biện xã hội của MTTQ gắn chặt với việc thực thi quyền lực nhà
nước, tức giám sát đối với hoạt động của Đảng cầm quyền và bộ máy nhà nước như một yếu tố
nội tại trong hệ thống quyền lực chứ khơng hồn tồn là giám sát bên ngoài như các tổ chức
khác. Giám sát và PBXH đó có sức nặng và phải được tiếp thu giải trình nghiêm túc. Nếu
không như vậy mà cứ coi đây như một ý kiến xã hội thơng thường thì khơng có mấy ý nghĩa.


<i>- Ba là, tăng cường các bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các </i>
tổ chức thành viên. Xây dựng và hoàn thiện quy chế phối hợp hoạt động của MTTQ Việt
Nam với chính quyền nhà nước các cấp – bảo đảm về cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt của
Mặt trận Tổ quốc. Xây dựng, nâng cao chất lượng, năng lực đội ngũ cán bộ Mặt trận nói chung. Đổi
mới, hoàn thiện cơ chế tổ chức, chế độ chính sách đối với Mặt trân Tổ quốc cũng như cán bộ
chuyên trách Mặt trận các cấp và đội ngũ cộng tác viên, trong đó đặc biệt là việc đổi mới cơ
cấu tổ chức và cơ chế tài chính bảo đảm tính độc lập, khơng bị phụ thuộc cho Mặt trận.


</div>

<!--links-->

×