Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Thi hành các quy định về tòa án nhân dân trong Hiến pháp 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.11 KB, 14 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN </b>


<b>TRONG HIẾN PHÁP 2013 </b>



<i><b>PGS. TS Nguyễn Ngọc Chí Khoa Luật ĐHQGHN </b></i>


<b>1. Đặt vấn đề </b>


Tòa án nhân dân (TAND) là một thiết chế hiến định ở Việt Nam kể từ thời lập quốc
(1945)233. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của tịa án trong hệ thống tổ chức quyền lực nhà
nước và đời sống xã hội của quốc gia. Việc đánh giá hiệu quả hoạt động (hay thi hành các
quy định) về tòa án là một yêu cầu thường xuyên tại nhiều quốc gia cũng như các thiết chế tố
tụng quốc tế. Ở Việt Nam, bên cạnh các cơ chế đánh giá nội bộ và chuyên ngành, một cách
đánh giá vĩ mô hơn dựa trên đánh giá thi hành các quy định của hiến pháp và pháp luật cũng
thường nhận được sự quan tâm. Hiến pháp 2013 đã trải qua 05 năm thi hành trên thực tế.
Theo thông lệ của Việt Nam, khoảng thời gian này tương đương với một nhiệm kỳ hoạt động
của một thiết chế công quyền. Như vậy, việc đánh giá thi hành các quy định trong hiến pháp
<i>tại thời điểm này là cần thiết, đáp ứng được hai mục đích sau: một là, xem xét tác động của </i>
<i>hiến pháp lên đời sống xã hội nói chung; hai là, tác động của các thiết chế hiến định trong </i>
một nhiệm kỳ nói riêng. Bài viết này tập trung vào đánh giá thi hành các quy định về tòa án
nhân dân trong Hiến pháp 2013, bao gồm một số nội dung như: (i) Xác định các tiêu chí
đánh giá thi hành quy định về tòa án trong hiến pháp; (ii) Đánh giá thi hành các quy định căn
cứ trên các tiêu chí trên, bao gồm: vị trí, chức năng của tịa án; tổ chức tịa án và các nguyên
tắc hoạt động của tòa án. Giới hạn của bài viết là đánh giá chủ yếu thông qua hoạt động luật
hóa các quy định của hiến pháp mà chưa có các đánh giá tác động trên thực tế dựa trên các
đo lường khảo sát, do nguồn lực không cho phép và trong khuôn khổ một bài viết.


<b>2. Tiêu chí đánh giá thi hành quy định về tòa án trong hiến pháp năm 2013 </b>


<i><b>2.1. Về vị trí, chức năng của tịa án </b></i>


Trong hệ thống tư pháp, tịa án giữ vị trí trung tâm.234 Vị trí trung tâm của tịa án có


được là do chức năng xét xử là chức năng duy nhất thuộc về tòa án (Điều 102 Hiến pháp
2013)235. Để đảm bảo thực hiện chức năng đó, tịa án phải được thốt khỏi vai trị là một phía
buộc tội trong q trình giải quyết vụ án hình sự. Một chủ thể tố tụng chỉ được thực hiện một
chức năng tố tụng và việc phân định chức năng của các chủ thể tố tụng, đặc biệt là giữa các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải rành mạch, rõ ràng. Tòa án trong tố tụng (tranh
tụng) chỉ thực hiện chức năng xét xử trong phạm vi và mức độ buộc tội theo nguyên lý
<i>“nemo judex sine actore” (khơng có xét xử nếu không bên nguyên).</i>236<sub> Để trở thành trung tâm </sub>
trong hoạt động tố tụng, việc xét xử của tòa án cần thực sự tạo ra tự do tranh luận, tự do trình
bày quan điểm, chứng cứ của các bên: bên buộc tội và bên gỡ tội. Tòa án là chủ thể trung
tâm của hoạt động xét xử theo nghĩa tạo mọi điều kiện cho những hoạt động tố tụng nói trên.
Yếu tố vơ tư, khách quan khơng chỉ dừng lại từ cá nhân của mỗi thẩm phán, mà cần được
nhìn nhận như một thuộc tính vốn có của tịa án. Tịa án cần xác lập vai trị điều hành, kiểm
sốt q trình tranh luận nhằm tạo điều kiện để các bên thực hiện được chức năng tố tụng,


233<sub> Được quy định tại các Chương 6 Hiến pháp 1946, Chương 8 Hiến pháp 1959, Chương 10 Hiến pháp 1980, </sub>
Chương 10 Hiến pháp 1992, Chương 8 Hiến pháp 2013.


234<sub> Ở Việt Nam, cách hiểu phổ biến cho rằng hệ thống tư pháp bao gồm Cơ quan xét xử, Viện kiểm sát, Cơ quan </sub>
điều tra và Cơ quan thi hành án.


235<sub> Tất cả các hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992, 2013) đều qui định chức năng xét xử là chức năng duy </sub>
nhất thuộc về tòa án.


236<i><sub> Tham khảo: Đào Trí Úc, “Quyền tư pháp trong cơ chế quyền lực nhà nước theo Hiến pháp 2013”, Bình luận khoa </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

bảo vệ được quan điểm và thực hiện quyền tự định đoạt việc sử dụng các khả năng tố tụng và
tự do trong chứng minh.


<i><b>2.2. Về tổ chức tòa án </b></i>



Là bộ phận cấu thành bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nên
TAND cũng được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung của việc tổ chức, hoạt
động bộ máy nhà nước như: Đảng lãnh đạo, tập trung dân chủ, pháp chế xã hội chủ nghĩa ...
Tuy nhiên, tồ án là cơ quan tài phán, có vị trí đặc biệt trong hệ thống các cơ quan nhà nước.
Hoạt động của TAND có những nét đặc thù so với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác,
nên các TAND được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc riêng dựa trên nền tảng các
nguyên tắc chung có giá trị cho tất cả các cơ quan nhà nước như đã nói ở trên, chẳng hạn
nguyên tắc độc lập xét xử hoặc nguyên tắc giám đốc xét xử của tòa án cấp trên đối với hoạt
động xét xử của tòa án cấp dưới... Đây là những nguyên tắc tổ chức phổ biến tại các nền tư
pháp xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam.


<i><b>2.3. Về nguyên tắc hoạt động của tòa án </b></i>
<i>Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa </i>


Pháp chế xã hội chủ nghĩa là quan điểm chính của hệ thống pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Pháp chế là yêu cầu khách quan trong việc tổ chức, hoạt động của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) và trong q trình vận động, nhà nước ln ln địi hỏi
phải tăng cường pháp chế, do đó, pháp chế là nguyên tắc hiến định ở Việt Nam. Điều 8 Hiến
<i>pháp năm 2013 qui định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp </i>


<i>luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”. Nguyên tắc này xuất từ yêu cầu của thể </i>


chế tập quyền XHCN địi hỏi phải có sự điều chỉnh pháp luật đối với tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, đồng thời là điều kiện căn bản, hàng đầu đối với việc bảo đảm tính tổ
chức, kỷ luật, ổn định, thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Chỉ trong điều kiện
đó, bộ máy nhà nước mới có khả năng thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình. Mặt
khác, sự tuân thủ tự giác, triệt để pháp luật của các cơ quan trong bộ máy nhà nước sẽ góp
phần làm cho pháp luật đi vào cuộc sống, bảo đảm cho xã hội phát triển. Dưới khía cạnh này
<i>thì “Pháp chế là sự tự giác, triệt để tuân thủ pháp luật trong hoạt động của cơ quan nhà </i>



<i>nước, nhân viên nhà nước, tổ chức và mọi công dân trong xã hội</i>”237<sub>. </sub>


<i>Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá </i>
<i>nhân, tổ chức </i>


Quyền con người là giá trị cao quý, là thành quả đấu tranh chung, là kết tinh của
nền văn minh nhân loại song cũng là một vấn đề phức tạp trong khoa học và trong thực
tiễn bảo đảm quyền con người. Ở bình diện khái quát nhất, quyền con người trong tố tụng
<i>được thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, thơng qua việc xử lý người xâm hại, gây ra những </i>
thiệt hại cho các quyền con người của các cơ quan tiến hành tố tụng góp phần bảo vệ quyền
con người. Đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền con người, lợi ích hợp
pháp của cơng dân khỏi sự xâm hại của hành vi phạm pháp là một trong những chức năng
của nhà nước và trách nhiệm quan trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng (trọng tâm là tòa
<i>án). Thứ hai, khi tiến hành tố tụng giải quyết vụ việc, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành </i>
tố tụng có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm
tội, bị can, bị cáo. Các cơ quan tiến hành tố tụng không được lợi dụng quyền tiến hành tố
tụng giải quyết vụ án xâm phạm đến quyền của những người nêu trên238<sub>. Đồng thời, pháp luật </sub>
tố tụng còn quy định chặt chẽ các trình tự, thủ tục trong quá trình giải quyết vụ án của tòa án


237<i><sub> Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình lý luận chung về nhà nước pháp luật, Nhà xuất bản Đại học tổng hợp, Hà Nội, </sub></i>
1993, tr 354


238<i><sub> Xem: Lê Văn Cảm - Nguyễn Ngọc Chí, Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, tố tụng hình sự trong </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

các cấp nhằm bảo đảm quyền con người, ngăn ngừa tránh sự lợi dụng của người và cơ quan có
thẩm quyền khi tiến hành tố tụng.


<i>Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật </i>


“Bình đẳng trước pháp luật” là tư tưởng nền tảng về quyền con người và được coi


như một trong nguyên tắc cơ bản của luật nhân quyền quốc tế, do đó, nó được qui định trong
các các văn kiện quốc tế về quyền con người. Quyền bình đẳng trước pháp luật, bao gồm ba
khía cạnh liên kết với nhau mà đôi khi được đề cập đến như các quyền hàm chứa
<i>(Unenumerated rights), đó là: (i) quyền không bị phân biệt đối xử, (ii) quyền được thừa nhận </i>
tư cách con người trước pháp luật , và (iii) có vị thế bình đẳng trước pháp luật và được pháp
luật bảo vệ một cách bình đẳng 239<sub>. Những khía cạnh này của quyền bình đẳng trước pháp </sub>
luật được trực tiếp ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế như: Tuyên ngôn Quốc tế về
nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc (Điều 7) và sau này được qui định tương ứng tại
Điều 26 Cơng ước về các quyền chính trị, dân sự của Liên hợp quốc năm 1966. Hiến pháp
<i>2013 đã nội luật hóa tinh thần của các văn kiện quốc tế, bằng qui định “Mọi người đều bình </i>


<i>đẳng trước pháp luật” và “khơng ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh </i>
<i>tế, văn hóa, xã hội” (Điều 16) làm cơ sở cho cho việc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp </i>


luật ở các lĩnh vực của đời sống xã hội.


<i>Ngun tắc suy đốn vơ tội </i>


Suy đốn vơ tội là một trong những nguyên tắc được qui định trong nhiều văn bản
pháp luật quốc tế như: Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, Qui
chế Rome về Tịa án hình sự quốc tế... và trong luật tố tụng hình sự phần lớn các quốc gia.
Nguyên tắc này ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước tư sản nhằm đề cao quyền con người
cũng như bảo đảm tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự. Triết lý hình thành nguyên tắc này trong hệ thống
<i>pháp luật xuất phát từ nhận thức “Nhà nước không khi nào được coi con người là phương </i>


<i>tiện để đạt mục đích, mà ngược lại phải coi con người là mục đích cần đạt tới”</i>240 và do vậy
nhà nước phải có nghĩa vụ bảo đảm các quyền tự do, bình đẳng của con người bằng cách xây
dựng một “hành lang pháp lý” ngăn ngừa việc lạm dụng quyền lực nhà nước của các nhân
viên cơng quyền xâm hại tới lợi ích công dân. Theo triết lý này, một người khi chưa bị kết tội


bằng bản án có hiệu lực pháp luật của tịa án thì họ khơng bị đối xử như người phạm tội, các
quyền con người của họ vẫn phải được tôn trọng và các cơ quan tiến hành tố tụng không
<b>được định kiến đối với họ trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án. </b>


<i>Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án </i>


Sự thật vụ án là đích mà bất kỳ mơ hình tố tụng nào cũng cần hướng tới, cho dù là mô
hình tố tụng tranh tụng hay mơ hình tố tụng thẩm vấn. Tuy nhiên, cách thức đi đến sự thật vụ
án cũng như trách nhiệm chứng minh sự thật lại khác nhau ở mỗi mơ hình tố tụng và trong
luật tố tụng mỗi quốc gia. Nếu như mô hình tố tụng tranh tụng cho rằng sự thật sẽ được làm
rõ qua tranh tụng tự do, cởi mở giữa các bên buộc tội và bên gỡ tội trên cơ sở các nguyên tắc
chủ đạo là tự định đoạt của các bên, ngun tắc hợp lí, suy đốn vơ tội, xác định sự thật hình
thức (sự thật của tịa án) thì mơ hình tố tụng thẩm vấn lại cho rằng thẩm phán giữ vai trị
trung tâm trong q trình xem xét, đánh giá các dữ kiện làm căn cứ để xác định sự thật vụ án.
Do đó, sự thật vụ án có thể và phải được tìm ra trong quá trình thẩm vấn, điều tra nên cần sự
hiện diện các nguyên tắc công tố (nguyên tắc về trách nhiệm khởi tố), nguyên tắc pháp chế
(hợp pháp), nguyên tắc suy đốn có tội và ngun tắc về xác định sự thật khách quan (xác
định chân lí vật chất).


239<i><sub> Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. ĐHQG Hà Nội, </sub></i>
2011, tr 154.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích </i>
<i>hợp pháp của bị hại, đương sự </i>


Bào chữa là một trong các quyền con người có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm
quyền được xét xử công bằng, là công cụ pháp lý của người bị cáo buộc phạm tội để có thể
đối trọng với bên buộc tội khi tranh tụng trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án hình sự.
Quyền bào chữa với nội dung bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị buộc tội trước các cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, thơng qua đó làm cho vụ án được giải quyết


khách quan, công bằng.


<i>Theo Từ điển luật học thì: “Bào chữa là việc dùng lý lẽ, chứng cứ để bảo vệ quyền và </i>


<i>lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo”</i>241<sub>. Tuy nhiên, nội hàm này còn hẹp so với qui định của </sub>
pháp luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam, chưa phản ánh hết các lĩnh vực thể hiện của
<i>quyền bào chữa trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Theo đó, “Quyền bào chữa là tổng </i>


<i>hòa các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ </i>
<i>sở phù hợp với qui định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của </i>
<i>cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hính sự của mình trong </i>
<i>vụ án hình sự”</i>242<sub>. Khái niệm này đã chỉ ra chủ thể của quyền bào chữa là người bị cáo buộc </sub>
phạm tội, bao gồm: Người bị giữ khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án hình sự. Họ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa, có quyền thu thập, đưa ra chứng cứ và quyền đưa các lý lẽ, yêu cầu chứng
minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp
khác của mình. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều kiện
và bảo đảm để người bị buộc tội thực hiện các quyền này theo qui định của pháp luật trong
<i>quá trình tiến hành tố tụng. Do vậy, quyền bào chữa được coi là một chuẩn mực bắt buộc (jus </i>


<i>cogens) của quyền được xét xử công bằng</i>243.


<b>3. Đánh giá thi hành các quy định về tòa án nhân dân trong Hiến pháp 2013 </b>


<i><b>3.1. Thi hành các quy định về vị trí, chức năng của tòa án nhân dân trong Hiến </b></i>
<i><b>pháp 2013 </b></i>


<i>3.1.1. Vị trí của tịa án nhân dân theo quy định của Hiến pháp 2013 </i>


Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư


pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tư pháp là bảo đảm để toà án là
trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm. Trong số các quan điểm và chủ trương của Đảng
Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp thì quan điểm và chủ trương đề cao vai trị của tồ
án trong q trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là quan điểm mang
tính đột phá. Theo đó, về mặt nhận thức cũng như quá trình tổ chức thực tiễn và xây dựng,
hoàn thiện pháp luật, phải bảo đảm để tồ án thực sự đóng vai trị là trung tâm của hệ thống
tư pháp và hoạt động xét xử của toà án là hoạt động trọng tâm của hoạt động tố tụng. Như
vậy, khâu đầu tiên trong các nỗ lực này là vấn đề nhận thức, trên cơ sở đó mà triển khai các
giải pháp tổ chức, hoạt động thực tiễn và hoàn thiện pháp luật. Thực tiễn triển khai cải cách
tư pháp những năm qua, kể từ khi có Nghị quyết số 49-NQ/TW cho thấy rằng, mặc dù đã đạt
được nhận thức chung về vị trí, vai trị của tồ án trong hệ thống tư pháp vẫn chưa có những
chuyển biến đáng kể trong thực tiễn. Tình hình này có nhiều ngun nhân, nhưng trước hết
là nhận thức lý luận về “khâu trung tâm” của hệ thống tư pháp. Từ đó cho thấy đang thiếu
những cơ sở pháp lý nhằm chuyển hoá ý chí và nhận thức, thành những cơ chế pháp lý,


241<i><sub> Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lí (2006), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp, tr. 33. </sub></i>
242<i><sub> Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội, Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự; Nxb. Đại học quốc gia Hà </sub></i>


Nội, tr. 115.


243<i><sub> Chương trình phát triển Liên hợp quốc (2010), Báo cáo quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

những bảo đảm về chức năng, thẩm quyền, về tổ chức cán bộ nhằm làm cho toà án thực sự
đóng vai trị là trung tâm và hoạt động xét xử thực sự là hoạt động trọng tâm.244<sub> </sub>


Vị trí đặc biệt của tồ án cũng xuất phát từ việc bảo đảm một quyền quan trọng của
bị can, bị cáo với tính cách là quyền con người về dân sự. Nhìn rộng ra, Cơng ước của Liên
hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị 1966 xác định, trong q trình tiến hành tố tụng,
<i>bị cáo cần “phải được xét xử nếu khơng có lý do chính đáng để tri hỗn”, được sớm đưa ra </i>
toà án hoặc cơ quan pháp luật có thẩm quyền tiến hành tố tụng và phải được xét xử trong


<i>thời hạn hợp lý hoặc trả tự do. “Bất cứ người nào do bị bắt hoặc bị giam giữ mà bị tước tự </i>


<i>do đều có quyền u cầu xét xử trước tồ án nhằm mục đích để Tồ án đó có thể quyết định </i>
<i>khơng chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự do nếu việc giam giữ là trái </i>
<i>pháp luật”. “Bất kỳ người nào đều có quyền địi hỏi việc xét xử công bằng và công khai do </i>
<i>một tồ án có thẩm quyền, độc lập, khơng thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để </i>
<i>quyết định về lời buộc tội trong vụ án hình sự hoặc xác định quyền và nghĩa vụ của người </i>
<i>đó trong tố tụng dân sự”.</i>245


Vị trí đặc biệt của toà án cũng thể hiện ở chỗ toà án đưa ra phán quyết nhân danh
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyền sửa bản án, hủy bản án chỉ thuộc về tòa
án thuộc cấp xét xử cao hơn (phúc thẩm, giám đốc thẩm) và phải dựa trên những căn cứ,
theo những trình tự do pháp luật quy định. Thẩm quyền đó khơng thể thuộc về một cơ quan
nào khác ngồi các tịa án cấp cao hơn. Bản án của tịa án có hiệu lực pháp luật phải được
các cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi trách
nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án của tòa án và phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc chấp hành đó (Điều 106 Hiến pháp năm 2013).


Như vậy, địa vị pháp lý hiến định của tòa án là điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện
trên thực tế vai trị và vị trí hiến định của tịa án bởi một lẽ đơn giản là tịa án chỉ có thể
hồn thành được sứ mệnh là cán cân công lý, là chỗ dựa đáng tin cậy của người dân khi vị
trí hiến định đó được bảo đảm bởi những quy định chặt chẽ và đầy đủ.


<i>3.1.2. Chức năng của tòa án nhân dân theo quy định của Hiến pháp 2013 </i>


<i>Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã </i>


<i>hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Như vậy, cơ sở pháp lý cao nhất đã có sự </i>


ghi nhận chính thức về chức năng thực hiện quyền tư pháp của tịa án. Theo GS.TSKH Đào


Trí Úc, quyền tư pháp chính là quyền xét xử và chủ thể của quyền tư pháp chính là các tịa
án.246<sub> Tuy nhiên, cần phân biệt giữa quyền tư pháp với phạm vi của quyền tư pháp và những </sub>
chủ thể hoạt động trong phạm vi đó. Ở Việt Nam, các chủ thể này là Viện kiểm sát nhân dân,
Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án. Tuy rằng có sự khác nhau về vị trí, chức năng và tổ
chức, phương thức hoạt động của tòa án, viện kiểm sát đều có những nhiệm vụ chung như:
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi
của cá nhân, tổ chức và nhà nước (các Điều 102 và Điều 107 Hiến pháp 2013). Do vậy, cùng
với TAND (chủ thể chính của quyền tư pháp), Viện kiểm sát nhân dân cũng có thể được xác
định là chủ thể tham gia thực hiện quyền tư pháp.


Quyền tư pháp là quyền xét xử, nhưng phạm vi triển khai quyền xét xử bao gồm từ
khởi đầu vụ án cho đến khi thi hành xong bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của
tịa án. Điều này có ý nghĩa định hướng quan trọng không chỉ đối với việc nhận thức chung
về quyền tư pháp, mà cịn có ý nghĩa đối với những vấn đề như: phạm vi và mức độ của


244<i><sub> Tham khảo: Đào Trí Úc, Xác định tịa án có vị trí trung tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm, nguồn: </sub></i>
(truy cập lần cuối: 20/9/2018).


245<sub> Các Điều 9.1; 92; 9.3; 14.1. </sub>


246<i><sub> Đào Trí Úc, “Quyền tư pháp trong cơ chế quyền lực nhà nước theo Hiến pháp 2013”, Bình luận khoa học Hiến </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

nguyên tắc tranh tụng (chỉ tồn tại ở phiên tòa, khi xét xử trước tòa án hay liên quan đến cả
hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố); tính chất và hoạt động thi hành án và quản lý thi hành
án. Đây là những vấn đề chưa được hiểu thống nhất trong quá trình thi hành các quy định của
hiến pháp và luật liên quan đến tòa án. Hiệu lực và hiệu quả của hoạt động thi hành án cũng
phụ thuộc vào sự liên hệ tất yếu của hoạt động đó với tịa án và vai trò kiểm tra, theo dõi của
tòa án đối với bản án đã được tuyên bởi tòa án.


<i><b>3.2. Thi hành các quy định về tổ chức của tòa án nhân dân trong Hiến pháp 2013 </b></i>


<i>3.2.1. Về tổ chức bộ máy của các Tòa án nhân dân </i>


<i>Ngày 28/7/2010, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 79-KL/TW về “Đề án đổi mới tổ </i>


<i>chức và hoạt động của Tòa án, Viện Kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số </i>
<i>49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Trong đó, xác định </i>


phương hướng tổ chức Tồ án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành
chính, gồm bốn (04) cấp là Tịa án nhân dân sơ thẩm khu vực, Tòa án nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án sơ
thẩm khu vực không phụ thuộc vào địa giới hành chính, xét xử hầu hết các loại vụ án theo
pháp luật về tố tụng; Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phúc thẩm các bản án đối với các bản án
sơ thẩm của Tòa án sơ thẩm khu vực mà chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng cáo, kháng
nghị; Tòa án nhân dân cấp cao xét xử các vụ án phúc thẩm các bản án sơ thẩm của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh và thực hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm đối với các Tòa án cấp dưới (Tòa án
khu vực và Tòa án nhân dân cấp tỉnh); còn Tòa án nhân dân tối cao chủ yếu tập trung vào
nhiệm vụ kiểm tra, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm, phát triển án lệ, hướng dẫn áp dụng pháp
luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử.247<sub> </sub>


<i>Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao </i>


<i>và các Tòa án khác do luật định”. Trên cơ sở đó, Luật tổ chức TAND năm 2014 đã tiến </i>


hành luật hóa hiến pháp và thể chế hóa nội dung các văn kiện của Đảng về cải cách tư pháp.
Theo đó, tổ chức TAND 04 cấp bao gồm: TAND tối cao; các TAND cấp cao; các TAND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
và tương đương; các Toà án quân sự (quy định tại Điều 3 Luật tổ chức TAND năm 2014). Tổ
chức bộ máy của các Toà án được quy định theo hướng chun mơn hố nhưng linh hoạt, tránh
cồng kềnh, gây tốn kém, lãng phí.



<i>Về Tịa án nhân dân tối cao </i>


Theo Luật tổ chức TAND năm 2014, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND
tối cao theo hướng tinh gọn với Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao có từ 13 đến 17 thẩm
phán TAND tối cao. TAND tối cao không thực hiện nhiệm vụ xét xử phúc thẩm mà chỉ thực
hiện nhiệm vụ giám đốc việc xét xử của các tòa án khác; xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
bằng hội đồng xét xử gồm năm (05) thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể Thẩm phán TAND
tối cao; tổng kết thực tiễn xét xử; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; quản
lý các toà án về tổ chức; xây dựng pháp luật theo sự phân công của Quốc hội, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội; bổ sung nhiệm vụ đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực,
trình độ của đội ngũ thẩm phán, hội thẩm và các chức danh khác của tịa án. Đồng thời, để cụ
<i>thể hóa quy định tại khoản 1 Điều 104 của Hiến pháp về việc: “TAND tối cao là cơ quan xét </i>


<i>xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, tại khoản 4 Điều 22 của Luật tổ </i>


<i>chức TAND năm 2014 quy định: “Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm </i>


<i>phán TAND tối cao là quyết định cao nhất, khơng bị kháng nghị”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Bên cạnh đó, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao có nhiệm vụ lựa chọn quyết định
giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và cơng bố án lệ
để các Tịa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử. Việc bổ sung nhiệm vụ lựa chọn, phát triển
và ban hành án lệ của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao sẽ đáp ứng yêu cầu phải kịp thời
giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử, khắc phục tình trạng quá tải và
chậm ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật. Hơn nữa, việc công bố án lệ sẽ giúp
người dân nắm rõ đường lối xét xử, dự báo được kết quả những vụ việc có liên quan đến
quyền và lợi ích của họ. Về phía tịa án, tham khảo án lệ, phân tích thiếu sót trong những vụ
án xét xử trước đó cũng sẽ giúp thẩm phán rút kinh nghiệm, hạn chế việc kết án oan, sai. Với
việc lựa chọn, ban hành án lệ, xác định trách nhiệm của thẩm phán và hội đồng xét xử phải


nghiên cứu, làm theo, chắc chắn sẽ có hiệu quả rất lớn trong việc hạn chế đến mức thấp nhất
các vụ việc xét xử oan, sai, hạn chế việc “lách luật” do tiêu cực của những người tiến hành tố
tụng, luật sư và những người tham gia tố tụng trong q trình giải quyết vụ án và do đó về
mặt xã hội, việc xây dựng và phát triển án lệ là một trong những phương thức hữu hiệu để
bảo đảm cơng lý, góp phần duy trì, ổn định trật tự pháp luật trong đời sống xã hội.


<i>Về Tòa án nhân dân cấp cao </i>


TAND cấp cao có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của
TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị; giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của toà án thuộc phạm vi thẩm quyền
theo lãnh thổ đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị bằng hội đồng ba (03) thẩm phán
hoặc Hội đồng toàn thể Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp cao.


Về cơ cấu tổ chức, TAND cấp cao gồm: Uỷ ban Thẩm phán (gồm chánh án, các phó
chánh án là thẩm phán cao cấp và một số thẩm phán cao cấp do Chánh án TAND tối cao
quyết định theo đề nghị của Chánh án TAND cấp cao), các tòa chuyên trách và bộ máy giúp
việc. Trong đó, Uỷ ban Thẩm phán giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng
nghị bằng hội đồng ba (03) thẩm phán hoặc hội đồng toàn thể Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp
cao theo quy định của pháp luật tố tụng. Các toà chuyên trách xét xử phúc thẩm các bản án,
quyết định sơ thẩm của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực pháp
luật có kháng cáo, kháng nghị. Bên cạnh các loại tòa chuyên trách hiện có trong cơ cấu tổ
chức của TAND như tịa hình sự, tịa dân sự, tịa hành chính, tịa kinh tế, tòa lao động, Luật
tổ chức TAND năm 2014 bổ sung tịa gia đình và người chưa thành niên để giải quyết các vụ
việc có liên quan đến người chưa thành niên. Trường hợp do nhu cầu cơng tác, cần thành lập
thêm tịa án chun trách khác trong TAND cấp cao thì Chánh án TAND tối cao đề nghị Ủy
ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.



<i>Về Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

khác trong TAND cấp tỉnh thì Chánh án TAND tối cao đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội
xem xét, quyết định.


<i>Về Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương </i>


TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có nhiệm vụ,
quyền hạn xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ, việc thuộc thẩm quyền của toà án (như hiện nay)
và giải quyết các loại việc khác theo quy định của pháp luật (như xem xét, quyết định áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND).


Về cơ cấu tổ chức, tương tự như cơ cấu tổ chức của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có thể có các
tịa chun trách bao gồm: tịa hình sự, tịa dân sự, tịa gia đình và người chưa thành niên, tồ
xử lý hành chính. Việc thành lập các tịa chun trách ở TAND huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tương đương phải tùy thuộc vào quy mô về công việc và đội ngũ thẩm
phán, công chức của từng đơn vị tịa án. Ở những đơn vị có số lượng cơng việc lớn, biên chế
nhiều thì có thể thành lập tòa chuyên trách. Việc thành lập tòa chuyên trách cụ thể nào trong
số các toà chuyên trách nêu trên ở mỗi TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương do Chánh án TAND tối cao quyết định.


<i>Về Tòa án quân sự </i>


Theo quy định tại Điều 49 của Luật tổ chức TAND năm 2014 thì các tồ án qn sự
được tổ chức trong Quân đội Nhân dân Việt Nam để xét xử những vụ án mà bị cáo là quân
nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy định của luật. Về cơ bản, nội dung các quy định
về tổ chức của tòa án quân sự được kế thừa từ các quy định hiện hành, nhưng được chỉnh lý
và cơ cấu lại để bảo đảm tính hợp lý và khoa học.



<i>3.2.2. Về tổ chức xét xử </i>
<i>Thẩm phán </i>


<i>Khoản 3 Điều 105 Hiến pháp 2013 quy định: “Việc bổ nhiệm, phê chuẩn, miễn nhiệm, </i>


<i>cách chức, nhiệm kỳ của Thẩm phán và việc bầu, nhiệm kỳ của Hội thẩm do luật định”. Quy </i>


định này của Hiến pháp 2013 bao hàm những nội dung mới so với Hiến pháp năm 1992 như sau:


<i>(i) Về thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán, Hiến pháp 2013 quy định việc bổ nhiệm, miễn </i>


nhiệm, cách chức Thẩm phán TAND tối cao, thẩm phán khác thuộc thẩm quyền của Chủ tịch
nước; đối với việc bổ nhiệm, miễn nhiệm hoặc cách chức Thẩm phán TAND tối cao có sự
phê chuẩn của Quốc hội. Ý nghĩa lý luận của quy định này nhằm đề cao địa vị pháp lý của
thẩm phán, đặc biệt là địa vị pháp lý của Thẩm phán TAND tối cao. Bởi vì, chính đội ngũ
thẩm phán là những người trực tiếp giải quyết, xét xử các loại vụ án và thực hiện quyền tư
pháp. Chất lượng giải quyết, xét xử và thực hiện quyền tư pháp của các thẩm phán là biểu
hiện của nền cơng lý của quốc gia. Do đó, họ được xã hội thừa nhận có địa vị pháp lý cao và
được tôn trọng là phù hợp với tiến bộ xã hội và phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Ý nghĩa
thực tiễn của quy định này là nhằm xác định vị trí của thẩm phán khơng phụ thuộc vào địa
phương nào, đảm bảo hoạt động của thẩm phán nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Đối với Thẩm phán TAND tối cao thì với quy định của hiến pháp nêu trên
bao hàm ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì, Thẩm phán TAND tối cao sẽ có số lượng hạn
chế so với số lượng Thẩm phán TAND tối cao hiện nay.248<sub> Thẩm phán TAND tối cao do Chủ </sub>
tịch nước bổ nhiệm và được Quốc hội phê chuẩn. Thủ tục này tương tự như thủ tục bổ


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

nhiệm, phê chuẩn các thành viên Chính phủ. Do vậy, Thẩm phán TAND tối cao phải là
những người ưu tú nhất trong hệ thống tòa án và cơ quan tư pháp, có nhiều kinh nghiệm
trong công tác giải quyết xét xử các loại vụ án, có uy tín cao trong các cơ quan tư pháp và
trong xã hội, họ thực sự là biểu tượng của công lý của Nhà nước.



<i>(ii) Đối với các quy định về ngạch thẩm phán, tiêu chuẩn thẩm phán, quy trình tuyển </i>
<i>chọn, nhiệm kỳ thẩm phán, mặc dù Hiến pháp 2013 không nêu nhưng với ý nghĩa thẩm phán </i>


do Chủ tịch nước bổ nhiệm, vì vậy những nội dung nêu trên cũng địi hỏi phải có những đổi
mới theo hướng:


<i>Về ngạch thẩm phán, theo quy định cũ thì có ba (03) ngạch thẩm phán là Thẩm phán </i>


TAND tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp. Thực tiễn hoạt động của tòa án cho
thấy, quy định này có nhiều bất cập trong tổ chức thực hiện việc bổ nhiệm, điều động thẩm
phán cũng như trong hoạt động xét xử khi phân cơng Thẩm phán sơ cấp ở các tịa án trong hệ
thống tịa án. Vì vậy, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán và phù hợp với quy định
của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND năm 2014 đã bổ sung những quy định tiêu
chuẩn, điều kiện và trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán với nhiều nội dung mới. Trong đó,
thẩm phán được phân định theo 04 ngạch gồm: (1) Thẩm phán TAND tối cao, (2) Thẩm
phán cao cấp, (3) Thẩm phán trung cấp, (4) Thẩm phán sơ cấp.Cùng với việc nâng cao các
tiêu chuẩn, điều kiện để bổ nhiệm thẩm phán, Luật tổ chức TAND năm 2014 cũng quy định
về việc nhà nước có chính sách ưu tiên đối với thẩm phán nhằm góp phần bảo đảm cho
thẩm phán yên tâm công tác, xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.


<i>Về tiêu chuẩn thẩm phán, cũng phải sửa đổi theo hướng nâng cao tiêu chuẩn và phải </i>


qua kỳ thi tuyển chọn thẩm phán quốc gia. Tiêu chuẩn thẩm phán gồm các tiêu chuẩn về
chính trị, đạo đức, nghiệp vụ, thời gian làm việc... Với quy định về tiêu chuẩn như vậy và
qua kỳ thi tuyển chọn quốc gia, có lẽ nguồn tuyển chọn thẩm phán nên được mở rộng hơn so
với hiện nay.


<i>Về quy trình tuyển chọn thẩm phán, xuất phát từ mục đích thẩm phán là của không </i>



phụ thuộc vào địa phương, do đó việc thi tuyển, tuyển chọn phải do Hội đồng tuyển chọn
Thẩm phán quốc gia, thay thế cac Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán 63 tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương như hiện nay. Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán quốc gia có trách nhiệm
tuyển chọn thẩm phán để trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, đối với Thẩm phán TAND tối cao,
Hội đồng này có trách nhiệm giới thiệu và tư vấn với Chủ tịch nước để Chủ tịch nước giới
thiệu trước Quốc hội và căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm
phán TAND tối cao.


<i>Về nhiệm kỳ thẩm phán, thẩm phán là chức danh nghiệp vụ, không phải là chức vụ </i>


lãnh đạo quản lý, nên việc gắn nhiệm kỳ cho chức danh thẩm phán phát sinh rất nhiều bất
cập trong thực tiễn hoạt động của thẩm phán. Chính vì vậy, nhiệm kỳ của thẩm phán nên chỉ
có trong thời kỳ đầu khi mới được bổ nhiệm thẩm phán, cụ thể là nhiệm kỳ đầu tiên của thẩm
phán là 5 năm tính từ ngày được Chủ tịch mới bổ nhiệm. Trong trường hợp được bổ nhiệm
lại làm thẩm phán thì khơng nên có nhiệm kỳ mà làm thẩm phán cho đến khi nghỉ hưu, trừ
trường hợp bị cách chức, bãi nhiệm, miễn nhiệm thẩm phán. Đối với Thẩm phán TAND tối
cao khơng có nhiệm kỳ, nghĩa là khi được Chủ tịch nước bổ nhiệm, Quốc hội phê chuẩn thì
Thẩm phán TAND tối cao làm việc cho đến khi nghỉ hưu.


<i>Về độ tuổi làm việc của thẩm phán, Luật Tổ chức TAND 2014 nên có quy định về độ </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>Hội thẩm </i>


Luật tổ chức TAND năm 2014 cũng bổ sung các quy định về hội thẩm nhằm khắc
phục những tồn tại, bất cập trong tổ chức và hoạt động của hội thẩm TAND, bảo đảm việc
tham gia của hội thẩm vào công tác xét xử là phương thức để nhân dân thực hiện quyền tư
pháp. Đồng thời, thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử. Theo đó,
Luật tổ chức TAND 2014 khơng quy định việc tòa án quản lý hội thẩm mà hội thẩm được
tổ chức thành Đoàn Hội thẩm. Đoàn Hội thẩm hoạt động theo quy chế do Uỷ ban thường vụ
Quốc hội ban hành (khoản 1 Điều 91).



<i><b>3.3. Thi hành các quy định về nguyên tắc hoạt động của tòa án nhân dân trong </b></i>
<i><b>Hiến pháp 2013 </b></i>


Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định các nguyên tắc cơ bản tổ chức và hoạt động
<i>của TAND. Đó là: “1. Việc xét xử sơ thẩm của Tồ án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ </i>


<i>trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn; 2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân </i>
<i>theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm </i>
<i>phán, Hội thẩm; 3. Toà án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí </i>
<i>mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí </i>
<i>mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tịa án nhân dân có thể xét xử kín; 4. Tồ </i>
<i>án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút </i>
<i>gọn; 5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; 6. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc </i>
<i>thẩm được bảo đảm; 7. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp </i>
<i>của đương sự được bảo đảm.” Theo quy định này thì Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa và có </i>


bổ sung cho chính xác, phù hợp với thực tiễn và tinh thần cải cách tư pháp một số nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của TAND. Đó là:


<i>Nguyên tắc xét xử có hội thẩm tham gia </i>


Hiến pháp năm 2013 quy định Hội thẩm tham gia trong xét xử ở cấp sơ thẩm; còn
việc xét xử ở cấp phúc thẩm là khơng bắt buộc. Theo đó, Luật tổ chức TAND 2014249<sub> và các </sub>
đạo luật tố tụng khác tiếp tục triển khai thi hành trong từng lĩnh vực cụ thể như sau:


Điều 11 Bộ luật tố tụng dân sự250<sub> ghi nhận nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội </sub>
thẩm nhân dân tham gia xuất phát từ thực tiễn để là đảm bảo hoạt động xét xử diễn ra thuận
lợi, khách quan trên cơ sở tuân thủ quy định pháp luật. Cũng theo BLTTDS , Hội thẩm nhân
dân chỉ tham gia xét xử các vụ án dân sự còn đối với việc dân sự thì Hội thẩm nhân dân


không tham gia. Điều đó là hồn tồn phù hợp bởi tính chất của vụ án dân sự là các tranh
chấp, mâu thuẫn mang tính phức tạp hơn, quyền và lợi ích của các đương sự ảnh hướng lớn
hơn, nên sự tham gia của Hội thẩm nhân dân là đảm bảo sự tham gia của người dân vào việc
xét xử của Tịa án, tăng cường tính cơng khai, minh bạch.


Điều 22 BLTTHS 2015251<sub> sự sửa đổi, bổ sung nhất định theo hướng bảo đảm sự đầy </sub>
đủ và chính xác đối với chế định về Hội thẩm nhân dân. Theo đó, BLTTHS hiện hành dùng
<i>cụm từ “Hội thẩm” với nghĩa bao hàm Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân thay cho </i>
cụm từ Hội thẩm nhân dân; cụ thể hố khái niệm Tồ án thành Tồ án nhân dân và Toà án
quân sự; thay từ ở thành từ của cho chính xác hơn. Việc xét xử của Tồ án có Hội thẩm tham
gia. Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm quân nhân là người được bầu hoặc cử tham gia vào hoạt


249<i><sub> Điều 8 Luật tổ chức TAND 2014 quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của tịa án có hội thẩm tham gia theo quy định </sub></i>


<i>của luật tố tụng, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. </i>


250<i><sub> Khoản 1 Điều 11 BLTTDS 2015 quy định: “Việc xét xử sơ thẩm vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia </sub></i>


<i>theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.” </i>


251<i><sub> Điều 22 BLTTHS 2015 quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của Tịa án có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

động xét xử. Với kinh nghiệm sống của mình, cùng với kiến thức chuyên môn Hội thẩm
nhân dân, Hội thẩm quân nhân góp phần quan trọng vào việc làm sáng tổ, xác định sự thật
của vụ án. Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm quân nhân là người trực tiếp làm việc, sống và tham
gia sinh hoạt xã hội cùng quần chúng nhân dân, họ đem đến phiên toà những suy nghĩ và ý
kiến của quần chúng về vụ án, góp phần giúp Tồ án xử lý vụ án chính xác, cơng minh. Để
bảo đảm cho Hội thẩm tham gia hoạt động xét xử có hiệu quả, một mặt, các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội, các cơ sở kinh tế, các đơn vị vũ trang, các địa phương nơi Hội thẩm
cơng tác và cư trú có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho Hội thẩm thực hiện tốt nhiệm


vụ của mình, và mặt khác Hội thẩm phải tự mình bổi dưỡng kiến thức pháp lý, nâng cao ý
thức trách nhiệm tham gia công tác xét xử.


Mặc dù được ban hành trước Hiến pháp 2013 nhưng Luật tố tụng hành chính cũng có
<i>quy định việc tham gia của hội thẩm với nội dung: “Việc xét xử vụ án hành chính có Hội </i>


<i>thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Luật này.” </i>
<i>Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập </i>


<i>Hiến pháp 2013 quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo </i>


<i>pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, </i>
<i>Hội thẩm”. Theo đó, việc thi hành điều khoản này bao gồm những nội dung sau: (i) Tiến </i>


trình Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử là độc lập trong mọi hoạt động của mình theo quy
định của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi kết thúc phiên tịa xét xử chứ
khơng chỉ giới hạn bởi “khi xét xử” như quy định của Hiến pháp năm 1992; (ii) Yêu
<i>cầu “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội </i>


<i>thẩm” trong công tác xét xử và cũng là đảm bảo cho nguyên tắc này phải được thực thi trong </i>


thực tiễn xét xử của thẩm phán và hội thẩm. Bổ sung này nhấn mạnh tầm quan trọng cũng
như thái độ dứt khoát của nhà nước đối với việc can thiệp vào hoạt động xét xử của tòa án,
bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế.


<i>Triển khai nguyên tắc hiến định này, BLTTHS năm 2015 (Điều 23) qui định: “Thẩm </i>


<i>phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá </i>
<i>nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Cơ quan, tổ chức, cá nhân can </i>
<i>thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào thì tùy tính chất, </i>


<i>mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách </i>
<i>nhiệm hình sự theo quy định của luật.”. Tượng tự như vậy, BLTTDS năm 2015 (Điều 12) </i>


<i>cũng qui định nguyên tắc đọc lập xét xử với nội dung:“Khi xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán </i>


<i>và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở </i>
<i>Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ.” </i>


<i>Nguyên tắc xét xử tập thể </i>


<i>Đối với nguyên tắc xét xử tập thể, Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân xét xử </i>


<i>tập thể và quyết định theo đa số trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Yêu cầu “trừ </i>
<i>trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” là nội dung mới của nguyên tắc này. Thủ tục rút gọn </i>


được quy định trong pháp luật tố tụng252<sub> theo hướng những vụ việc đơn giản, rõ ràng thì chỉ </sub>
cần một (01) thẩm phán xem xét giải quyết mà không cần hội đồng xét xử như hiện nay để
những vụ việc đó được giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn đảm bảo đúng pháp luật
và đạt hiệu quả, tiết kiệm về thời gian cho những người tham gia tố tụng.


Tinh thần, nội dung của nguyên tắc hiến định này được triển khai trong các qui định
của BLTTDS năm 2015 (Điều 14), BLTTHS năm 2015 ( Điều 24)253<sub> làm cơ sở cho hoạt </sub>
động xét xử của tịa án trong q trình giải quyết vụ án.


252<sub> Được luật hóa tại các Điều 14 BLTTDS 2015, Điều 24 BLTTHS 2015, Điều 16 Luật TTHC 2010. </sub>


253<i><sub> Điều 24 BLTTHS năm 2015: “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>Nguyên tắc xét xử công khai </i>



Thay cho quy định trường hợp ngoại lệ do luật định trong Hiến pháp năm 1992, Hiến
pháp năm 2013 quy định cụ thể điều kiện cho phép tịa án xét xử kín. Đó là trong trường hợp
đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành
niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì tồ án có thể xét xử kín
(khoản 3 Điều 103).


Nhằm luật hóa hiến pháp trong lĩnh vực dân sự, BLTTDS năm 2015 đã nhấn mạnh
nguyên tắc xét xử kịp thời và công bằng – một nguyên tắc mà trước đây BLTTDS năm 2004
chưa đề cập tới. Việc Tồ án tiến hành xét xử cơng khai góp phần đảm bảo rằng hoạt động
xét xử của Toà án nhân dân là thể hiện sự dân chủ và phản ánh giá trị của cộng đồng để tạo
niềm tin cho người dân rằng trình tự cũng như kết quả của việc tố tụng là công bằng. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp thì Tịa án vẫn có thể tiến hành xét xử kín trong các trường
hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người
chưa thành niên hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia
đình của đương sự theo u câu chính đáng của họ (quy định tại khoản 2 Điều 15 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015).


Việc thi hành nguyên tắc này trong tố tụng hình sự và tố tụng hành chính được áp
dụng khá tương đồng như sau: Tòa án xét xử cơng khai, mọi người đều có quyền tham dự
phiên tòa, trừ trường hợp do BLTTHS quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà
nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư
theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tịa án có thể xét xử kín nhưng phải tun án cơng
khai. (Điều 25 BLTTHS 2015)254.


<i>Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp </i>
<i>pháp của đương sự </i>


Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con người một cách tồn diện, cơng bằng, Hiến
pháp năm 2013 ngoài việc quy định quyền bào chữa của bị can, bị cáo, đã bổ sung việc bảo
đảm quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của các đương sự khác như người bị hại, nguyên đơn dân


sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong hoạt động xét xử của tòa án.
Có thể thấy đây là một nguyên tắc đặc thù của luật tố tụng hình sự. Việc thực hiện nguyên
tắc này trên thực tế đã góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; giúp cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và toà án giải quyết
vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng hình sự cho
thấy, việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa được thực hiện
một cách đầy đủ, nhiều cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những người
tham gia tố tụng vẫn còn xem nhẹ nguyên tắc này. Tình trạng bắt, giam giữ, xét xử oan sai
vẫn còn. Mặt khác, vấn đề lý luận của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa: khái niệm, chủ
thể, nội dung của quyền bào chữa; khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo… vẫn cần được nghiên cứu và làm sáng tỏ. Tinh thần này của Hiến
pháp năm 2013 được triển khai và chi tiết trong BLTTHS năm 2015 (Điều 16) qui định
nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
<i>pháp của bị hại, đương sự” với nội dung: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật </i>


<i>sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách </i>
<i>nhiệm thơng báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện </i>
<i>đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này.”. </i>


Trên cơ sở nguyên tắc cơ bản này, BLTTHS năm 2015 qui định chi tiết những bảo đảm về


254<i><sub> Điều 17 Luật TTHC 2010 quy định: “Việc xét xử vụ án hành chính được tiến hành cơng khai. Trường hợp cần </sub></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

mặt pháp lý để quyền bào chữa trở thành hiện thực trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án
mà đặc biệt là các qui định của chương V “ Bào chữa, bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị hại, đương sự”.


<i>Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm </i>


<i>Hiến pháp 2013 bổ sung nguyên tắc mới về hoạt động của tịa án, đó là: “Ngun tắc </i>



<i>tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Thực tiễn xét xử trong thời gian vừa qua cho thấy </i>


mô hình tố tụng tại phiên tịa của Việt Nam theo hướng thẩm vấn kết hợp với tranh tụng, các
chứng cứ, tình tiết của vụ án đã được những người tham gia tố tụng trình bày khách quan tại
phiên tịa và trên cơ sở đó, hội đồng xét xử ra các phán quyết nhằm đảm bảo các phán quyết
đó chính xác, đúng pháp luật. Vì vậy, chất lượng xét xử của tòa án các cấp trong thời gian
vừa qua cũng đã được nâng lên, giảm các vụ, việc oan, sai. Từ cơ sở thực tiễn đó và nhằm
thể chế các quan điểm của Đảng về xác định mơ hình tố tụng Việt Nam, Hiến pháp 2013 đã
quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo. Xuất phát từ quy định này của
Hiến pháp, pháp luật tố tụng đã quy định chi tiết, cụ thể về tranh tụng tại phiên tòa của tất cả
các lĩnh vực xét xử như sau:


Điều 24 BLTTDS 2015 quy định: Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này. Đương sự, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ
<i><b>kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ </b></i>
đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp
luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của
người khác theo quy định của Bộ luật này. Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải
được xem xét đầy đủ, khách quan, tồn diện, cơng khai, trừ trường hợp không được công khai
<i>theo quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này. Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi </i>
những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.


Tương tự, tranh tụng trong tố tụng hình sự được bảo đảm. Điều 26 BLTTHS 2015 đã
mở rộng phạm vi tranh tụng hơn, không chỉ thể hiện trong giai đoạn xét xử mà thời điểm
xuất hiện tranh tụng bắt đầu từ giai đoạn khởi tố đến giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Ở
mỗi giai đoạn khác nhau thì biểu hiện của tranh tụng cũng khác nhau, ở các giai đoạn khởi
tố, điều tra, truy tố thì tương đối mờ nhạt và tranh tụng được thể hiện đậm nét, rõ ràng nhất ở


giai đoạn xét xử, đặc biệt là trong phần thủ tục tranh luận tại phiên tịa sơ thẩm. Do đó, đã có
<i>quan điểm đánh đồng giữa tranh tụng và tranh luận. Với việc quy định các bên “đều có </i>


<i>quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ </i>
<i>sự thật khách quan của vụ án” trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là một quy </i>


định tiến bộ tạo ra cơ sở pháp lý định hướng cho các quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 nhằm đảm bảo cho các bên có điều kiện để tranh tụng hiệu quả.


<i>Một nội dung tiến bộ khác trong nguyên tắc trên là: “… kiểm sát viên, bị cáo, người </i>


<i>bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và </i>
<i>tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước tịa án” (Đoạn 2 Điều 26 BLTTHS 2015). Nội dung này </i>


cũng đã từng được ghi nhận trong nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tịa án trong
BLTTHS năm 2003.255<sub> Để thực hiện được điều này, BLTTHS năm 2015 đặt ra u cầu tịa </sub>
án phải có trách nhiệm “tạo điều kiện”. Để tranh tụng có hiệu quả nhằm làm rõ sự thật khách
quan của vụ án thì một trong những điều kiện quan trọng nhất là các bên buộc tội và bên gỡ
tội phải thật sự bình đẳng với nhau và Tịa án phải đứng ở vị trí trung gian, độc lập, khách
quan, là trọng tài bảo đảm cho hai bên thực hiện chức năng của mình, tịa án khơng có nghĩa


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

vụ chứng minh tội phạm256<sub> mà chứng minh tội phạm là việc của bên buộc tội. Điều luật đã </sub>
không thể hiện được những nội dung này. Mặt khác, việc liệt kê không theo hướng tách bạch
và phân định rõ các chủ thể tham gia tố tụng tương ứng với bên buộc tội, bên gỡ tội dẫn đến
quy định khác rườm rà, khơng rõ ràng. Ngồi ra, cịn có những điểm khơng thể hiện được là
ngun tắc như: Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án phải chuyển cho Tòa án đầy đủ, hợp
pháp; phiên tịa phải có đầy đủ người tham gia tố tụng trừ trường hợp vắng mặt vì lý do bất
khả kháng, do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác mà luật quy định.


Nội dung của nguyên tắc tranh tụng tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015


<i>còn thể hiện: “Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vơ tội, các tình tiết tăng </i>


<i>nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác </i>
<i>định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng </i>
<i>và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ </i>
<i>tại phiên tòa”. Điều này cũng cho thấy, hoạt động tranh tụng cơng khai tại phiên tịa là sự thể </i>


hiện tập trung nhất, cơ bản nhất của nguyên tắc tranh tụng. Bản chất của quá trình tranh tụng
này là việc các bên qua quá trình tranh tụng đưa ra những trình bày, tranh luận để làm rõ các
chứng cứ buộc tội và gỡ tội tại phiên tịa. Thơng qua tranh tụng giữa các bên, Tịa án có thể
hiểu rõ hơn các tình tiết của tồn bộ vụ án, tái hiện lại vụ án một cách trung thực, khách
quan, trên cơ sở đó vận dụng chính xác của quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự
để đưa ra một phán quyết đúng đắn nhất. Và “bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào
kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tịa”. Việc tranh tụng chỉ
là hình thức nếu kết quả tranh tụng không được thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án.
Đây là một trong những điểm mới, tiến bộ được ghi nhận trong BLTTHS năm 2015.


<i>Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm </i>


Nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc xuyên suốt của hệ thống tư pháp của bất kỳ
một quốc gia nào, được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người và pháp luật
của mọi quốc gia. Thực hiện hai cấp xét xử là một trong những biện pháp bảo vệ quyền con
người hữu hiệu, đồng thời bảo đảm cho hoạt động tư pháp thận trọng nhưng có điểm dừng,
tránh kéo dài, chậm trễ.


Hiến pháp năm 2013 không quy định nguyên tắc xét xử trực tiếp, nguyên tắc xét xử
liên tục vì khơng đặc trưng cho hoạt động xét xử và phù hợp với thực tiễn hoạt động tư pháp
ngày càng phức tạp, thường xuyên kéo dài như hiện nay. Đồng thời, tạo điều kiện để tồ án
hoạt động có hiệu quả về mặt thời gian, chi phí vật chất; sử dụng cơng nghệ kỹ thuật số hiện
đại; bảo đảm an toàn cho những người tham gia tố tụng khi cần thiết.257<sub> Luật hóa qui định </sub>


này của hiến pháp, BLTTDS năm 2015 (Điều 17) và Điều 27 BLTTHS năm 2015 qui định
nguyên tắc “chế độ xét xử sơ thẩm , phúc thẩm được bảo đảm”./.


256<sub> Trong nguyên tắc “Xác định sự thật của vụ án” so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì Điều 15 Bộ luật Tố </sub>
tụng hình sự năm 2015 đã có sự sửa đổi về mặt từ ngữ, không liệt kê các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án mà quy định “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng”, việc
sửa đổi này cũng khơng loại trừ Tịa án phải có trách nhiệm chứng minh tội phạm.


257<i><sub> Trần Văn Độ, Vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt </sub></i>


<i><b>Nam, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp: </b></i>


</div>

<!--links-->

×