Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

skkn HƯỚNG dẫn học SINH KHAI THÁC NHỮNG TRI THỨC KHOA học, văn hóa, NGHỆ THUẬT TRONG tác PHẨM của NGUYỄN TUÂN CHO học SINH THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 79 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH
TRƯỜNG THPT TRẦN HƯNG ĐẠO

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
HƯỚNG DẪN HỌC SINH
KHAI THÁC NHỮNG TRI THỨC KHOA HỌC,
VĂN HÓA, NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM
CỦA NGUYỄN TUÂN CHO HỌC SINH THPT

Tác giả: TRẦN THỊ THANH VÂN
Trình độ chun mơn: Ngữ văn
Chức vụ: Giáo viên
Nơi cơng tác: Trường THPT Trần Hưng Đạo

Nam Định, ngày 20 tháng 6 năm 2019
1


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Hướng dẫn học sinh khai thác những tri thức khoa học, văn hóa,
nghệ thuật trong tác phẩm của Nguyễn Tuân cho học sinh THPT
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Ngữ văn
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ năm học 2018- 2019
4. Tác giả :
Họ và tên: Trần Thị Thanh Vân

Giớí tính: Nữ

Ngày sinh: 19-04-1977
Nơi thường trú: 19 Nguyễn Thị Trinh, P.Lộc Hạ, Tp.Nam Định
Trình độ chun mơn, nghiệp vụ: Cử nhân sư phạm Ngữ văn


Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường THPT Trần Hưng Đạo – TP Nam Định
Điện thoại: 0917085658
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100%
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THPT Trần Hưng Đạo - TP Nam Định
Địa chỉ:
Điện thoại: 0228.3847042

2


MỤC LỤC
I. Điều kiện, hoàn cảnh tạo ra sáng kiến

5

II. Mô tả giải pháp

6

1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến

6

2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến

7

2.1. Trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về tác giả Nguyễn Tuân


7

và tác phẩm của nhà văn trong chương trình Ngữ văn lớp 12 và 11
2.2. Cách thức tổ chức hoạt động hướng dẫn HS khai thác những tri thức
12

trong tác phẩm của Nguyễn Tuân
III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại

36

1. Đối tượng thực nghiệm và địa bàn thực nghiệm

36

2. Thời gian thực nghiệm

36

3. Nội dung thực nghiệm và cách thức tiến hành thực nghiệm

37

4. Cách đánh giá kết quả thực nghiệm

38

5. Giáo án thực nghiệm


38

6. Kết quả thực nghiệm

52

7. Tổ chức hoạt động trải nghiệm

54

IV. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền

57

Phụ lục

58

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GV

: Giáo viên

HS

: Học sinh


VB

: Văn bản

PPDH

: Phương pháp dạy học

THPT

: Trung học phổ thông

SGK

: Sách giáo khoa

4


BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới giáo dục
Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 khố XI về đổi mới
căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo từ năm học 2014 – 2015, với mục tiêu tổng quát là:
tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; […]. Đa dạng
hóa nội dung, tài liệu học tập; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.
Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học có thể huy
động nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các
nhiệm vụ học tập, thơng qua đó hình thành những kiến thức, kĩ năng mới, từ đó phát triển

được những năng lực cần thiết.
Để đạt mục tiêu trên, giáo viên phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích
cực, chú trọng các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn, đặc biệt là phương pháp dạy học
tích hợp; vận dụng các hình thức tổ chức dạy học trong lớp và ngoài lớp.
Với chun đề này, tơi muốn góp một tiếng nói nhỏ nhằm đáp ứng những yêu cầu nói trên
của Giáo dục nói chung, bộ mơn Ngữ Văn nói riêng.
2. Xuất phát từ sự đổi mới dạy học Ngữ văn ở nhà trường phổ thông
Đổi mới PPDH Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực người học, cần chú ý đến
việc tổ chức dạy học mơn Ngữ văn theo hướng tích hợp. Với đặc trưng của mình, mơn Ngữ
văn cho phép thực hiện việc tích hợp như một yêu cầu tự thân. Bởi tác phẩm văn học vẫn
luôn được coi là nghệ thuật của ngôn từ, việc tiếp nhận văn bản văn học trước hết là tiếp
xúc với phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ; mặt khác, việc thực hành tạo lập các văn bản
thông dụng trong nhà trường và xã hội cũng sử dụng ngôn ngữ làm công cụ. Như vậy, cả
ba phân môn Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn trong môn học này sẽ được phối hợp
triển khai để cùng hướng tới một mục đích chung là nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt
cho HS. Tính tích hợp của CT và SGK Ngữ văn cịn thể hiện ở mối liên thông giữa kiến
thức sách vở và kiến thức đời sống, liên thông giữa kiến thức, kĩ năng của môn Ngữ văn
với các môn học thuộc ngành khoa học xã hội nhân văn và các ngành học khác. Do đó, HS
cần vận dụng tổng hợp những hiểu biết về ngơn ngữ, văn hóa, văn học, lịch sử, địa lí, phong
tục, vốn sống, vốn tri thức và kinh nghiệm của bản thân.

5


II. Mô tả giải pháp
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
1.1. Nguyễn Tuân là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam và là một trong những tác giả
tiêu biểu của nền văn học Việt nam thời hiện đại. Trong chương trình học cấp THPT, tác
phẩm của nhà văn được học ở cả hai lớp 11 và 12. Ở chương trình lớp 11, HS học tác phẩm
“Chữ người tử tù” và ở chương trình lớp 12, học tác phẩm “Người lái đị sơng Đà”. Như

vậy, tác phẩm của Nguyễn Tuân được lựa chọn trong chương trình THPT là sáng tác của
Nguyễn Tuân cả trước cách mạng và sau cách mạng.
Nguyễn Tuân viết văn với một phong cách tài hoa, uyên bác và được xem là bậc thầy
trong việc sáng tạo và sử dụng tiếng Việt. Trong từng trang văn của mình, Nguyễn Tuân
đều chứng tỏ những hiểu biết uyên bác, sâu sắc về nhiều lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt nhà
văn có thiên hướng thể hiện những ấn tượng đậm nét mãnh liệt, tô đậm cái phi thường nơi
cái bình thường, những con người bình dị nhưng ở họ có phẩm chất cao quý. Ở đó vẫn là
dáng vẻ của một nét bút cẩn thận đến chính xác từng từ, từng câu, từng chữ... Vẫn là một
Nguyễn Tuân với sức liên tưởng đa dạng, phong phú, sắc sảo.
1.2. Dạy học đọc hiểu văn bản có rất nhiều cách khác nhau. Trong các giờ đọc hiểu
thường thì giáo viên chỉ đi phân tích ngơn từ của văn bản một cách cô lập mà nhiều khi
không đặt tác phẩm trong các khía cạnh khác để khai thác như địa lí hay lịch sử... Hiện
nay, PPDH tích hợp đang được vận dụng trong việc dạy học Ngữ Văn và đem lại hiệu quả
tốt, nó được vận dụng trong từng bài dạy. PPDH tích hợp hướng việc tới hoạt động hóa,
tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, lấy chủ thể người học làm xuất phát điểm
và đích đến. Vì thế nhiều phương pháp và kĩ thuật giảng dạy tích cực, các hình thức tổ chức
dạy học được đưa vào ứng dụng trong hoạt động dạy học Ngữ văn. Tuy nhiên vấn đề dạy
học văn bản theo hướng tích cực vẫn cịn nhiều lúng túng với giáo viên và học sinh.
Do đó, tơi đã mạnh dạn đề xuất một hướng dạy để giúp HS chủ động trong việc tìm
kiếm, khai thác, tích lũy nguồn tư liệu; tạo cho HS thói quen tự học, tự làm việc; huy động
kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập;
bộc lộ các năng lực tư duy, giao tiếp, tiếp nhận, sáng tạo,… theo nhều cách, bằng nhiều
phương tiện; đồng thời cũng tạo được hứng thú trong các giờ học trên lớp.

6


2. Mơ tả giải pháp sau khi có sáng kiến
2.1. Trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về tác giả Nguyễn Tuân và tác
phẩm của nhà văn trong chương trình Ngữ văn lớp 12 và 11

2.1.1. Hệ thống kiến thức về tác giả
Nguyễn Tuân (10/7/1910 – 28/7/1987) là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Sách
giáo khoa hiện hành xếp ông vào một trong 9 tác gia tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện
đại. Ông viết văn với phong cách tài hoa uyên bác và được xem là bậc thầy trong việc sáng
tạo và sử dụng tiếng Việt. Hà nội có một con đường mang tên ông.
Nguyễn Tuân quê ở xã Nhân Mục (tên nôm là Mọc), thơn Thượng Đình, nay thuộc
phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sinh trưởng trong một gia đình nhà
Nho khi Hán học đã tàn.
Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung (tương đương với cấp Trung học cơ sở
hiện nay) thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên Pháp nói xấu
người Việt (1929). Sau đó ít lâu, ơng lại bị đi tù vì “xê dịch” qua biên giới khơng có giấy
phép. Khi ra tù, ông bắt đầu viết báo, viết văn.
Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1930, nhưng nổi tiếng từ năm 1938
với các tác phẩm tùy bút, bút kí có phong cách độc đáo như “Vang bóng một thời”, “Một
chuyến đi”... Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần nữa vì gặp gỡ, tiếp xúc với
những người hoạt động chính trị.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành cơng, Nguyễn Tn nhiệt tình tham gia cách
mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Từ 1948 đến
1958, ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam.
Các tác phẩm chính của Nguyễn Tuân: Gần 60 năm gắn bó với nghiệp sáng tác văn
chương, ơng đã cho ra đời khá nhiều tác phẩm nổi tiếng như Một chuyến đi (1938), Tàn
đèn dầu lạc (1939), Vang bóng một thời (1940), Thiếu quê hương (1940), Chiếc lư đồng
mắt cua (1941), Sông Đà (1960), …
Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tn có thể thâu trong một
chữ “ngơng”.
Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều thể hiện sự tài hoa
uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ
yếu ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ.

7



Nguyễn Tuân học theo “chủ nghĩa xê dịch”. Vì thế ông là nhà văn của tính cách phi
thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió,
bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội...
Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ơng có nhiều phát hiện
hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông, cây cỏ trên đất nước mình. Phong cách tự do, phóng
túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tùy bút như
một điều tất yếu.
Nguyễn Tn cịn có đóng góp khơng nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học
Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan trọng.
Ông vẫn tiếp cận thế giới, con người, thiên nhiên về phương diện văn hóa, nghệ thuật, nghệ
sĩ, nhưng giờ đây ơng cịn tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở cả nhân dân đại chúng.
Có người nói, Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người sĩ. Đối với ông, văn
chương trước hết phải văn chương, nghệ thuật trước hết phải nghệ thuật, và đã là nghệ
thuật thì phải có phong cách độc đáo. Nhưng Nguyễn Tuân, xét từ bản chất khơng phải là
người theo chủ nghĩa hình thức. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là “thiên lương” trong sạch, là
lòng yêu nước tha thiết, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm
tục.
Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987, để lại một sự nghiệp văn học phong phú
với những trang viết độc đáo và tài hoa. Năm 1996, ông được Nhà nước Việt Nam truy
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2.1.2. Hệ thống kiến thức về đặc trưng thể loại
Một trong những định hướng đúng đắn trong lịch sử khoa học nghiên cứu về lí luận
và phương pháp dạy học Ngữ văn là dạy học theo đặc trưng thể loại. Mỗi thể loại có những
đặc điểm riêng về cách thức tổ chức tác phẩm, về hiện tượng đời sống được miêu tả và mối
quan hệ của nhà văn đối với đối tượng phản ánh. Những đặc điểm ấy chi phối cách tiếp
nhận VB của người học. Tiếp cận đúng hướng, hiểu đúng đặc trưng thể loại là tìm ra đúng
chìa khố để “mở cửa” bước vào thế giới nghệ thuật và các tầng lớp ý nghĩa của VB.

2.1.2.1. Truyện ngắn
- Truyện ngắn: là tác phẩm văn xuôi tự sự, phản ánh sự thật đời sống trong tính
khách quan; thường có cốt truyện, nhân vật và số phận nhân vật, sự kiện và tình tiết, hồn
cảnh và môi trường, không gian và thời gian.

8


- Đặc điểm của truyện ngắn:
+ Cốt truyện với một chuỗi các tình tiết, sự kiện, biến cố xảy ra liên tiếp tạo nên
sự vận động của hiện thực được phản ánh, góp phần khắc họa rõ nét tính cách nhân vật, số
phận từng cá nhân.
+ Nhân vật được miêu tả chi tiết và sinh động trong mối quan hệ chặt chẽ với hồn
cảnh, với mơi trường xung quanh.
+ Ngơn ngữ truyện gần với ngôn ngữ đời sống. Truyện sử dụng nhiều hình thức
ngơn ngữ khác nhau như ngơn ngữ người kể chuyện (lời kể khi thì ở bên ngồi, khi lại
nhập vào lời nhân vật); ngôn ngữ nhân vật (lời đối thoại, lời độc thoại nội tâm).
- Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Tuân:
+ Truyện ngắn của Nguyễn Tuân viết theo khuynh hướng văn học lãng mạn. Do
đó, những phương tiện, biện pháp, cách thức thể hiện cái nhìn lãng mạn của nhà văn trước
cuộc đời, một cái nhìn mang đậm màu sắc chủ quan, đầy cảm xúc và ít nhiều có tính chất
lí tưởng hóa.
+ Truyện ngắn của Nguyễn Tuân xây dựng được tình huống độc đáo, éo le; sử
dụng bút pháp tương phản, đối lập
+ Nhân vật ít nhiều là hình ảnh của nhà văn, mang quan điểm thậm chí là người
phát ngơn cho quan điểm của nhà văn.
+ Ngôn ngữ truyện của Nguyễn Tuân được sử dụng một cách khéo léo, tài tình và
tinh tế, giàu chất gợi hình, gợi cảm. Đặc biệt, nhà văn huy động vốn liếng tri thức của nhiều
ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau (sử học, văn hóa, hội họa, điêu khắc, điện ảnh,…).
2.1.2.2. Tùy bút

- Tùy bút: là tác phẩm văn xi tự sự cỡ nhỏ, có cấu trúc phóng túng, nhà văn viết về
một “sự thực” nào đó để thể hiện những ấn tượng suy nghĩ cá nhân về những sự việc, những
vấn đề cụ thể và thể hiện quan điểm về nghệ thuật, về cuộc sống.
- Đặc điểm của tùy bút:
+ Tùy bút thiên về biểu cảm, chú trọng thể hiện cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ của tác
giả trước các hiện tượng và vấn đề của cuộc sống.
+ Trong tuỳ bút, cái tôi tác giả đa dạng, tài hoa, nên thể loại nào, tác phẩm nào cũng
có những nét độc đáo riêng.
+ Ngôn ngữ của tuỳ bút giàu hình ảnh và giàu chất thơ.
- Đặc điểm tùy bút Nguyễn Tuân

9


+ Tùy bút của Nguyễn Tuân rất đậm chất kí. Ghi chép sự thật và thơng tin thời sự,
chính xác, đó là nét riêng của tùy bút Nguyễn Tuân. Cũng do quan niệm đi, sống và viết,
xê dịch nên tùy bút của ơng pha chút du kí, kí sự hay phóng sự điều tra. Chính nét riêng
này khiến tùy bút của ơng có lượng thơng tin đáng tin cậy và có nhiều giá trị tư liệu.
+ Tùy bút của Nguyễn Tn giàu tính trữ tình. Những trang viết của Nguyễn Tuân
giàu tính cảm xúc, lắng thấm những cảm nghĩ của nhà văn, thông qua cái “Tôi” chủ quan
mà phản ánh hiện thực cuộc sống.
+ Tùy bút của Nguyễn Tuân có phẩm chất văn chương qua sự tìm tịi sáng tạo về
cách diễn ý, tả cảnh, dùng từ, đặt câu... Câu văn trong tùy bút của Nguyễn Tuân có kiến
trúc đa dạng, giàu nhạc tính, giàu giá trị tạo hình.
+ Tùy bút của Nguyễn Tuân là sự kết tinh tài hoa và uyên bác, khi tập trung miêu tả
“sự thực” bằng sự huy động vốn liếng tri thức chuyên môn cực kỳ giàu có của nhiều ngành
văn hóa nghệ thuật khác nhau (sử học, địa lí học, quân sự, võ thuật, vũ đạo, văn chương, hội
họa, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh…).
2.1.3. Hệ thống những kiến thức về các văn bản
Văn bản

Chữ người tử tù

Hoàn cảnh, xuất xứ

Nội dung

Nghệ thuật

- “Chữ ngi t tự - Khắc họa thành - To dng c
lỳc

u

Dũng


ch

tờn công
cui Huấn

hình
Cao,

t-ợng tỡnh hung truyn
con c ỏo, ộo le.

cựng, in nm 1939 ng-ời tài hoa, cú cái - Kể chuyện, kết
trờn tp chớ Tao tâm


trong

n. Sau ú c khí

phách

tuyn in trong tp ngang.

sáng, cấu tình tiết, lời
hiên thoại

độc

thoại,

khắc hoạ nhân vật

truyn Vang búng - Bộc lộ quan niệm điển

hình

độc

mt thi 1940 v về cái đẹp, tấm đáo.
i tờn thnh Ch lòng yêu n-ớc thầm - Sử dụng hàng loạt
ngi t tự.

kín.

từ Hán Việt rất


- Vang búng mt

đắt, tạo màu sắc

thi gm cú 11

lịch sử cổ kính, bi

truyn ngn c

tráng. Khẳng định

ỏnh giỏ l mt

Nguyễn Tuân là

vn phm t gn

bậc thầy về ngôn

10


n s ton thin,

ngữ, uyên bác về

ton m.


lịch sử, xà héi.

Người lái đị sơng - “Người lái đị ơng - Ca ngợi vẻ đẹp Đà

So

sánh,

liên

Đà” (in lần đầu tiên thiên nhiên và con tưởng, tưởng tượng
có tên Sơng Đà) rút người Tây Bắc.

độc đáo.

từ tập tùy bút “Sông - Những người lao - Nhân hóa, điệp từ,
Đà” của Nguyễn động bình dị nhưng điệp ngữ, điệp cú
Tuân xuất bản lần có thể làm nên pháp.
thứ nhất năm 1960. những chiến công → Cho thấy công
“Sông Đà” gồm phi thường trong phu lao động khó
mười lăm bài tùy cuộc chinh phục nhọc, cùng sự tài
bút và một bài thơ thiên nhiên và là hoa uyên bác của
phác thảo.

người nghệ sĩ tài người

- “Người lái đị hoa

trong


nghệ



nghề Nguyễn Tn trong

sơng Đà” là một nghiệp của mình.

cách dùng từ, đặt

trong những áng

câu,… để tạo nên

văn tiêu biểu nhất

bức tranh kì vĩ của

của tập Sơng Đà

cuộc sống và những

(1960) – thành quả

kì tích lao động của

nghệ thuật đẹp đẽ

con người.


của Nguyễn Tuân

Phong cách nghệ

trong

chuyến

đi

thuật của Nguyễn

gian khổ và hào

Tuân:

hứng tới miền Tây

- Tài hoa uyên bác.

Bắc.

- Hướng tới cái
khác thường, phi
thường.
- Con người và sự
vật được khám phá
ở phương diện văn
hóa thẩm mĩ.


11


2.2. Cách thức tổ chức hoạt động hướng dẫn HS khai thác những tri thức trong tác
phẩm của Nguyễn Tuân
2.2.1. Hướng dẫn HS chuẩn bị bài ở nhà
a. Yêu cầu:
- Tìm hiểu về tác giả, sự nghiệp sáng tác, phong cách nghệ thuật của nhà văn.
- Tìm hiểu về tác phẩm, xuất xứ, hoàn cảnh ra đời.
- Đọc văn bản, tóm tắt văn bản.
- Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của văn bản.
- Phân chia nhóm: Tiến hành phân nhóm và giao nhiệm vụ cho nhóm theo năng lực,
sở trường. Cung cấp các biểu mẫu, gợi ý cụ thể cho từng nhóm (hệ thống câu hỏi,bài tập
Phụ lục 1, 2). Thường xuyên theo dõi, giám sát lịch trình hoạt động của học sinh, có sự tư
vấn, điều chỉnh hoạt động khi cần thiết.
b. Cách thức tổ chức:
- HS nhận nhiệm vụ và thực hiện nhiệm vụ GV giao.
- Sử dụng máy tính kết nối internet để tra cứu tài liệu, down load tư liệu (sưu tầm
một số tranh, ảnh, clip liên quan đến văn bản).
- Sử dụng phần mềm soạn thảo văn bản định dạng file word để trả lời nội dung câu
hỏi, bài tập.
- Sử dụng phần mềm power point soạn bài trình chiếu minh hoạ (thuyết minh ngắn
gọn cho cả lớp cùng nghe).
- Sử dụng sơ đồ tư duy, có thể trình bày trên khổ giấy A0.
- Vẽ tranh minh họa cho nội dung bài học.
- Sưu tầm các đánh giá, nhận xét, lời bình có giá trị và uy tín về văn bản, về vẻ đẹp
con người cũng như tài năng viết văn của Nguyễn Tuân.
2.2.2. Hướng dẫn dạy học ở trên lớp
a. Yêu cầu
- Vận dụng kết hợp và linh hoạt các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tổ

chức hoạt động đọc hiểu văn bản
- Vận dụng kết hợp các kĩ năng đọc để tổ chức hoạt động đọc hiểu văn bản, trong đó
chủ chốt là các kĩ năng đọc chính xác, đọc diễn cảm, đọc phân tích, đọc bình luận, đọc so
sánh, đọc tích lũy, đọc kết nối.
- Hướng dẫn HS biết huy động vốn kiến thức và kinh nghiệm của bản thân, là những

12


hiểu biết về chủ đề của tác phẩm hay những hiểu biết về các vấn đề văn hóa xã hội có liên
quan đến chủ đề của tác phẩm, để giải quyết các nhiệm vụ học tập.
- Hướng dẫn HS tham gia các tình huống học tập mới để rèn kĩ năng, để thể hiện
suy nghĩ, quan điểm của bản thân về tác phẩm và các vấn đề đặt ra trong tác phẩm.
- Hướng dẫn HS thực hiện các bài tập rèn luyện kĩ năng đọc hiểu và làm văn.
b. Cách thức tổ chức
Bước 1: Hướng dẫn HS cảm nhận vẻ đẹp của các hình tượng nghệ thuật trong VB
- Trước hết, hướng dẫn HS đọc diễn cảm để cảm nhận được giọng điệu của tác giả
thể hiện trong văn bản:
Mục tiêu: GV hướng dẫn HS đọc diễn cảm đúng và hay để người đọc cảm thụ và
hiểu sơ bộ về tác phẩm, quan điểm, ý đồ tác giả, phải thâm nhập, nhìn thấy bên trong thế
giới hình tượng hiện lên sinh động đập vào mắt, phải lắng nghe cái thần, cái giọng của bài
văn để điều chỉnh giọng đọc cho tương ứng với giọng điệu, sắc điệu của bài văn. Và khi
đọc diễn cảm phải kích thích q trình tâm lý cảm thụ bên trong của HS, khơi gợi ở HS sự
tri giác, hình dung tưởng tượng, liên tưởng, nhập thân, cảm xúc, giúp HS nhìn thấy bên
trong một cách sáng rõ cái đã đọc được, nghe được, gợi lên những tình cảm và ấn tượng
thẩm mỹ nhất định.
Để đạt được mục tiêu này, GV nên sử dụng hệ thống câu hỏi cảm xúc cho hoạt động
này. Chẳng hạn, khi đọc VB Chữ người tử tù, người đọc nhận ra giọng điệu ngợi ca, thể hiện
cái nhìn trân trọng, mến yêu của nhà văn đối với hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục.
Hay khi đọc VB Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tn, dễ dàng nhận thấy giọng điệu ngợi

ca đầy tự hào của tác giả khi viết về vẻ đẹp của con sơng Tây Bắc.
Do đó, GV có thể nêu câu hỏi:
Câu 1: Ấn tượng nhất của em về đoạn văn (hoặc VB) mà em vừa đọc?
Câu 2: Từ việc đọc diễn cảm, em nhận thấy tình cảm của tác giả với nhân vật Huấn
Cao/ viên quản ngục/ sông Đà như thế nào?
Câu 3: Qua đoạn văn, em có những tưởng tượng ban đầu như thế nào về vẻ đẹp của
nhân vật Huấn Cao/ nhân vật viên quản ngục/ sông Đà?
Câu 4: Tác giả đã sử dụng bút pháp nghệ thuật nào để miêu tả nhân vật?/ Nhà văn đã
lựa chọn những điểm nhìn nào để miêu tả dịng sơng Đà?

13


Trong tác phẩm Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã xây dựng nên hai hình tượng Huấn
Cao và viên quản ngục bằng bút pháp lãng mạn và thủ pháp đối lập đã làm nổi bật lên vẻ
đẹp trong tâm hồn của cả hai nhân vật.
Trong tùy bút Người lái đò sơng Đà, Nguyễn Tn đã có sự lựa chọn điểm nhìn một cách
đa dạng. Có khi trong tâm trạng của một khách lãng du đi thuyền trên sông Đà, khi thì như
một người đi rừng dài ngày khao khát được gặp lại sơng Đà, khi thì trên tàu bay mà say mê
nhìn xuống dịng nước sơng Đà,... Chính điều này tạo nên sự đa dạng về điểm nhìn trong
tùy bút Nguyễn Tn. Do đó, con sơng Đà được Nguyễn Tn cảm nhận ở hai phương diện
đối lập nhau. Đó là con sơng Đà hung bạo và trữ tình.
- Hướng dẫn HS đọc phân tích hình tượng nghệ thuật qua các chi tiết nghệ thuật
đặc sắc để thấy được chiều sâu ý nghĩa của VB:
Mục tiêu: Nếu đọc chính xác cho kết quả là lớp nghĩa hiển ngơn thì kĩ năng đọc phân
tích sẽ cho kết quả là lớp nghĩa hàm ẩn của VB. Do đó người đọc cần biết cách dựa trên các
nghĩa hiển ngôn và sự liên kết với bối cảnh của VB mà thực hiện các thao tác suy ý để tìm
ra nghĩa hàm ẩn có trong VB.
Kĩ năng đọc phân tích cần sự hỗ trợ của nhiều cách đọc, kiểu đọc khác nhau (Đọc
tập trung, đọc sâu, đọc kĩ, đọc nhiều lần). Do đó, đọc phân tích không phải là đọc một lượt

từ đầu đến cuối VB. Phân tích là thao tác tư duy diễn ra một cách liên tục trong tồn bộ
q trình đọc và tập trung khi đọc đi đọc lại, đọc từng đoạn trọng tâm cần chú ý, đọc những
chi tiết quan trọng mà trí nhớ đã có ấn tượng, đã lưu lại rõ nét khi đọc lướt, đọc chính xác.
Những kết cấu ngữ pháp, hình ảnh, biểu tượng cịn chưa được tư duy sâu ở bước đọc trước
sẽ được tư duy, liên tưởng, phân tích kĩ khi đọc phân tích.
Do đó, GV cần sử dụng hệ thống câu hỏi để HS phát hiện và giải mã các tín hiệu nghệ
thuật của VB (theo nguyên tắc từ dễ đến khó):
Câu 1: Đối tượng trần thuật ấy được tác giả miêu tả với những ấn tượng đặc biệt nào?
Câu 3: Liệt kê các hình ảnh, chi tiết, câu văn mà tác giả dùng để miêu tả đối tượng đó.
Câu 4: Cảm nhận của em về một số hình ảnh, câu văn mà em cho là quan trọng nhất
trong việc khắc họa vẻ đẹp của hình tượng.
Câu 5: Thử nhắm mắt lại và tưởng tượng tâm trạng (bức tranh) mà nhân vật vừa trải
qua (hoặc vừa chứng kiến).
Câu 6: Các biện pháp nghệ thuật được dùng khi trần thuật có ý nghĩa như thế nào đối

14


với việc thể hiện tư tưởng của nhà văn?
Câu 7: Sức hấp dẫn của tác phẩm xét đến cùng là sức hấp dẫn của cái Tôi tác giả. Cái
Tôi nhà văn Nguyễn Tuân hiện lên trong VB là người như thế nào? Nêu khái quát những
ấn tượng tiêu biểu nhất của em?
Trong tác phẩm Chữ người tử tù, Huấn Cao là nhân vật chính, là linh hồn của tác
phẩm, là biểu tượng đẹp đẽ của 3 yếu tố liên hoàn: tài hoa, khí phách, thiên lương. Huấn
Cao được thăng hoa trong một cảm hứng lãng mạn, bay bổng khiến vẻ đẹp của nhân vật
đạt đến mức phi thường, siêu phàm.
Huấn Cao là người có tài hoa, khí phách, thiên lương hơn người. Nguyễn Tuân đặc
biệt nhấn mạnh ở Huấn Cao tài viết chữ đẹp. Huấn Cao là người có tài viết chữ rất nhanh
và rất đẹp, nét chữ mang vẻ đẹp của một bậc tài hoa tài tử: “Những nét chữ vng vắn tươi
tắn nói lên hồi bão tung hồnh của một đời con người”. Tài hoa ấy đạt đến mức đặc biệt

khác thường được Nguyễn Tuân coi là báu vật “Có được chữ ơng Huấn mà treo là có một
báu vật trên đời”. Cảm hứng này đã chi phối đến cách dùng chữ của Nguyễn Tuân: “Chữ
Huấn Cao đẹp lắm, vng lắm”. Chữ “lắm” đã góp phần tơ đậm vẻ tài hoa, khác thường
của Huấn Cao, biến ông thành một nghệ sĩ thực thụ.
Ơng Huấn là người có tài nhưng lại dám từ bỏ công danh để xả thân cho đại nghĩa,
phất cờ dấy binh chống lại triều đình trở thành kẻ đại nghịch, bị khép vào tội đại hình. Vậy
mà, ơng bước vào nhà ngục với tư thế ung dung, đường hồng đến khinh bạc, có thái độ
coi khinh quản ngục “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng
đặt chân vào đây”. Khí phách của Huấn Cao làm cho quyền lực cũng phải kính nể. Bị Huấn
Cao xua đuổi, quản ngục chỉ nhã nhặn “Xin lĩnh ý”. Câu nói ấy đã nâng Huấn Cao lên hình
tượng người anh hùng, khiến hình ảnh Huấn Cao càng lộng lẫy hơn.
Huấn Cao còn là người có tâm hồn trong sáng, cao đẹp. Ơng Huấn có một câu nói
mang một quan niệm nhân sinh kiêu hãnh “Ta nhất sinh khơng vì vàng bạc hay quyền thế
mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Với câu nói ấy, Huấn Cao xứng đáng là một nhân cách
lớn vì chỉ có nhân cách lớn mới biết bảo vệ cái đẹp trước sức mạnh thô bỉ của vàng ngọc,
quyền thế. Do cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài và hiểu ra sở thích cao quý của quản ngục,
Huấn Cao đã nhận lời cho chữ “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡ liên tài của các người. Nào
ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy.
Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Đây là một lời sám hối cao
q, vì khơng chỉ nhìn thẳng vào lỗi lầm của mình mà cịn bộc lộ một cái nhìn sâu sắc ln

15


biết hướng cái đẹp tới chỗ sáng nhất của nó. Con người ấy không sợ quyền uy, không sợ
chết nhưng lại sợ phụ mất một tấm lịng trong thiên hạ.
Tính cách cao quý đó của Huấn Cao lại đặt trong nhà tù, trong lúc cận kề với cái chết.
Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quý của Huấn Cao với cái
dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội bấy giờ, nhằm kín đáo bộc lộ
niềm phẫn nộ của chính mình đối với xã hội thời ơng sống. Đồng thời cũng thể hiện quan

điểm thẩm mĩ của mình, đó là cái đẹp phải gắn liền với cái thiện, cài tài phải gắn với cái
tâm.
Cùng với nhân vật Huấn Cao, viên quản ngục cũng là nhân vật chính trong tác phẩm
được Nguyễn Tuân dành nhiều tình cảm yêu mến, trân trọng. Viên quản ngục sống trong
một môi trường với những kẻ cặn bã, nơi mà người ta sống bằng tàn nhẫn và lừa lọc, nơi
mà bóng tối và cái ác ngự trị nhưng ông vẫn giữ được một tấm lịng trong sáng, thuần khiết
“Ơng trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã và những
người có tâm điền tốt và thẳng thắn lại phải ăn đời ở kiếp với lũ quay quắt”.
Khơng chỉ có tâm hồn trong sáng, tính cách dịu hiền, viên quản ngục cịn có tấm lịng
biết giá người, biết trọng người ngay. Khi đối diện với Huấn Cao, quản ngục đã quên đi
chức trách của một nhà hành pháp “Hơm nay, viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới vào
với cặp mắt hiền lành. Lòng kiêng nể tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá rồi. Khi kiểm
điểm phạm nhân ngục quan lại còn có biệt nhỡn riêng đối với Huấn Cao”. Ơng cịn hậu
đãi Huấn Cao và những người bạn đồng chí của Huấn Cao nữa. Thậm chí khi bị Huấn Cao
sỉ nhục, ông cũng chỉ “Xin lĩnh ý”. Ông cho rằng Huấn Cao là người “chọc trời quấy nước,
đến trên đầu người ta, người ta cũng cịn chẳng biết có ai nữa, huống chi là cái thứ mình
chỉ là kẻ tiểu lại giữ tù”. Quản ngục đã thực sự coi Huấn Cao là một người anh hùng chứ
không phải là một kẻ đại nghịch như cái nhìn thơng thường của những kẻ đại diện cho
quyền lực phong kiến. Dù Huấn Cao là một kẻ tử tù đã bị dồn vào thế “hổ sa cơ” nhưng
quản ngục vẫn trân trọng Huấn Cao và nhìn nhận đúng giá trị thật của con người này. Chính
tấm lịng “biết giá người”, “biết trọng người ngay” của viên quan coi ngục đã cảm hóa
được Huấn Cao và làm con người này cảm động. Lúc đầu Huấn Cao coi thường con người
nay. Nhưng sau hiểu ra tấm lòng của quản ngục, ơng đã đồng ý cho chữ vì sợ “phụ mất
một tấm lịng trong thiên hạ”. Vì vậy, Nguyễn Tuân đã cho rằng: Quản ngục là “một thanh
âm trong trẻo xen giữa vào một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Nghệ thuật ẩn
dụ đầy chất thơ này đã làm nổi bật tấm lòng trong sáng của quản ngục bất chấp hoàn cảnh.

16



Nếu Huấn Cao là người nghệ sĩ sáng tạo cái đẹp thì viên quản ngục lại là người nghệ
sĩ say mê cái đẹp. Ngay từ khi mới học vỡ nghĩa chữ thánh hiền, quản ngục đã khao khát
có được chữ Huấn Cao. Ông coi chữ Huấn Cao như một báu vật trên đời. Ông chỉ đau đáu
khát vọng xin chữ của Huấn Cao. Ơng “chỉ lo mai mốt đây, ơng Huấn bị hành hình mà
khơng kịp xin được mấy chữ, thì ân hận cả đời”. Phải nói rằng chuyện quản ngục xin chữ
người tử tù là chuyện xưa nay chưa từng có và nếu chuyện này đến tai quan trên thì ơng
“khó mà ở n”. Vậy mà quản ngục chấp nhận cả việc hi sinh danh dự và tính mạng của
mình để đạt được sở nguyện ấy. Điều đó chứng tỏ người giữ tù là người có đam mê cái đẹp
khác thường.
Đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ nằm ở phần cuối của tác phẩm, có thể nói là trác tuyệt
nhất thể hiện sự tài hoa của ngòi bút Nguyễn Tuân cũng như tôn vinh những vẻ đẹp rực rỡ
của nhân vật Huấn Cao và quản ngục. Có thể ví cảnh cho chữ giống như một khúc vĩ thanh
vừa bay bổng, vừa lãng mạn, vừa lắng đọng nhiều tình cảm sâu sắc trong lòng người đọc
của bản giao hưởng Chữ người tử tù. Người nghệ sĩ Huấn Cao phải phô tài trong cảnh ngộ
oái oăm “Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa
trắng tinh căng trên mảnh ván” và ngày mai bị hành hình. Đây là một trường hợp phi
thường hiếm có. Nhưng trong hồn cảnh ấy, người nghệ sĩ vẫn giữ một tâm thế thật thanh
thản, tự do để sáng tạo cái đẹp. Trong khoảnh khắc ấy, không phải người giữ tù làm chủ
mà chính là người tù làm chủ tạo ra một cuộc đảo lộn vị thế xã hội xưa nay chưa từng có.
Quản ngục thì “khúm núm”, thầy thơ lại thì “run run bưng chậu mực” trong khi người tử
tù Huấn Cao lại đường hoàng, uy nghi “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Ở đây,
người có quyền hành lại trở thành khơng có uy quyền, người đáng ra phải sợ sệt thì đường
hồng, đĩnh đạc; người đáng ra khơng phải sợ sệt thì khúm núm, run run. Người sinh ra để
đi giáo dục người khác lại bị người khác giáo dục; người tù cần được giáo dục thì lại đi
giáo dục quản ngục. Rõ ràng, cảnh tượng và sự thay đổi vị thế xã hội ấy ngầm chứa một
triết lí: “Cái đẹp là cái chiến thắng”. Đó là sự chiến thắng vinh quang của ánh sáng và cái
thiện ở ngay trong sào huyệt của bóng tối và cái ác. Huấn Cao cho chữ viên quản ngục
khơng chỉ là đem một tấm lịng để đền đáp một tấm lòng hay chia sẻ cái đẹp với người tri
kỉ mà để nâng đỡ một tấm thiên lương. Lời khuyên của Huấn Cao với Quản ngục: “Tôi bảo
thực đấy. Thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở. Thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi

hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó mà giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng
đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Trước lời khuyên của Huấn Cao, quản ngục

17


đã cúi đầu “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dịng nước mắt rỉ vào kẽ miệng
làm cho nghẹn ngào “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Đây là chi tiết nghệ thuật đạt đến
“thần bút”. Trong cuộc sống có những cái cúi đầu làm con người ta trở nên hèn nhát, yếu
đuối nhưng cũng có cái cúi đầu lại làm ngời sáng lên nhân cách. Cái cúi đầu của quản ngục
chính là sự nghiêng mình kinh cẩn, niềm xúc động vô ngần của người nghệ sĩ trước cái
đẹp. Bên cạnh đó, cảnh cho chữ cũng thể hiện sự hội tụ của ba con người, ba tâm hồn cô
đơn, buốt giá. Nếu như mở đầu tác phẩm, Huấn Cao, quản ngục và thầy thơ lại chỉ là ba
đốm sáng buốt giá thì đến cảnh cho chữ này họ đã trở thành tri âm tri kỉ trong tình yêu và
sự sùng bái cái đẹp.
Trong tác phẩm Người lái đị sơng Đà, con sơng Đà hiện ra dữ dội hiểm trở đã từng
gây bao nhiêu tai họa cho con người nhưng đồng thời nó cũng có một vẻ đẹp thật thơ mộng
trữ tình. Mở đầu thiên tùy bút, Nguyễn Tuân đã liệt kê ra một loạt những con thác hung
dữ. Nhưng cái đáng sợ của sông Đà đâu chỉ phải ở những con thác hiểm trở mà còn thể
hiện ở cái quang cảnh hùng vĩ, hoang sơ của dịng sơng chảy giữa điệp trùng của rừng núi
Tây Bắc. Ngịi bút miêu tả của Nguyễn Tn thật phóng túng, linh hoạt như một nhà quay
phim lão luyện.
Sông Đà hiện lên là dịng sơng hung bạo, lắm thác ghềnh, ngỗ ngược, không chảy
theo khuôn khổ. Vẻ đẹp hiểm trở, nguy hiểm của sông Đà được tác giả viết “đá ở sông,
dựng vách thành, mặt sông lúc ấy chỉ lúc đúng giờ ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành
chẹt lịng sơng Đà như một cái yết hầu, có qng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ bên
này sang bờ bên kia”. Tác giả đã diễn tả cảm xúc khi đi qua đoạn sông này “ngồi trong
khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy như mình trên cái
tầng nhà thứ mấy vừa vụt tắt điện.”. Một lối so sánh độc đáo, đầy táo báo và cũng không
kém phần tinh tế. Sông Đà đẹp, nhưng vẻ đẹp hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm.

Tuy nhiên, bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, nguy hiểm, sơng Đà cịn hiện lên thật
nên thơ và trữ tình biết bao nhiêu. Qua ngịi bút tinh tế của Nguyễn Tuân “sông Đà tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở
hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùa khói Mèo đốt nương xuân”. Thật tài hoa và
trữ tình, một hình ảnh tuyệt đẹp hiện lên giữa núi rừng Tây Bắc. Sơng Đà có những lúc
buồn mênh mang và hoang sơ đến kì lạ. Bờ sơng hoang dại như một bờ tiền sử.
Đó là vẻ đẹp con sơng Đà, bên cạnh cịn là vẻ đẹp con người nơi đây, cụ thể là ơng
lái đị. Bao nhiêu đam mê, yêu quý sông Đà của Nguyễn Tuân được gửi gắm vào ông lái

18


đị. Chính vì thế nhà văn đã để nhân vật của mình gắn bó với sơng Đà đến mức máu thịt,
ơng lái đị có thể hiểu và u dịng sơng đến mức thuộc lòng từng tên thác tên ghềnh, hơn
một nghìn tên. Trong cách miêu tả của Nguyễn Tn, ơng lái đị thuộc dịng sơng như thuộc
một bản trường ca, thuộc đến từng dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm than và từng đoạn xuống
dịng. “Ơng lái đị đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật
phục kích của lũ đá nơi ải nước”.Người lái đị là người lao động bình thường bằng xương
bằng thịt nhưng với trí dũng song tồn nên ơng vẫn chiến thắng được thiên nhiên nghiệt
ngã. Qua “Người lái đị sơng Đà” chúng ta càng khẳng định được rằng Nguyễn Tuân là
nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ca ngợi người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng
đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ơng lái đị. Người lao động hiện lên với vẻ đẹp tài
hoa và như một nghệ sĩ thực thụ với nghề của mình.
- Hướng dẫn HS bình luận về nghệ thuật sử dụng ngơn từ để thấy được sự sáng tạo
của nhà văn:
Mục tiêu: Một phương diện giúp khẳng định phong cách của bất cứ nhà văn nào, mà
chúng ta không thể bỏ qua, đó là nghiên cứu u tố ngơn từ - chất liệu cơ bản để sáng tạo
nên tác phẩm văn chương mà nhà văn đã vận dụng một cách nghệ thuật.
GV giúp HS đọc xâu chuỗi ý nghĩa giá trị nghệ thuật hài hịa giữa sự thực đời sống,
điểm nhìn nghệ thuật và giọng điệu, văn phong của tác giả. Đọc trọn vẹn VB và đưa ra những

lời bình của cá nhân bạn đọc HS về giá trị nghệ thuật của VB.
Đối với Nguyễn Tuân việc sử dụng ngôn từ lại càng đặc biệt được quan tâm. Bởi lẽ
chính nhà văn đã rất coi trọng việc sử dụng ngôn từ khi ngồi trước trang giấy trắng. Ông
từng viết: “Chúng ta vẫn đắm đuối với nghề làm văn, ngày càng chuốt thêm văn tự, ngày
càng làm óng tốt dẻo bền hơn lên nữa cái tiếng nói Việt cổ truyền của mình” [1 – 137]. Với
ý thức cao như vậy nên ông luôn “tự học” để trang bị cho mình vốn ngơn từ phong phú,
giàu có để sử dụng một cách thoải mái trong lúc hành nghề. Tố Hữu nhận xét Nguyễn Tuân
là “người thợ kim hoàn của chữ” [2 – 196]. Và rất nhiều các nhà văn nhà thơ khác cũng
dành lời khen trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân như Lại Nguyên Ân: “con
người ông, phong cách của ông cũng đẹp một cách độc đáo như câu văn ông, loại câu văn
có một khơng hai trong nghệ thuật ngơn từ tiếng Việt” [2 – 564]. Để có được những lời tán
dương như vậy Nguyễn Tuân phải trải qua một đời “sẵn sàng chịu khổ hạnh” để góp phần
vun tưới cho “cái cây tiếng nói Việt Nam” ngày càng nhiều cành, nhiều lá, nhiều hoa trái
hơn, càng như một cây nêu Tết kì diệu lung linh.

19


Nét độc đáo trong ngôn từ nghệ thuật của văn chương Nguyễn Tn, trước hết, là ơng
biết khai thác tín hiệu âm thanh của tiếng Việt đơn âm tiết, nhưng lại đa thanh điệu, tạo
cho câu văn giàu tính nhạc vang hưởng chất thơ. Những năm trước và sau thập kỉ sáu mươi,
Nguyễn Tuân chuẩn bị len lỏi giữa rừng núi Tây Bắc đại ngàn. Với tình yêu rừng da diết,
nhà văn như đang nghe giai điệu rừng dội từ vách đá, vọng xuống lũng sâu, cộng hưởng
vào tâm hồn chan chứa thơ nhạc của người hành bộ - nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Đoạn miêu tả
“thác nước” và “thạch trận” sông Đà: âm thanh dữ dội, đầy những tiếng réo gào: “Còn xa
lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên”.
Tiếng thác được ví như tiếng rống của “một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng
vầu tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy
bùng bùng”. Người đọc cảm nhận thấy sự lồng lộn, giận dữ của một con sơng qua một thứ
ngơn từ có sức sống, có màu sắc. Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh. Hay khi miêu tả

nước cũng gợi lên âm thanh: reo hò vang dậy, làm thành viên đá để bẻ gãy cán chèo, vũ
khí trên tay ơng đị…Nguyễn Tn rất có tài khai thác sức gợi về mặt ý nghĩa tạo ra bởi
mặt âm thanh của ngôn từ. Chẳng hạn khi nhà văn miêu tả viên quan coi ngục “Người ngồi
đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của một bộ mặt tư
lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân bằng lặng, kín đáo
và êm nhẹ”. Đây là hình ảnh ẩn dụ đẹp, nhẹ nhàng nhưng vô cùng độc đáo đem đến cho
người đọc cảm nhận về tính cách dịu dàng, tâm hồn trong sáng của ngục quan. Và cách
đặt tên cũng là một thủ pháp quan trọng. Vũ Trọng Phụng có cái tài trào lộng loại người
tha hóa về mặt đạo đức, băng hoại về lương tâm và nhân phẩm bằng cách đặt cho chúng
những cái tên hoa mỹ như Văn Minh, Phó Đoan, Tuyết,… Trong khi đó, Nguyễn Tuân lại
châm biếm bọn ưng khuyển…nhưng nhiều khi Nguyễn Tuân cũng không đặt tên cho nhân
vật của mình mà chỉ gọi tên nhân vật với nghề nghiệp của họ như ơng lái đị, viên quản
ngục, thầy thư lại,… Ngay cả việc gọi tên viên quản ngục, nhà văn cũng sử dụng nhiều từ
ngữ khác nhau như ngục quan, viên quan coi ngục, tiểu lại giữ tù, thầy Quản… đã làm toát
lên vốn từ ngữ của ông.
Câu văn của Nguyễn Tuân đan chéo nhau các phương chiều của không gian và thời
gian qua liên tưởng miên man của tác giả, như những thước phim điện ảnh, hội tụ nhiều
mảng không gian, đồng hiện nhiều khoảnh khắc thời gian, tạo ra hình ảnh đối lập sinh
động. Chẳng hạn như đoạn văn miêu tả cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục “Trong
một khơng khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi

20


lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ…”,
“Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng
tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất
những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gị,
thì run run bưng chậu mực”. Ngịi bút dựng cảnh, dựng người của Nguyễn Tuân rất giàu
chất tạo hình đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện, sắc sảo đã làm nổi bật vẻ đẹp của

người nghệ sĩ, của người anh hùng Huấn Cao. Đồng thời cũng làm nổi bật được sự ngưỡng
mộ, say mê trước cái đẹp đang được khai sinh của viên quản ngục và thầy thơ lại. Đặc biệt
là cái vái lạy của viên quan coi ngục trước lời khuyên của Huấn Cao “Ngục quan cảm động,
vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho
nghẹn ngào “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Đây là chi tiết nghệ thuật đã đạt đến thần bút.
Trong cuộc sống có những cái cúi đầu làm con người ta trở nên hèn nhát, yếu đuối nhưng
cũng có cái cúi đầu lại làm ngời sáng lên nhân cách. Cái cúi đầu của quản ngục chính là sự
nghiêng mình kinh cẩn, niềm xúc động vô ngần của người nghệ sĩ trước cái đẹp. Và với
cách miêu tả này, Nguyễn Tuân không chỉ làm nổi bật tính cách của các nhân vật, mà cịn
tái hiện được một cách tài tình khơng gian cổ kính, mang hình ảnh của thời kì xa xưa, một
nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc. Nằm trên mỏ than Quỳnh Nhai nhà văn
viết: “Tôi nằm đây là nằm trên những biến thiên biển xanh nương dâu, trên những xác rừng
cổ đại nay khai ra đốt sáng miền Bắc kiến thiết tổ quốc trong đó mỏ châu Quỳnh Nhai có
cái vinh quang được góp phần than lửa của mình”. Nói đến ngơn từ Nguyễn Tn khơng
thể nói đến tín hiệu đặc trưng của thể loại kí. Đó là tính khoa học nghiêm túc với tinh thần
trách nhiệm cao của tác giả thể hiện trong trang viết. Những tên người, tên đất, con số, sự
kiện địa lý – lịch sử Việt được nhà văn tra cứu kĩ lưỡng trước khi định hình trong câu văn.
Nguyễn Tuân cho rằng: “Tơi vẫn cho địa lí quan trọng hơn lịch sử. Khoa học của lịch sử
kích thích tinh thần quốc tế và bồi dưỡng nhiều cho lòng yêu nước. Do có kiến thức lịch
sử mà tấm lịng càng gắn bó với đất nước. Những cái đó cũng dễ thành một ý niệm trừu
tượng nếu khơng có sự bổ túc của khoa địa lý. Muốn yêu đất nước tổ tiên mình cho thật
đầy đủ, thì phải đi bằng hai chân cả lịch sử và địa lý. Muốn thật yêu một vùng nào, một
tấm lịng thơi chưa đủ, phải có đơi chân nữa. Khơng có sự phối hợp của địa lý; mà chỉ có
tồn lịch sử thơi thì khác chi thấy bóng rồi mà chưa lần ra cho hết cái hình. Tư tưởng
nghiêm túc này đã chỉ đạo ngòi bút của Nguyễn Tuân viết nên những trang ký chân thực,
khách quan về sự kiện, sâu sắc về bình giá và đậm đà về tình cảm.

21



Những sáng tạo về ngôn ngữ được dùng trong các lĩnh vực khác nhau trong các trang
văn của Nguyễn Tuân cũng chính là những thơng tin khoa học mà văn bản cũng cấp cho
bạn đọc. Tiêu biểu đoạn miêu tả ông đò chiến đấu qua ba trùng vi. Để làm nổi bật vẻ đẹp
và hình tượng của người lái đị nhà văn đã sáng tạo ra một đoạn văn tràn đầy khơng khí
trận mạc, tưởng tượng ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa người lái đò và bầu thủy quái trên
sông Đà nham hiểm, xảo quyệt. “Thạch trận dàn bày vừa xong cái thuyền vụt tới”. Đó là
trận địa bằng đá. Tác giả tưởng tượng ra sông Đà bày thạch trận để đón đánh người lái đị.
Hay những câu văn đậm chất quân sự “Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn
chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của boong – ke chìm vào pháo đài đá nổi ở tuyến
ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên…”. Các cụm từ “du kích”, “boong –
ke” – một kiểu lơ cốt thường xây chìm của Pháp, “pháo đài”, … được Nguyễn Tuân sử
dụng một cách sáng tạo, chính xác, tăng cảm giác căng thẳng như một cuộc chiến đấu thực
sự trên chiến trường sông nước. Cách dùng từ trong kiến thức quân sự có tác dụng gợi
trường liên tưởng giúp người đọc cảm nhận được sự mưu trí của ơng lái đị.
Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân, giá trị ngôn ngữ được thể hiện rõ qua cách Nguyễn
Tuân sử dụng sáng tạo ngôn ngữ. Ngơn ngữ trong văn bản Nguyễn Tn mới lạ, chính xác
cụ thể qua từng sự vật, từng cảnh mà Nguyễn Tuân miêu tả. Chẳng hạn, sự vật trong tác
phẩm Chữ người tử tù được nói đến mang đậm chất cổ xưa với chiếc hèo hoa, giá gươm,
án thư, đĩa dầu sở, cây đèn nến, cây đèn đế, tập giấy bản đóng dấu son ti Niết, phiến trát,
tiếng kiểng, tiếng mõ… Ở đó, nhà văn đã sử dụng khéo léo, tài tình và tinh tế các từ cổ,
từ Hán Việt để dựng lên một không gian nghệ thuật cổ xưa bằng cách dựng lại thế giới
những sự vật và cách miêu tả chúng. Như miêu tả khung cảnh nhà lao “buồng tối chật
hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”; hay cảnh cho
chữ với hình ảnh: bó đuốc tẩm dầu sáng rực, tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ, chậu
mực thơm, đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ… Về cách dùng từ, khi miêu tả dịng sơng trữ
tình trong Người lái đị sơng Đà, Nguyễn Tn đã ví “như một áng tóc trữ tình”. Mái tóc
thường kết hợp với từ chỉ màu sắc, cấp độ, chữ “áng” để chỉ tác phẩm văn chương đẹp.
Nhưng ở đây, nhà văn lại có sự kết hợp thú vị nói trên khiến sơng Đà trở thành cơng trình
tuyệt mỹ của tạo hóa. Hay khi miêu tả ơng đị kiên cường, nén chịu vết thương, Nguyễn
Tuân đã ví “mặt méo bệch đi”. Khơng phải là “méo xệch” vì méo xệch chỉ miêu tả được

sự biến dạng của khuôn mặt, còn “méo bệch” vùa diễn tả được sự biến dạng của khuôn
mặt, vừa làm nổi bật nước da nhợt nhạt do sóng thác đánh vào. Trong đoạn miêu tả sự hiểm

22


trở của sông Đà thể hiện ở chỗ “vách đá thành chẹt lịng Sơng Đà như một cái yết hầu”.
So sánh một bộ phận nhỏ, hẹp ở cổ họng con người, Nguyễn Tuân đã diễn tả một cách hình
ảnh sự nhỏ hẹp của dòng chảy. So sánh độc đáo của nhà văn khiến người đọc phải hình
dung, tưởng tượng ra một qng sơng rất nhỏ. Ở qng ghềnh Hát Lng nhà văn
viết”nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió…” thủ pháp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc lại
được hỗ trợ bởi các thanh sắc liên tiếp tạo nên âm hưởng dữ dội, khẩn trương, dồn dập như
vừa xô đẩy, vừa hợp sức của gió, sóng, đã khiến cho mặt ghềnh như sôi lên, cuộn chảy dữ
dằn. Câu văn đang ở những nhịp ngắn bỗng duỗi ra theo lỗi tăng tiến khiến cho những
chuyển động của sóng, gió và đá cầng lớn, càng bức thúc tạo nên mối đe dạo thực sự với
bất kì người lái đị nào. Viết về cảnh ven bờ sông Đà “bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử”, câu văn so sánh đầy sự mới lạ, gợi sự tĩnh lặng, hoang sơ, thanh bình của bờ sơng Đà.
Nguyễn Tn cịn nhìn sơng Đà “như một cố nhân” gợi chất trữ tình đằm thắm, ấm áp của
sông Đà. Nhà tùy bút Nguyễn Tuân đã vận dụng so sánh liên tưởng, liên hệ cổ kim, thơ
phú rất tự nhiên. Đoạn miêu tả bờ sông Đà Nguyễn Tn quan sát khi đi thuyền trên sơng
có 15 câu thì 12 câu được kết thúc bằng thanh bằng. Đó là còn chưa kể câu đầu tiên cả 6/6
chữ đều là thanh bằng khiến nhịp điệu câu văn trở nên mềm mại nhữ duỗi, diễn tả rất đạt
dòng chảy lững lờ, êm đềm của sông Đà khi ra xa thượng nguồn.
Trong tác phẩm “Người lái đị sơng Đà” Nguyễn Tn đã sử dụng ngôn ngữ rất tinh
tế và độc đáo nhằm khai thác hết những giá trị mà ngôn từ mang lại. Thông qua lớp ngôn
từ trong văn bản mà tác giả gợi lên cho người đọc không chỉ âm thanh của con thác, của
tiếng nước chảy, xô đập vào nhau của những hịn đá ẩn mình dưới lịng sơng, tiếng gầm
của thác, tiếng va đập của mái chèo vào vách đá,… Khơng chỉ là âm thanh, mà hình ảnh
hiện lên rất sinh động và chân thật, sắc nét. Ông đã dùng sức mạnh điêu luyện của ngôn
ngữ để truyền hồn sống vào từng khối đá sinh động, biến chúng thành bầy thạch tinh hung

hãn trong cuộc giao tranh với con người. Tả về thiên nhiên dữ dội, khủng khiếp cũng chỉ
để tơn vinh sức mạnh, lịng quả cảm, sức kì vĩ của con người trong cuộc chinh phục thiên
nhiên, đồng thời đem lại cho người đọc cảm giác mới mẻ.
Qua những tác phẩm của Nguyễn Tuân, ta thấy được nét tài hoa của ông. Tác giả
được xem là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng tiếng Việt. “Đó khơng phải là người
viết mà là thần viết, thần mượn tay người viết nên những trang bất hủ” (Nguyễn Khải).
- Hướng dẫn HS xác định ý nghĩa nhân sinh và tư tưởng nghệ thuật của văn bản:
Mục tiêu: Nhằm hoàn thiện giá trị chỉnh thể về nội dung tư tưởng, hình thức nghệ

23


thuật của tác phẩm và tích luỹ tri thức cơng cụ, tri thức về kĩ năng để đọc hiểu các VB.
Hoạt động đọc này rất phù hợp khi hướng dẫn HS tổng kết bài học.
Muốn tổ chức thành công hoạt động này GV cần hướng dẫn HS kĩ năng đọc bình luận.
Đọc bình luận là một kĩ năng thu nạp trong nó nhiều thao tác có tính chất tổng hợp. Mục tiêu
hướng tới là tổng hợp kiến thức văn học và trải nghiệm cá nhân HS để có cái nhìn khái quát
chỉnh thể tác phẩm, vừa để hình thành kĩ năng khái quát hoá nghệ thuật về giá trị nhân văn
của tác phẩm kí. Bình luận ở đây là sự thể hiện quan điểm, thái độ và khả năng khái quát
một cách cao nhất của độc giả sau khi đọc hiểu VB. Đồng thời, đây cũng là bước tổng hợp
các tri thức thể loại, tri thức kĩ năng, kinh nghiệm để làm “cơng cụ” đọc hiểu các VB khác.
Do đó, GV có thể hướng vào các nội dung:
+ Phát hiện, nhận định các giá trị nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa nhân sinh của VB.
+ Đánh giá những phương diện nội dung mang ý nghĩa của VB.
+ Phát hiện và đánh giá ý nghĩa, giá trị nghệ thuật của VB.
Có thể nói, nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động,
độc đáo của Nguyễn Tuân. Được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, đặt trong sự đối lập
gay gắt giữa hoàn cảnh sống, vị trí xã hội với nhân cách cao đẹp, nhân vật Huấn Cao và
viên quản ngục đã làm sáng rõ tư tưởng của tác phẩm: Sự tôn vinh và ngợi ca cái đẹp.
Qua hai nhân vật này, Nguyễn Tuân đã thể hiện quan niệm của mình: Đối với ơng khái

niệm nghệ sĩ không chỉ dành cho những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật mà
bất cứ ai điêu luyện trong lĩnh vực gì đều được gọi là tài hoa nghệ sĩ. Mặt khác, với
Nguyễn Tuân, cái đẹp phải gắn liền với cái thiện, thiên lương; chỉ dành cái đẹp cho những
tấm lịng trong sáng, biết kính trọng nó, khơng thể đặt cái đẹp ở nơi bóng tối và cái ác
ngự trị. Hơn thế nữa, cái đẹp là cái chiến thắng, cái bất khả chiến bại, nó chứa đầy uy
quyền làm đảo lộn trật tự xã hội thông thường và cái đẹp cũng đưa con người xích lại gần
nhau hơn. Chữ người tử tù cũng thể hiện sự tôn vinh một nét đẹp trong văn hóa truyền
thống của dân tộc – nghệ thuật thư pháp.
Còn với Người lái đò sông Đà, chúng ta thấy được vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên
núi rừng Tây Bắc cùng với đó làvẻ đẹp của người dân lao động nơi đây. Đó là thứ vàng
mười mà tác giả ln đi tìm kiếm. Với mỗi văn bản khi đến với bạn đọc việc quan trọng
nhất là cung cấp thông tin thẩm mĩ cho người đọc, nhưng ở đây Nguyễn Tuân đã ngầm
cung cấp thêm một số thông tin cơ bản khác như: thông tin địa lý, lịch sử, dự báo… đến
với bạn đọc. Bởi vậy mà ta càng khẳng định được nét tài hoa của tác giả.

24


Bước 2: Hướng dẫn HS mở rộng vấn đề và liên hệ thực tế từ vấn đề đặt ra trong VB.
Mục tiêu: GV giúp HS có những góc nhìn khác đối với VB, nghệ thuật hơn về những sự
vật, hiện tượng bình thường trong đời sống hàng ngày. Mỗi VB bao giờ cũng có ý nghĩa
thực tiễn với bạn đọc, có thể đơn giản là cung cấp vốn tư liệu, hình ảnh, kiến thức… Để
thực hiện tốt hoạt động này, GV cần hướng dẫn HS liên hệ với những kiến thức của các
môn thuộc các ngành học khác, kết nối với kinh nghiệm của bản thân để dự đoán tác động
của văn bản, những dự kiến trong tương lai mà nhà văn đã nhìn một cách xa rộng hơn.
Do đó, GV có thể sử dụng những câu hỏi nêu vấn đề hoặc gợi mở, so sánh, đối chiếu
như:
+ Nét nổi bật trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là uyên bác. Mỗi trang văn
đều thể hiện vốn hiểu biết phong phú của ơng về các lĩnh vực văn hóa, lịch sử, địa lí, quân
sự, hội họa, điện ảnh,… Anh/ chị hãy chứng minh điều đó qua các tác phẩm của nhà văn.

+ Nguyễn Tuân đến sông Đà với mục đích trước tiên là tìm chất vàng của thiên nhiên.
Vậy, theo anh/ chị, nhà văn đã tìm thấy thứ vàng nào của con sơng Đà nói riêng và thiên
nhiên Tây Bắc nói chung đằng sau những biểu hiện hung bạo kia của Đà giang?
Lại hình dung một thế kỷ khơng xa
Thủy điện nuốt tươi sức phóng túng sơng Đà
Đà đã gửi thần linh vào tùy bút
Văn như thuyền độc mộc thác thăng hoa
- Nguyễn Vũ Tiềm Nguyễn Vũ Tiềm đã gửi gắm điều gì tới bạn đọc khi ơng cảm nhận về tác phẩm Người
lái đị sơng Đà của Nguyễn Tn?
Kiến thức địa lí:
Sơng Đà (cịn gọi là sơng Bờ hay Đà Giang), là phụ lưu lớn nhất của sông Hồng, chảy
theo hướng Tây Bắc – Đông Nam để rồi nhập với sông Hồng Phú Thọ. Sông Đà dài 910
km (có tài liệu ghi là 983 km).
Với sự hiểu biết của mình Nguyễn Tn đã nói về xuất xứ của dịng sơng Đà, đem
đến cho bạn đọc một vốn hiểu biết phong phú về Đà giang: sông Đà bắt nguồn từ Vân
Giang Trung Quốc, tính từ biên giới Việt – Trung tới ngã ba Trung Hà lượn rồng rắn 500
cây số. Tên xưa là Li Tiên... Chỉ qua một vài chi tiết nói về xuất xứ của sơng Đà, ta thấy
Nguyễn Tuân có một vốn hiểu biết sâu sắc về địa lý, lịch sử. Ông tựa như người cha đẻ
làm giấy khai sinh cho đứa con tinh thần của mình.

25


×