Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Vai tro cua asean ASEAN được đánh giá là một trong những

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.32 KB, 24 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
ASEAN được đánh giá là một trong những tổ chức khu vực thành công nhất
trong lĩnh vực hội nhập khu vực. Sức mạnh của ASEAN là ở chỗ với phương cách
hội nhập độc đáo phù hợp với điều kiện tình hình cụ thể của một khu vực rất đa dạng
cả về văn hóa, tơn giáo, lịch sử, hệ thống chính trị. Sự đa dạng mà vì nó, nhiều khu
vực trên thế giới đã phải chìm trong hỗn loạn, bạo lực, chiến tranh. ASEAN đã biến
sự đa dạng này từ một một yếu tố bất lợi thành một lợi thế trong quá trình hội nhập
và xây dựng cộng đồng. ASEAN duy trì đồn kết nhất trí trên cơ sở các cam kết
chung và trách nhiệm tập thể đối với hịa bình, ổn định và sự thịnh vượng của khu
vực trên cơ sở các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn nhưng khơng áp đặt.
Trong ASEAN, các quyết định được đưa ra trên cơ sở nhất trí nhằm đảm bảo khơng
quốc gia thành viên nào bị gạt ra khỏi lề trong việc giải quyết những vấn đề thuộc
mối quan tâm chung. Tầm quan trọng cùng vai trò và thực lực ngày càng lớn mạnh
của ASEAN cũng đã tạo cơ sở cho Việt Nam phát huy thế và lực của mình. Trong
ASEAN, Việt Nam được coi là điểm sáng do tình hình chính trị - xã hội ổn định,
an ninh được bảo đảm, kinh tế phát triển năng động, môi trường kinh doanh, đầu
tư hấp dẫn Các nước ASEAN và đối tác của ASEAN, nhất là những nước lớn,
đánh giá cao vị trí và vai trò quan trọng của Việt Nam, coi Việt Nam là nhân tố
phải tính đến trong hoạch định và triển khai chính sách đối với khu vực Đơng
Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương. Tiểu luận “Vai trị của ASEAN và sự tham
gia của Việt Nam vào quá trình hợp tác, liên kết ASEAN” sẽ làm rõ thêm những
nhận định nêu trên và nêu lên những chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước
ta, trong q trình hợp tác liên kết ASEAN.

1


NỘI DUNG
I. Hợp tác liên kết khu vực Đông Nam Á là nhu cầu khách quan
1. Xu hướng hịa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới


Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự thế giới hai cực với cuộc đối đầu Đơng - Tây
gay gắt khơng cịn tồn tại. Quá trình hình thành trật tự thế giới mới diễn biến phức
tạp nhưng có xu hướng tiến tới đa cực với sự nổi lên của nhiều trung tâm quyền lực
cạnh tranh nhau và chi phối đời sống chính trị quốc tế.
Bước sang giai đoạn tồn cầu hố, hầu như tất cả các nước, các bên đều đã nếm
trải và phải trả giá cho chiến tranh, đều thấy sự cần thiết của sự đàm phán thương
lượng thay cho gây hấn, xung đột để giải quyết các tranh chấp. Nước Mỹ tuy hùng
mạnh như vậy nhưng cũng không thể tạo ra trật tự thế giới một cực theo ý của mình.
Các cường quốc vẫn đang theo đuổi xu hướng đa cực chính trị. Xu hướng chung của
thế giới hiện nay là muốn ngồi lại đàm phán, hiệp thương để cùng giải quyết các bất
đồng, mâu thuẫn.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ: Khoa học - công nghệ hiện đại ngày
càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp; trí tuệ hoá lao động ngày càng trở nên
phổ biến,... đang làm tăng nhu cầu và khả năng hợp tác và phát triển ở các cấp độ cá
nhân, xã hội, quốc gia và quốc tế. Sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại dẫn
đến những biến đổi khá mạnh mẽ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, buộc các
quốc gia và cả cộng đồng quốc tế phải có những thay đổi trong các lĩnh vực quản lý
kinh tế và xã hội.
Tồn cầu hố kinh tế làm gia tăng số lượng, quy mơ và vai trị của các công ty
xuyên quốc gia; thúc đẩy tiến bộ khoa học và chuyển giao cơng nghệ; đẩy mạnh tự
do hố thương mại; đẩy mạnh chu chuyển vốn đầu tư; chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế (ở những nước chuyển đổi cơ chế kinh tế); mở
rộng thị trường; cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng; nâng cao hiệu quả và năng
lực cạnh tranh của các quốc gia; thúc đẩy giao lưu và hội nhập kinh tế quốc tế...
Hướng phát triển chủ yếu là đua tranh kinh tế trên tinh thần hợp tác xây dựng
cùng phát triển chứ không phải theo hướng đối đầu, xâm lược, thơn tính lẫn nhau
bằng vũ lực, chiến tranh như trước. Có sự khác biệt trên bởi tồn cầu hố đã làm gia
tăng tính tùy thuộc, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, giữa các quốc gia dân
2



tộc. Lợi ích của các nước ngày càng có liên quan mật thiết với nhau, tính tùy thuộc
vào nhau ngày càng sâu sắc hơn, vì vậy các nước cần có hịa bình như một tất yếu
để tồn tại, để hợp tác liên kết với nhau cùng phát triển. Một sự kiện xảy ra ở một
điểm (cục bộ) đều ảnh hưởng và liên lụy chung đến toàn bộ thế giới. Nên hịa bình
hợp tác và phát triển là sự lựa chọn chung của các quốc gia trên thế giới.
Với tất cả những điều trên cho thấy: Hịa bình, hợp tác và phát triển là thơng
điệp nghiêm túc nhất, là tiếng nói của lương tri, công lý, là sự sống của các thế hệ
hơm nay và mai sau. Chính điều này qui định tính khách quan tất yếu của xu thế hịa
bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Đại hội dại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định:
"Trên thế giới hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là một xu thế lớn". Hoà bình vẫn
là khát vọng, là mục tiêu đấu tranh của nhân loại tiến bộ, do đó ln có sự thống
nhất, đồng thuận cao trong nhận thức và hành động của các dân tộc.
Thế giới hiện nay xét về tổng thể là hồ hỗn, là cùng tồn tại hồ bình, nguy cơ
nổ ra chiến tranh lớn, chiến tranh thế giới về cơ bản đã được ngăn chặn, nhưng nguy
cơ về cuộc chiến tranh khu vực, xung đột dân tộc và sắc tộc chưa bao giờ lại bùng
phát mạnh mẽ như hiện nay.
Chỉ có hợp tác tích cực, lành mạnh và văn minh mới thực hiện được hồ bình
và phát triển. Hợp tác dựa trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và lợi ích của tất cả các
bên, tin cậy, hiểu biết lẫn nhau và cùng có lợi.
Hợp tác trong điều kiện nền kinh tế thị trường và tồn cầu hố bao hàm cả cạnh
tranh và đấu tranh bảo vệ lợi ích dân tộc, đồng thời đảm bảo lợi ích quốc tế hiện tại
cũng như tương lai. Lợi ích của các nước trong xu thế tồn cầu hố ngày càng liên
hệ chặt chẽ và tùy thuộc lẫn nhau, do đó, cần có hịa bình để liên kết với nhau, thúc
đẩy nhau cùng phát triển. Khơng thể có sự phát triển nếu khơng có cơ sở và nền tảng
là hịa bình, cũng khơng thể có phát triển nếu khơng thơng qua phương thức hay
động lực là hợp tác và đấu tranh.
Hợp tác diễn ra bằng con đường song phương và đa phương, bằng mở cửa và
hội nhập bằng chia xẻ trách nhiệm và đảm bảo cơng bằng trong lợi ích, bình đẳng

trong quan hệ quốc tế. Hợp tác địi hỏi phải tích cực, chủ động và cộng đồng trách

3


nhiệm, khơng hẹp hịi và vụ lợi, khơng sơ vanh, bá quyền. Hợp tác lành mạnh đòi
hỏi phải giải quyết hài hoà mối quan hệ dân tộc và quốc tế.
Hợp tác hiện nay đòi hỏi phải tuân thủ theo nguyên tắc: vừa hợp tác vừa cạnh
tranh, ganh đua một cách có văn hố trên tinh thần hịa bình và bao dung. Trong quá
trình hợp tác cũng rất cần sự nỗ lực, sáng tạo của các chủ thể thông qua các cơ chế
phối hợp, điều chỉnh, hòa giải và thương lượng theo các chuẩn mực chung cùng nhau
giải quyết bất đồng.
2. Sự ra đời của ASEAN
ASEAN ra đời vào nữa sau những năm 60 của thế kỉ XX, trong bối cảnh các
nước trong khu vực sau khi giành được độc lập, nhiều nước trong khu vực cần có sự
hợp tác cùng nhau trong cùng phát triển. Bên cạnh đó, muốn hạn chế chế ảnh hưởng
của các cường quốc ngoài đối với khu vực,nhất là khi cuộc chiến tranh xâm lược
VN của Mĩ ngày càng tỏ rõ ko tránh khỏi thất bại cuối cùng.
Trên thế giới xuất hiện nhiều tổ chức hợp tác mang tính khu vực: Khối thị
trường chung châu Âu(EEC), cổ vũ các nước ĐNA tìm cách liên kết với nhau. Sự
gia tăng các diễn đàn, liên minh, liên kết về chính trị, kinh tế và văn hố, trong đó
nhiều nhất là về kinh tế, ở quy mô khu vực và liên khu vực.
- Mở rộng và đổi mới các tổ chức về chính trị, kinh tế và văn hố khu vực đã
có:
+ Mở rộng các tổ chức, liên minh, liên kết như APEC, ARF, ASEM, ASEAN,
các liên kết mới của một số nước Trung Á với Trung Quốc, các liên kết mới ở Mỹ
La tinh...
- Hình thành những tổ chức về chính trị, kinh tế và văn hố mới đáp ứng yêu
cầu hợp tác và phát triển ở quy mô khu vực và liên khu vực.
Vào thời điểm năm 1995, khu vực Đơng Nam Á cịn rất nghi kỵ, thậm chí căng

thẳng và đối đầu với nhau thì việc ASEAN kết nạp Việt Nam cũng như Việt Nam
gia nhập ASEAN đã tạo cho môi trường khu vực gắn kết lại với nhau hướng tới một
ASEAN gồm 10 nước Đông Nam Á.
ASEAN - liên kết khu vực và quốc tế vì mục tiêu hồ bình và phát triển ở Đơng
Nam Á hiện nay
4


Ngày 8/8/1967: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập
trên cơ sở Tuyên bố Băng-cốc với mục tiêu là tăng cường hợp tác kinh tế, văn hoáxã hội giữa các nước thành viên, tạo điều kiện cho các nước hội nhập sâu hơn với
khu vực và thế giới. Từ 5 nước thành viên ban đầu (Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thailand) đến nay đã mở rộng, gồm đầy đủ 10 nước Đông Nam Á, trở
thành một tổ chức hợp tác khu vực toàn diện, hoạt động trên cơ sở pháp lý và khuôn
khổ thể chế là Hiến chương ASEAN. Ngun tắc của ASEAN là đồn kết và tơn
trọng lẫn nhau trên nguyên tắc đồng thuận, thống nhất trong đa dạng, phấn đấu cho
mục tiêu hồ bình, hợp tác và phát triển.
Để kịp thích ứng với những chuyển biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình
quốc tế và khu vực, Lãnh đạo các nước ASEAN tháng 1/2007 đã quyết tâm đẩy
nhanh tiến trình liên kết nội khối dựa trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN,
nhất trí mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 (thay vì vào năm
2020 như thỏa thuận trước đây).
Cộng đồng ASEAN sẽ được hình thành dựa trên 3 trụ cột là Cộng đồng Chính
trị-An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội. Quan hệ đối ngoại
của ASEAN cũng như mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN (nhất
là IAI) được lồng ghép vào nội dung của từng trụ cột Cộng đồng ASEAN.
Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN (APSC) nhằm mục tiêu là tạo dựng một
môi trường hịa bình và an ninh cho phát triển ở khu vực ĐNA thơng qua việc nâng
hợp tác chính trị-an ninh ASEAN lên tầm cao mới, với sự tham gia và đóng góp xây
dựng của các đối tác bên ngồi ; khơng nhằm tạo ra một khối phịng thủ chung.
Kế hoạch hành động xây dựng APSC (được thông qua tại Cấp cao ASEAN-10,

tháng 11/2004) đã khẳng định lại các mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội
và đề ra 6 lĩnh vực (thành tố) hợp tác chính gồm: (i) Hợp tác chính trị; (ii) Xây dựng
và chia sẻ chuẩn mực ứng xử; (iii) Ngăn ngừa xung đột; (iv) Giải quyết xung đột;
(v) Kiến tạo hịa bình sau xung đột; và (vi) Cơ chế thực hiện. Kèm theo đó là danh
mục 75 hoạt động cụ thể để xây dựng APSC. Tuy nhiên, kế hoạch hành động về
APSC cũng như Chương trình hành động Viên Chăn (VAP) khơng quy định mục
tiêu cụ thể và lộ trình thực hiện đối với các hoạt động thuộc 6 thành tố nói trên. Kế
hoạch tổng thể về APSC mà ASEAN đang soạn thảo sẽ tập trung vào khía cạnh này,
cụ thể hóa các hoạt động hợp tác về chính trị-an ninh.
5


Các nội dung hợp tác trong Kế hoạch tổng thể cơ bản dựa trên các nội dung đã
nêu trong Kế hoạch hành động ASC, bổ sung thêm mục hợp tác với bên ngoài và
được sắp xếp lại, hướng tới xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh với ba đặc
trưng chính: một Cộng đồng hoạt động theo luật lệ với các giá trị, chuẩn mực chung;
một Khu vực gắn kết, hồ bình và tự cường, có trách nhiệm chung bảo đảm an ninh
toàn diện; và một Khu vực năng động, rộng mở với bên ngoài trong một thế giới
ngày càng gắn kết và tuỳ thuộc lẫn nhau.
Để triển khai Kế hoạch tổng thể, Hội đồng APSC họp lần thứ hai tháng 7/2009
tại Phuket, Thái Lan, đã nhất trí tập trung thực hiện 13 lĩnh vực ưu tiên, trong đó có
triển khai DOC và triển khai SEANWFZ.
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) nhằm mục tiêu tạo ra một thị trường chung
duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng
hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề; từ đó nâng cao tính cạnh tranh và
thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả khu vực; tạo sự hấp dẫn với đầu tư – kinh
doanh từ bên ngoài.
Trên cơ sở kết quả thực hiện VAP (phần về AEC) nhất là việc đã cơ bản hoàn
thành Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), ASEAN đã nhất trí thơng qua Kế
hoạch tổng thể về AEC với những đặc điểm và nội dung sau :

Đến năm 2015, ASEAN sẽ trở thành : (i) một thị trường duy nhất và một cơ sở
sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư,
vốn và lao động có tay nghề ; (ii) Một khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao; (iii)
Một khu vực phát triển kinh tế đồng đều, nhất là thực hiện có hiệu quả Sáng kiến
liên kết ASEAN (IAI); (iv) Một khu vực ASEAN hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế
tồn cầu. Đồng thời, ASEAN nhất trí đề ra Cơ chế thực hiện và Lộ trình chiến lược
thực hiện Kế hoạch tổng thể.
ASEAN cũng nhất trí xác định 12 lĩnh vực ưu tiên đẩy nhanh liên kết với lộ
trình hồn thành đến năm 2010, đó là: Hàng nơng sản; Ơ tô; Điện tử; Nghề cá; Các
sản phẩm từ cao su; Dệt may; Các sản phẩm từ gỗ; Vận tải hàng khơng; Thương mại
điện tử ASEAN; Chăm sóc sức khoẻ; Du lịch; và Logistics.
Để đẩy mạnh các nỗ lực hình thành Cộng đồng Kinh tế (AEC), ASEAN đã
thông qua Kế hoạch tổng thể xây dựng trụ cột này, là một bộ phận trong Lộ trình
6


xây dựng Cộng đồng ASEAN được thông qua tại HNCC ASEAN-14 (tháng 2/2009),
với các quy định chi tiết về định nghĩa, quy mơ, cơ chế và lộ trình thực hiện AEC.
Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ASCC) với mục tiêu là phục vụ và nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân ASEAN, sẽ tập trung xử lý các vấn đề liên quan đến
bình đẳng và cơng bằng xã hội, bản sắc văn hóa, mơi trường, tác động của tồn cầu
hóa và cách mạng khoa học cơng nghệ.
Chương trình hành động Viên chăn (VAP) và kế hoạch hành động về ASCC đã
xác định 4 lĩnh vực hợp tác (thành tố) chính là : (i) Tạo dựng cộng đồng các xã hội
đùm bọc; (ii) Giải quyết những tác động xã hội của hội nhập kinh tế; (iii) Phát triển
môi trường bền vững; (iv) Nâng cao nhận thức và bản sắc ASEAN. Hàng loạt biện
pháp/hoạt động cụ thể đã được đề ra trong từng lĩnh vực hợp tác này.
Theo đó, hợp tác ASEAN đã và đang được đẩy mạnh trên nhiều lĩnh vực khác
nhau như : văn hóa, giáo dục-đào tạo, khoa học – cơng nghệ, mơi trường, y tế, phịng
chống ma t, buôn bán phụ nữ và trẻ em, HIV/AIDS, bệnh dịch, … Khó khăn lớn

nhất trong việc thực hiện KHHĐ về ASCC là thiếu nguồn lực. Đây là vấn đề ASEAN
đang phải tập trung xử lý trong thời gian tới. Quá trình xây dựng Kế hoạch tổng thể
về ASCC cũng phải tính đến việc huy động nguồn lực.
Q trình tồn cầu hóa kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc
biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN ngày
càng mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng như quốc
tế. Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi rộng rãi
cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài nguyên thiên
nhiên và nguồn nhân lực, đòi hỏi ASEAN vừa phải mở rộng về thành viên, vừa phải
nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực.
Quan hệ đối ngoại của ASEAN bao gồm các khuôn khổ ASEAN+1,
ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS) và Diễn đàn Khu vực ASEAN. Cụ thể gồm:
Khuôn khổ ASEAN + 1 (với từng đối tác bên ngồi).
ASEAN hiện có quan hệ đối thoại và hợp tác với 10 nước (Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Ấn độ, Pakistan, Ôt-xtrây-lia, Niu Di lân, Nga, Hoa Kỳ và Canada),
1 tổ chức khu vực là Liên minh Châu Âu (EU) và 1 tổ chức quốc tế là Liên Hợp

7


Quốc. ASEAN hiện là quan sát viên của LHQ và có quan hệ với nhiều tổ chức khu
vực khác trên thế giới.
Về cơ chế hợp tác, đã hình thành ở nhiều cấp khác nhau từ quan chức đến Bộ
trưởng và Lãnh đạo Cấp cao. Hiện nay, ASEAN có cơ chế họp Cấp cao hàng năm
với Trung Quốc, Nhật bản, Hàn Quốc và Ấn độ (nhân dịp Cấp cao ASEAN thường
niên);
Đến nay, ASEAN cùng với hầu hết các đối tác nói trên đã nhất trí hình thành
các khn khổ đối tác chiến lược hoặc tồn diện mang tính lâu dài, kèm theo các
chương trình và kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện.
Tiến trình ASEAN+3 (với ba nước Đơng Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản và

Hàn quốc).
Khuôn khổ này được hình thành năm 1997 với việc họp Cấp cao khơng chính
thức lần đầu tiên giữa ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, và được chính
thức hóa năm 1999 với việc thông qua Tuyên bố chung về Hợp tác Đông Á.
ASEAN+3 ra đời xuất phát từ nhu cầu hợp tác của các nước khu vực nhằm đối phó
với tác động của khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997.
Sau 10 năm, hợp tác ASEAN+3 đang phát triển nhanh cả về chiều rộng và chiều
sâu, với sự hình thành 52 cơ chế hợp tác ở các cấp khác nhau, kể cả Cấp cao hàng
năm (nhân dịp Cấp cao ASEAN). Các lĩnh vực hợp tác được mở rộng bao gồm cả
an ninh-chính trị, kinh tế, tài chính-tiền tệ, nơng nghiệp, khoa học và công nghệ,
giao thông vận tải, năng lượng, môi trường, du lịch, công nghệ thông tin, y tế, lao
động, văn hóa, tội phạm xuyên quốc gia và an sinh xã hội.
Hợp tác kinh tế, tài chính-tiền tệ ASEAN+3 là lĩnh vực đạt kết quả tích cực,
nhất là trong hợp tác xử lý hiệu quả tác động của Khủng hoảng kinh tế-tài chính tồn
cầu. ASEAN+3 cũng quyết tâm đẩy mạnh hợp tác đối phó với các thách thức tồn
cầu như khủng hoảng lương thực, năng lượng, suy thối mơi trường, biến đổi khí
hậu, dịch bệnh truyền nhiễm… Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 12 (Thái Lan,
24/10/2009) đã thông qua Tuyên bố chung về Hợp tác An ninh lương thực và Phát
triển năng lượng sinh học nhằm thể hiện quyết tâm trên. ASEAN+3 cũng tăng cường
hợp tác thông qua một loạt sáng kiến và hoạt động như lập Quỹ Dự trữ gạo khẩn cấp
ASEAN+3, hợp tác tìm kiếm các nguồn năng lượng sạch thay thế, giảm lượng khí
8


thải, tăng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, chuyển giao công nghệ sản xuất
vắc-xin/thuốc giá rẻ và tăng lượng vắc-xin dự trữ phòng chống các dịch bệnh truyền
nhiễm, chia sẻ và cập nhật thông tin về dịch cúm…
Cấp cao Đông Á (EAS)
EAS ra đời tháng 12/2005 với sự tham gia của 16 thành viên gồm 10 nước
ASEAN, Trung Quốc, Nhật bản, Hàn quốc, Ấn Độ, Ôt-xtrây-lia và Niu Di-lân. Tại

Hội nghị EAS đầu tiên, Lãnh đạo các nước đã ký Tuyên bố chung về Cấp cao Đông
Á, trong đó đề ra mục tiêu, nguyên tắc, lĩnh vực và các phương thức chính cho hoạt
động của EAS. Theo đó, EAS sẽ là diễn đàn của các Lãnh đạo đối thoại về các vấn
đề chiến lược nhằm hỗ trợ mục tiêu xây dựng cộng đồng ở khu vực Đông Á; là một
tiến trình mở và thu nạp, trong đó ASEAN giữ vai trò chủ đạo; bổ sung và hỗ trợ
cho các diễn đàn khu vực khác hiện có, họp hàng năm do ASEAN chủ trì nhân dịp
Cấp cao ASEAN. Lãnh đạo các nước đã nhất trí xác định 5 lĩnh vực hợp tác ưu tiên
gồm năng lượng, tài chính, giáo dục, thiên tai và bệnh dịch, tiến hành tiệm tiến và
tận dụng các cơ chế hiện có của ASEAN (ASEAN+1, +3…).
Những năm qua, Việt Nam là một thực thể quan trọng có vai trị ngày càng tăng
trong cộng đồng ASEAN, tham gia và đóng góp tích cực, chủ động, có trách nhiệm
trong hoạt động hợp tác ASEAN, góp phần quan trọng vào kết quả triển khai Tầm
nhìn ASEAN 2025 trên 3 trụ cột: Chính trị-an ninh, kinh tế, văn hóa-xã hội nhằm
thúc đẩy xây dựng Cộng đồng ASEAN. Trong ba trụ cột chính của Cộng đồng
ASEAN, thì ý tưởng thành lập Cộng đồng Văn hóa - Xã hội là sáng kiến của Việt
Nam.
Với tinh thần tích cực, trách nhiệm, Việt Nam xác định tham gia ASEAN trước
hết là để đóng góp vào sự đồn kết thống nhất của Hiệp hội. Việt Nam có những
chính sách, hành động và ứng xử khơng chỉ vì lợi ích của Việt Nam mà vì lợi ích
chung của ASEAN, của Cộng đồng. Việt Nam ln quan tâm đến lợi ích của các
nước bạn để có được sự hài hịa, thống nhất chung của ASEAN. Nhận thức rõ các
thách thức đang đặt ra cho ASEAN, Việt Nam ln đồn kết cùng với các nước
thành viên khác để nỗ lực vượt qua. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng thực hiện nghiêm
túc và chủ động đưa ra các sáng kiến hợp tác, liên kết khu vực, đặc biệt ưu tiên thu
hẹp khoảng cách phát triển cũng như thúc đẩy thực hiện các dự án để kết nối mạnh
mẽ hơn trong ASEAN. Về đối ngoại, Việt Nam luôn cùng các nước thành viên
9


ASEAN duy trì sự cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, làm sao thu hút được

sự quan tâm và thừa nhận vai trị của ASEAN ở khu vực.
Có thể nói hơn 50 năm hình thành và phát triển, ASEAN đã trở thành một thực
thể chính trị-kinh tế quan trọng ở Châu Á-Thái Bình Dương và là đối tác khơng thể
thiếu trong chính sách khu vực của các nước lớn và các trung tâm quan trọng trên
thế giới. Sự ra đời của ASEAN đã đánh dấu một bước phát triển mới trong quan hệ
quốc tế ở Đông Nam Á, thể hiện nỗ lực của các nước thành viên tìm ra “công thức
chung sống” giữa các nước láng giềng với nhau. ASEAN cũng đã thành cơng trong
việc điều hịa mối quan hệ với các nước lớn trong khu vực và trên thế giới. ASEAN
đã trở thành một “hiện tượng đặc biệt” trong quan hệ quốc tế hiện đại, đẩy mạnh hội
nhập kinh tế, chính trị và văn hóa - xã hội ở châu Á - Thái Bình Dương và ASEAN
trở thành một tổ chức khu vực thành công nhất phù hợp với xu thế chung của thời
đại là hồ bình, hợp tác và phát triển.
II. Vai trò của ASEAN trong quan hệ quốc tế hiện nay
1. ASEAN là một thực thể kinh tế - chính trị thống nhất của 10 quốc gia Đông
Nam Á
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) gồm 10 nước Việt Nam, Lào,
Campuchia, Thái Lan, Singapore, Indonesia, Phillipine, Myanmar, Malaysia, Brunei
được thành lập ngày 8/8/1967. Trải qua 51 năm tồn tại và phát triển, giờ đây ASEAN
đã trở thành một thực thể kinh tế - chính trị thống nhất với cơ sở hình thành như sau:
1.1. Về pháp lý và chính trị
Hợp tác về chính trị của ASEAN ngày càng chặt chẽ. Năm 2003, ASEAN đã
quyết định thúc đẩy Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC) (sau này đổi thành Cộng
đồng Chính trị-An ninh ASEAN (APSC)) trên cơ sở thành quả hợp tác chính trị-an
ninh mà ASEAN. Bước sang năm 2007, dưới ánh sáng của những chuyển biến mới
sau khi Hiến chương ASEAN được ký kết và trên cơ sở những thành quả đạt được
trong triển khai Kế hoạch hành động thực hiện ASC và Chương trình hành động
Viên chăn, ASEAN đã quyết định xây dựng tiếp Kế hoạch tổng thể thực hiện Cộng
đồng Chính trị-An ninh ASEAN. Từ góc độ liên kết, với việc ra đời Hiến chương
năm 2007, ASEAN đã trở thành một thực thể pháp lý thống nhất.


10


1.2. Về kinh tế
Tại Tầm nhìn ASEAN 2020, được thơng qua 12/1997, Các nhà lãnh đạo
ASEAN đã định hướng ASEAN sẽ hình thành một Cộng đồng, trong đó sẽ tạo ra
một Khu vực Kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng, có khả năng cạnh tranh cao,
trong đó hàng hố, dịch vụ và đầu tư được lưu chuyển thơng thống, vốn được lưu
chuyển thơng thống hơn, kinh tế phát triển đồng đều, nghèo đói và phân hố kinh
tế-xã hội giảm bớt.
Ý tưởng đó được khẳng định lại tại Tun bố Hồ hợp ASEAN II (tháng
10/2003), Theo đó, ASEAN nhất trí hướng đến mục tiêu hình thành một cộng đồng
ASEAN liên kết, tự cường vào năm 2020 với 3 trụ cột chính là hợp tác chính trị - an
ninh, hợp tác kinh tế và hợp tác văn hoá xã hội. Với sự ra đời Cộng đồng vào năm
2015, ASEAN đang trở thành một thể thống nhất về mặt kinh tế.
2. Sức mạnh tập thể của ASEAN được nâng lên
ASEAN được đánh giá là một trong những tổ chức khu vực thành công nhất
trong lĩnh vực hội nhập khu vực. Sức mạnh của ASEAN là ở chỗ với phương cách
hội nhập độc đáo phù hợp với điều kiện tình hình cụ thể của một khu vực rất đa dạng
cả về văn hóa, tơn giáo, lịch sử, hệ thống chính trị. Sự đa dạng mà vì nó, nhiều khu
vực trên thế giới đã phải chìm trong hỗn loạn, bạo lực, chiến tranh. ASEAN đã biến
sự đa dạng này từ một một yếu tố bất lợi thành một lợi thế trong quá trình hội nhập
và xây dựng cộng đồng. ASEAN duy trì đồn kết nhất trí trên cơ sở các cam kết
chung và trách nhiệm tập thể đối với hịa bình, ổn định và sự thịnh vượng của khu
vực trên cơ sở các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn nhưng khơng áp đặt.
Trong ASEAN, các quyết định được đưa ra trên cơ sở nhất trí nhằm đảm bảo không
quốc gia thành viên nào bị gạt ra khỏi lề trong việc giải quyết những vấn đề thuộc
mối quan tâm chung. Với sự đa dạng đó, chính phương thức hội nhập thông qua tăng
cường hiểu biết lẫn nhau, sự tin cậy và hợp tác vì những mục tiêu chung đã làm nên

sức mạnh của ASEAN.
Nhờ tăng cường liên kết nội khối nêu trên nên sức mạnh tập thể của ASEAN
được nâng lên. Điều đó được thể hiện ở những khía cạnh sau:

11


2.1. Về mặt kinh tế
ASEAN hiện nay là một thực thể kinh tế ổn định, năng động, có khả năng thích
ứng cao trước các chuyển biến của khu vực và thế giới. Với hơn 625 triệu dân, Cộng
đồng ASEAN là một thị trường giàu tiềm năng tại khu vực châu Á - Thái Bình
Dương; tổng GDP đạt gần 3.000 tỷ USD, đứng thứ 7 thế giới; tổng thương mại hàng
năm trên 1.000 tỷ USD.
Với sự tham gia ASEAN, mỗi nước thành viên ASEAN ở những mức độ khác
nhau đều đạt được những lợi ích quan trọng, thương mại nội khối ASEAN năm 2016
đã tăng gấp 4 lần so với năm 1993, đầu tư nội khối giai đoạn từ năm 2000 đến năm
2016 cũng tăng gấp 4 lần, ASEAN đã tạo dựng được một thị trường tiêu dùng trị giá
1.170 tỉ USD năm 2013 (so với 300 tỉ USD năm 2000). Cũng nhờ có ASEAN mà vị
thế của từng nước thành viên khi tham gia hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng
được nâng cao.
ASEAN hiện có các hiệp định thương mại tự do với tất cả các đối tác lớn của
khu vực như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand.
2.2. Về mặt an ninh - chính trị
Việc hình thành một ASEAN bao gồm cả 10 quốc gia Đơng Nam Á đã tạo
những thay đổi căn bản, góp phần chấm dứt sự chia rẽ, đối đầu ở khu vực, tạo dựng
mơi trường hịa bình, ổn định và hợp tác vì sự phát triển của các quốc gia trong khu
vực; đồng thời, phản ánh sinh động nỗ lực và thành quả hợp tác chính trị - an ninh
của tất cả các quốc gia thành viên ASEAN, cụ thể như sau:
- Các chuẩn mực của ASEAN đã trở thành các văn kiện và là cơng cụ quan
trọng góp phần kiến tạo, giữ vững hịa bình, an ninh ở khu vực.

- ASEAN là trung tâm về ngăn ngừa xung đột và xây dựng lòng tin trong khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới.
- ASEAN là trung tâm về xử lý những thách thức an ninh phi truyền thống
thông qua các công cụ: Công ước ASEAN về Chống khủng bố, các Tuyên bố
ASEAN về phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, HIV, ma túy; xây dựng Hiệp
định đa phương ASEAN về phòng chống thiên tai và cứu trợ nhân đạo, v.v.
- Hợp tác về chính trị của ASEAN đảm bảo dân chủ, nhân quyền và phòng
chống tham nhũng trong các nước thành viên cộng đồng.
12


- Hợp tác về quốc phòng - quân sự trong ASEAN là chìa khóa để giải quyết các
vấn đề khu vực, quốc tế vì mục tiêu hịa bình, ổn định và thịnh vượng của các quốc
gia Đông Nam Á, trở thành kênh hợp tác quan trọng trong tiến trình xây dựng Cộng
đồng Chính trị - An ninh ASEAN. Điển hình là các cơ chế: Hội nghị Bộ trưởng Quốc
phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước
ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị khơng chính thức Tư lệnh Lực lượng Quốc
phòng các nước ASEAN (ACDFIM), v.v.
Với những thành tựu đạt được, Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN, vai trò
trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình; đồng thời, hỗ trợ
ASEAN chủ động đi đầu, cùng các bên đối tác xử lý những thách thức an ninh chung
vì hịa bình, ổn định trong khu vực và quốc tế.
2.3. Về mặt văn hóa - xã hội
Với mục tiêu cơ bản là góp phần xây dựng tình đồn kết và thống nhất bền lâu
giữa các quốc gia và dân tộc ASEAN, hướng tới một bản sắc chung; xây dựng một
xã hội đùm bọc, hòa thuận và rộng mở, lấy người dân là trung tâm, Cộng đồng Văn
hóa -Xã hội ASEAN (ASCC) ngày càng chứng tỏ được vị trí đặc biệt của mình trong
tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Nhờ liên kết văn hóa – xã hội ngày càng
mạnh mẽ, sức mạnh của ASEAN ngày càng được nâng cao. Tuy thành lập chưa đầy
2 năm (ngày 31/12/2015), song Cộng đồng ASEAN với ASCC là một trụ cột quan

trọng, đã có nhiều hoạt động tích cực và đạt một số thành quả đáng khích lệ trong
quá trình triển khai “Tầm nhìn đến năm 2025”, gắn kết với Chương trình Nghị sự
2030 của Liên hợp quốc về phát triển bền vững, trong đó lấy lợi ích của người dân
làm trọng tâm phát triển.
Thành tựu chính của ASCC trong thời gian qua là tiếp tục có những kế hoạch
đồng bộ phát triển nguồn lực con người trong bối cảnh các nước thành viên ASEAN
cịn có sự chênh lệch khoảng cách về phát triển. ASEAN là một tập hợp các quốc
gia đa văn hóa, đa sắc tộc, do đó hợp tác văn hóa - xã hội rất được các nước ASEAN
quan tâm. Trong quá trình tăng cường liên kết và đẩy mạnh hợp tác, ASEAN tiếp
tục phát huy chủ trương giải quyết mọi khác biệt trên tinh thần “Phương cách
ASEAN” đề cao đoàn kết, tham vấn và đồng thuận.

13


3. ASEAN là một bộ phận của cấu trúc an ninh khu vực Châu Á- Thái Bình
Dương
Bước vào thế kỷ XXI, ASEAN không chỉ tạo nên những nền tảng quan trọng
cho sự phát triển của các quốc gia thành viên, mà cịn trở thành “hạt nhân”, đóng vai
trị “trung tâm” trong các cơ chế hợp tác và cấu trúc khu vực ở châu Á - Thái Bình
Dương, thu hút được nhiều nước, trong đó có tất cả các nước lớn cũng như nhiều tổ
chức khu vực và toàn cầu quan tâm và cam kết cao đối với hịa bình, ổn định, hợp
tác ở Đơng Nam Á nói riêng và châu Á - Thái Bình Dương nói chung.
- ASEAN là đối tác không thể thiếu trong cơ chế hợp tác của các nước lớn cũng
như các tổ chức kinh tế ở châu Á - Thái Bình Dương. Trong quan hệ với các nước
lớn, ASEAN (Mỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ,…) là đối tác quan trọng hàng đầu, đặc
biệt trong bối cảnh châu Á - Thái Bình Dương được đánh giá là khu vực phát triển
năng động, trỗi dậy mạnh mẽ trong thế kỷ XXI.
Ngồi ra, ASEAN hiện cịn thu hút sự chú ý của các quốc gia khác, như Nhật
Bản, Ô-xtrây-li-a, Ấn Độ và Hàn Quốc.

- Ở quy mô khu vực châu Á - Thái Bình Dương, một số quốc gia ASEAN cũng
là thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
ASEAN được coi là “hạt nhân” xây dựng APEC - một cơ chế quan trọng của cấu
trúc châu Á - Thái Bình Dương.
- Hầu hết các nước lớn ở châu Á - Thái Bình Dương đều tham gia các cơ chế
của ASEAN, như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc
phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị ASEAN với các đối tác
(ASEAN+), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị thượng đỉnh an ninh châu Á
(Đối thoại Sangri La),... và coi đây là “bộ khung” để xây dựng cấu trúc an ninh khu
vực châu Á - Thái Bình Dương.
- Ngồi ra, ASEAN cũng chú trọng các cơ chế an ninh khu vực khác, như: Đối
thoại Shangri-La, Hội thảo An ninh châu Á - Thái Bình Dương (APSEC), Thỏa
thuận Quốc phịng năm nước (FPDA)(2),... góp phần nâng tầm vị trí của ASEAN
đối với an ninh khu vực. Hiện nay, các cơ chế này tiếp tục kiểm soát những bước đi
tiếp theo của ASEAN, đặc biệt trong việc ASEAN thúc đẩy mở rộng liên kết và kết

14


nối ra tồn khu vực Đơng Á nói riêng cũng như châu Á - Thái Bình Dương nói chung
thơng qua các sáng kiến khu vực.
- ASEAN đóng vai trị trung gian hòa giải, làm dịu các bất đồng và căng thẳng
về chính trị - an ninh, chủ quyền lãnh thổ, đặc biệt là các tranh chấp trên biển giữa
một số thành viên trong khu vực với nhau và với Trung Quốc, giữa Trung Quốc và
Nhật Bản, giữa Nhật Bản và Hàn Quốc.
- ASEAN đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm giải quyết các tranh chấp ở Biển
Đông hoặc xây dựng lòng tin giữa các bên nhằm kiềm chế xung đột tiềm tàng, ngăn
chặn đụng độ quân sự làm phức tạp thêm tình hình, chủ yếu thơng qua thương lượng,
đàm phán.
4. ASEAN đã và đang tạo ra các cơ chế thúc đẩy liên kết nội khối và đang triển

khai cộng đồng ASEAN
4.1. Cộng đồng kinh tế
Các nước ASEAN khẳng định cùng chung quyết tâm xây dựng môi trường phát
triển lành mạnh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, coi sự phát triển của các doanh
nghiệp này là động lực chính cho sự tăng trưởng toàn diện trong khu vực.
ASEAN hiện được đánh giá là một thực thể kinh tế ổn định và năng động có
khả năng thích ứng cao trước các chuyển biến của khu vực và thế giới. ASEAN đã
tự chuyển mình thành một khơng gian kinh tế mở và hội nhập với thương mại nội
khối hiện chiếm 1/4 tổng giá trị thương mại toàn khu vực này. Các nước ASEAN
cũng đã đẩy mạnh liên kết kinh tế khu vực thông qua việc xây dựng Khu vực thương
mại tự do ASEAN (AFTA) và các chương trình hợp tác kinh tế khác. Không chỉ
thúc đẩy liên kết nội khối, ASEAN đã xây dựng các liên kết kinh tế với nhiều đối
tác. Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) được ASEAN khởi xướng
lần đầu tiên vào năm 2011 sẽ tạo dựng nên một trong những khối thương mại lớn
nhất thế giới, bao gồm gần một nửa dân số thế giới và hơn 1/3 thương mại toàn cầu.
Với RCEP, sự hội nhập kinh tế của ASEAN sẽ càng sâu sắc bởi hiệp đinh này được
đánh giá là sẽ tạo ra mối quan hệ đối tác kinh tế hiện đại, tồn diện, chất lượng cao
và đem lại lợi ích cho các bên.

15


4.2. Cộng đồng an ninh - chính trị
Trong những thập kỷ qua, trật tự khu vực tương đối ổn định nhờ các cơ chế hợp
tác an ninh, đối thoại, các nguyên tắc của Phương cách ASEAN: Cùng tôn trọng độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hịa bình. Văn
kiện lịch sử chế định mối quan hệ giữa các quốc gia thành viên là Hiệp ước Thân
thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) ra đời ngày 24/2/1976 tại Hội nghị cấp cao
ASEAN lần thứ nhất ở Bali (Indonesia).

ASEAN cũng đã sử dụng TAC thành Bộ luật ứng xử giữa các nước Đông Nam
Á với các nước ngồi khu vực. việc chính thức tun bố thành lập Cộng đồng
ASEAN vào cuối năm 2015, thông qua Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025, cũng
như ba kế hoạch cộng đồng tương ứng là minh chứng rõ ràng cho cam kết quyết tâm
xây dựng ASEAN thành một khối các quốc gia hợp tác và cố kết.
4.3. Cộng đồng văn hóa - xã hội
Cũng trong nửa thế kỷ qua, giá trị và bản sắc chung của khu vực đã được xây
dựng thông qua các hoạt động hợp tác ASEAN trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, qua
đó đã từng bước tăng cường hiểu biết và tình đồn kết giữa nhân dân các nước Đông
Nam Á, giữa các nước trong khu vực với các nước ngoài khu vực. Nhờ các hoạt
động giao lưu thể thao, kết nối văn hóa, giáo dục, các giá trị và bản sắc chung của
khu vực đã được củng cố và ý thức cộng đồng của các nước ASEAN đã được tăng
cường. Nhân quyền và các quyền tự do cơ bản được thúc đẩy và bảo vệ. Văn hóa
dân tộc truyền thống của mỗi nước được bảo tồn và phát huy trong khi cộng đồng
các quốc gia ASEAN chia sẻ bản sắc và giá trị chung. Một trong những yếu tố tạo
nên thành công của các cơ chế hợp tác trong ASEAN là đề cao cách tiếp cận giải
quyết vấn đề một cách tiệm tiến. Đó là cách tiếp cận từ khơng chính thức đến chính
thức, linh hoạt và thỏa hiệp để bảo đảm sự thống nhất trong đa dạng, phù hợp với
hoàn cảnh, khả năng và trình độ phát triển cũng như lợi ích của các quốc gia thành
viên.

16


5. Khái quát quá trình hợp tác, liên kết giữa các nước trong khu vực Đông Nam
Á sau chiến tranh lạnh đến nay
Từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay, khi ASEAN dần thoát khỏi sự ràng buộc của
yếu tố ý thức hệ và chuyển dần sang tập trung phát triển kinh tế, thì sự hợp tác giữa
các nước ASEAN ngày càng chặt chẽ, thực chất và đi vào chiều sâu. Điều đó được
thể hiện ở những ở 3 trụ cột sau:

5.1. Hợp tác chính trị - an ninh
Đến nay, ASEAN đã thiết lập quan hệ đối tác đối thoại với 11 nước, trong đó
có tất cả các nước lớn, các nước chủ chốt tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và
Liên minh châu Âu (EU). Hiện có tổng số 86 nước cử đại sứ tại ASEAN, có 9/11
đối tác đối thoại đã lập phái đoàn riêng tại ASEAN và 50 ủy ban ASEAN tại nước
thứ ba hoặc tổ chức quốc tế được thiết lập. Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông
Nam Á (TAC) được ký kết tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ nhất ở Thủ đơ Bali (In-đơ-nê-xi-a, năm 1976) nhằm thúc đẩy hịa bình, thân thiện và hợp tác giữa các
thành viên, hiện đã trở thành cơ chế quan trọng điều phối các hoạt động của ASEAN
trong quan hệ với các đối tác. Việc có tới 35 nước tham gia hiệp ước này cho thấy
mong muốn của ASEAN mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác bên
ngoài, đồng thời cũng thể hiện vai trò ngày càng quan trọng của ASEAN.
Từ một cơ cấu hợp tác có tính tiểu khu vực của Đông Nam Á, ASEAN đã trở
thành “hạt nhân” đóng vai trị “trung tâm” trong các cơ chế hợp tác và cấu trúc khu
vực ở châu Á - Thái Bình Dương, quy tụ được tất cả các nước lớn và các nước khác
cũng như nhiều tổ chức khu vực và toàn cầu can dự cũng như cam kết cao đối với
hịa bình, ổn định, hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
ASEAN cũng đã thành cơng trong việc điều hịa mối quan hệ với các nước lớn
trong khu vực và trên thế giới. ASEAN đã trở thành một “hiện tượng đặc biệt” trong
quan hệ quốc tế hiện đại, theo đó một tập thể gồm 10 nước vừa và nhỏ đã có thể thu
hút các nước lớn vào một mạng lưới các khuôn khổ đối thoại để quản lý xung đột,
đồng thời đẩy mạnh hội nhập kinh tế, chính trị và văn hóa - xã hội ở châu Á - Thái
Bình Dương.
Trong vấn đề Biển Đơng, ASEAN đã thể hiện vai trị, trách nhiệm của mình
đối với việc bảo đảm hịa bình, ổn định, an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng
17


không ở khu vực này. Việc ASEAN ra tuyên bố riêng về Biển Đông lần đầu tiên sau
20 năm thể hiện sự quan ngại chung của ASEAN về các diễn biến căng thẳng ở Biển
Đông. Các nước khẳng định trách nhiệm của Hiệp hội đối với hịa bình và ổn định

khu vực cũng như sự đoàn kết của ASEAN trước khó khăn, thử thách.
5.2. Hợp tác kinh tế
Chưa đầy một thập kỷ sau khi ASEAN quyết định thành lập Khu vực Mậu dịch
Tự do ASEAN (AFTA) năm 1992, liên kết kinh tế ASEAN đã không ngừng mở
rộng, bao trùm hầu hết các lĩnh vực chính của nền kinh tế từ thương mại hàng hóa
đến thương mại dịch vụ và đầu tư.
Trước cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, ASEAN nổi lên như
một điểm sáng, vẫn duy trì mức tăng trưởng trung bình là 5% - 6% kể cả trong thời
kỳ khó khăn là năm 2011 - 2012. Hiện nay, ASEAN đã tạo ra thị trường rộng lớn
630 triệu dân, với tổng GDP 3.000 tỷ USD, tăng trưởng 4,7% một năm. ASEAN
cũng có sự hấp dẫn đối với các nước, xây dựng liên kết kinh tế thông qua các hiệp
định thương mại tự do (FTA), tạo ra thị trường ba tỷ dân với tổng GDP 20.000 tỷ
USD
5.3. Hợp tác văn hóa - xã hội
Kể từ những ngày đầu thành lập, mục tiêu hợp tác về văn hóa – xã hội trong
ASEAN đã được chú trọng cùng với các mục tiêu về đảm bảo hịa bình, ổn định, an
ninh khu vực và tăng cường hợp tác kinh tế. Trải qua một quá trình hợp tác và phát
triển, sau khi Hiệp hội đã bao gồm cả 10 quốc gia Đông Nam Á, Lãnh đạo các nước
ASEAN đã thông qua văn kiện quan trọng là Tầm nhìn ASEAN 2020, với mục tiêu
tổng quát nhằmđưa Hiệp hội trở thành “một nhóm hài hịa các dân tộc Đơng Nam
Á, gắn bó trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau”. Đồng thời, ý tưởng
về việc xây dựng Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN cùng với 2 Cộng đồng khác
là Chính trị - An ninh và Kinh tế được hình thành.
Tháng 10/2003, Lãnh đạo các nước ASEAN đã ký Tuyên bố Hòa hợp ASEAN
II (Tuyên bố Ba-li II), nhất trí đề ra mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào
năm 2020 với ba trụ cột chính: Cộng đồng Chính trị - An ninh (APSC), Cộng đồng
Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ASCC); đồng thời khẳng định

18



ASEAN sẽ tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với các đối tác bên ngồi khối, vì
mục tiêu chung là hịa bình, ổn định và hợp tác cùng có lợi ở khu vực.
Để kịp thích ứng với những chuyển biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình
quốc tế và khu vực cũng như trên cơ sở những thành tựu của ASEAN trong 40 năm
qua, nhất là kết quả thực hiện Chương trình hành động Viên Chăn (VAP), tháng
1/2007, với quyết tâm đẩy nhanh tiến trình liên kết nội khối dựa trên cơ sở pháp lý
là Hiến chương ASEAN, Lãnh đạo các nước ASEAN đã nhất trí đẩy nhanh hơn mục
tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 (thay vì vào năm 2020 như thỏa
thuận trước đây). Theo đó, ASEAN đã khẩn trương xúc tiến xây dựng các Kế hoạch
tổng thể (Blueprint) để xây dựng Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN, Cộng đồng
Kinh tế ASEAN và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN, trong đó đề ra mục tiêu và
thời hạn hoàn thành đối với từng biện pháp, hoạt động cụ thể.
Những thành tựu đạt được của Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN
Góp phần thúc đẩy sự thay đổi xã hội trong khu vực, cụ thể như: hợp tác khu
vực được tăng cường; giảm đáng kể tình trạng nghèo cùng cực ở một số nước thành
viên ASEAN (AMS); cải thiện sức khỏe và giáo dục; gia tăng chất lượng lực lượng
lao động đáp ứng nhu cầu lao động khu vực và toàn cầu; phát triển cơ sở hạ tầng và
phát triển các phong cách sống tích cực, tỷ lệ phụ nữ tham gia nghị viện đạt mức
18,5%; đã có 24 di sản văn hố của ASEAN được UNESCO cơng nhận... Ngồi ra,
số dân trong độ tuổi 15-24 biết chữ ở khu vực ASEAN đã đạt tỷ lệ hơn 98%.
Tuy nhiên, đói nghèo, dịch bệnh, thiếu tiếp cận trường học, thảm họa thiên tai,
ô nhiễm môi trường vẫn đang là những thách thức lớn của Cộng đồng các nước thành
viên ASEAN. Do đó, vẫn cịn cần phải làm nhiều việc hơn nữa để bảo đảm những
lợi ích và kết quả của sự tiến bộ, cần phải tìm các giải pháp thích ứng với biến đổi
khí hậu trong việc xây dựng một ASEAN bền vững, tự cường.
III. Sự tham gia của Việt Nam vào quá trình hợp tác, liên kết ASEAN
1. Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN
Ngày 28/7/1995, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 (AMM28) tại Bru-nây Đa-rút-xa-lam, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và trở thành
thành viên thứ 7 của tổ chức này. Kể từ đó đến nay, Việt Nam đã nhanh chóng hội

nhập, tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN và có những
19


đóng góp tích cực trong việc duy trì đồn kết nội khối, tăng cường hợp tác giữa các
nước thành viên cũng như giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài, góp phần khơng
nhỏ vào sự phát triển và thành cơng của ASEAN ngày hôm nay.
Quyết định gia nhập ASEAN là một bước đi chiến lược đúng đắn và sáng suốt
của Đảng và Nhà nước ta, đánh dấu cột mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập
quốc tế của đất nước. ASEAN là một trong những điểm đột phá đầu tiên để chúng
ta triển khai phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại mà Đại
hội Đảng lần thứ VII đã đề ra.
2. Việt Nam là thành viên tích cực của ASEAN
Q trình Việt Nam tham gia ASEAN luôn gắn với những chủ trương lớn về
đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định: “Chúng ta mong muốn và sẵn sàng
cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề Đông Nam Á,
thiết lập quan hệ cùng tồn tại hịa bình, xây dựng Đơng Nam Á thành khu vực hịa
bình, ổn định và hợp tác”.
Đại hội Đảng lần thứ X nhấn mạnh “thúc đẩy quan hệ hợp tác tồn diện và có
hiệu quả với các nước ASEAN, các nước Châu Á-Thái Bình Dương”. Đến Đại hội
Đảng XI, thế và lực mới của đất nước đã giúp chúng ta tự tin đặt mục tiêu độc lập,
tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điểm mới trong phương châm đối ngoại của Đại
hội XI là “hội nhập quốc tế” và “thành viên có trách nhiệm”, “chủ động, tích cực và
có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường
quan hệ với các đối tác, duy trì và củng cố vai trò quan trọng của ASEAN trong các
khuôn khổ hợp tác ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương”, “phấn đấu cùng các nước
ASEAN xây dựng Đơng Nam Á thành một khu vực hịa bình, ổn định, hợp tác và

phát triển phồn vinh”. Có thể nói, các giai đoạn Việt Nam tham gia ASEAN luôn
đồng hành, là một trong những cơ sở cho quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Việt
Nam.
Đối với Việt Nam, việc gia nhập ASEAN cách đây hơn 2 thập kỷ là một trong
những điểm đột phá đầu tiên để triển khai phương châm đối ngoại đa phương hóa,
20


đa dạng hóa. Quyết sách đúng đắn của Ðảng và Nhà nước đã đem lại nhiều lợi ích
cho đất nước trong bối cảnh lúc bấy giờ, khi Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi
mới, khắc phục hậu quả chiến tranh để hướng tới hội nhập khu vực và quốc tế. Gia
nhập ASEAN, Việt Nam đã góp phần biến đổi môi trường chung quanh từ trạng thái
đối đầu, nghi kỵ lẫn nhau sang bắt tay hợp tác.
Tầm quan trọng cùng vai trò và thực lực ngày càng lớn mạnh của ASEAN cũng
đã tạo cơ sở cho Việt Nam phát huy thế và lực của mình. Trong ASEAN, Việt Nam
được coi là điểm sáng do tình hình chính trị - xã hội ổn định, an ninh được bảo đảm,
kinh tế phát triển năng động, môi trường kinh doanh, đầu tư hấp dẫn. Các nước
ASEAN và đối tác của ASEAN, nhất là những nước lớn, đánh giá cao vị trí và vai
trị quan trọng của Việt Nam, coi Việt Nam là nhân tố phải tính đến trong hoạch định
và triển khai chính sách đối với khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương.
Kể từ khi gia nhập đến nay, cùng với sự phát triển của ASEAN, Việt Nam có
đóng góp rất nhiều.
Một là chúng ta tham gia tích cực vào việc thúc đẩy đoàn kết nội khối ASEAN,
tăng cường hợp tác ASEAN trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của ASEAN.
Hai là, chúng ta chủ động thúc đẩy việc mở rộng các khuôn khổ hợp tác của
ASEAN, đặc biệt là thúc đẩy hợp tác để gắn kết cả 10 nước với nhau, đưa ASEAN
trở thành tổ chức đại diện cho toản khu vực, chấm dứt thời kỳ chia rẽ giữa các nhóm
nước, mở ra giai đoạn hợp tác hữu nghị cùng phát triển ở khu vực. Chúng ta đã đăng
cai tổ chức Hội nghị ở Hà Nội năm 1998. Có thể nói, đó là mốc đánh dấu nỗ lực mới
của ASEAN trong thu hẹp khoảng cách phát triển, gia tăng liên kết, cũng như thúc

đẩy sáng kiến liên kết tiểu vùng, trong đó có sáng kiến hành lang Đơng Tây.
Thứ 3 là chúng ta tích cực tham gia vào các nỗ lực chung của ASEAN vì hịa
bình, ổn định và hợp tác trong khu vực. Đặc biệt trong việc triển khai các tuyên bố
quan trọng của ASEAN như Hiệp ước về láng giềng thân thiện ở Đông Nam Á, Khu
vực hịa bình khơng vũ khí hạt nhân hay là Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở
biển Đông ASEAN - Trung Quốc.
Thứ tư là chúng ta nỗ lực và thúc đẩy xây dựng cộng đồng ASEAN trên cơ sở
cả 3 trụ cột: kinh tế, chính trị an ninh và văn hóa – xã hội. Một điểm nổi bật nữa là
chúng ta tham gia ngay từ đầu trong xây dựng Hiến chương ASEAN, được thông
21


qua tháng 11/2007. Tiếp theo, cùng các nước ASEAN hoàn thiện khung pháp lý
cũng như các quy định thủ tục liên quan đến bộ máy mới của Hiến chương, tạo điều
kiện cho Hiến chương đi vào cuộc sống.
Bên cạnh việc tăng cường thúc đẩy hợp tác và liên kết nội khối, Việt Nam đã
tích cực tham gia thúc đẩy hợp tác giữa ASEAN với các nước đối tác bên ngoài trên
nhiều lĩnh vực khác nhau, đồng thời góp phần đề cao và giữ vững vai trò chủ đạo
của ASEAN tại các tiến trình hợp tác khu vực. Với tư cách là nước điều phối quan
hệ đối thoại giữa ASEAN với nhiều đối tác quan trọng như Nhật Bản, Nga, Mỹ,
Ôxtrâylia, Canada và hiện tại là Trung Quốc, Việt Nam đã phát huy vai trị là cầu
nối tích cực tăng cường quan hệ giữa ASEAN với các đối tác này, kể cả việc góp
phần tháo gỡ một số vướng mắc, giúp nâng tầm quan hệ giữa 2 bên, đuợc cả ASEAN
và các nước Đối thoại đánh giá cao. Điều đó đã giúp Việt Nam củng cố được vị thế
chiến lược của mình trong khu vực, hội nhập vững chắc trong liên kết song phương
thông qua xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với các nước thành viên ASEAN,
như Indonesia, Singapore, Thái Lan; tham gia các cơ chế liên khu vực, như
ASEAN+3, Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn hợp tác châu Á-Thái Bình
Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM)... Việc mở rộng thị trường, tăng
thêm đối tác... cũng giúp Việt Nam phát triển về kinh tế, tranh thủ sự giúp đỡ, đầu

tư của các đối tác nước ngoài và nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực cũng
như trên trường quốc tế..
Việt Nam luôn coi trọng hợp tác ASEAN vì ASEAN có tầm quan trọng chiến
lược đối với an ninh và phát triển của Việt Nam. Lãnh đạo Cấp cao của Việt Nam
cũng đã chỉ đạo phương châm tham gia ASEAN của Việt Nam trong giai đoạn mới
sẽ là “tích cực, chủ động và có trách nhiệm”. Theo đó, để nâng cao hiệu quả tham
gia hợp tác ASEAN trong tình hình mới, Việt Nam đã có nhiều đổi mới, từ nâng cao
nhận thức và xác định phương hướng, biện pháp hợp tác đến việc cải thiện hiệu quả
của tổ chức bộ máy và tăng cường phối hợp giữa các Bộ, ngành tham gia hợp tác
ASEAN, tạo nên một nỗ lực chung của quốc gia. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban
hành Quy chế làm việc và phối hợp hoạt động giữa các cơ quan tham gia hợp tác
ASEAN của Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới của ASEAN sau khi có Hiến
chương, nhẳm nâng cao chất luợng và hiệu quả công tác phối hợp trong bộ máy các
cơ quan tham gia ASEAN của Việt Nam.
22


ASEAN với 10 nước thành viên, có lợi ích khác nhau, quan điểm khác nhau về
nhiều vấn đề. Tuy nhiên, ASEAN ngày nay đã trở thành một thực thể có tiềm lực cả
về chính trị, kinh tế, đã và đang góp phần định hình các cấu trúc và cuộc chơi trong
khu vực, các nước lớn đều quan tâm và đặt ASEAN ở vị trí quan trọng trong những
tính tốn chiến lược của mình. Để giữ được vai trị trung tâm ấy, duy trì được sức
hút ấy, ASEAN cần gắn kết, đoàn kết chặt chẽ. Sự đoàn kết, thống nhất, tinh thần
tương trợ đã giúp các nước thành viên đồng lòng nhất trí cùng nhau, đã tạo nên
những thành tựu chung, và chính những thành tựu này lại như một sự đóng dấu chất
lượng, giúp các thành viên tin tưởng hơn vào giá trị của ASEAN, để tiếp tục gắn bó
và phấn đấu vì những mục tiêu chung.
Tham gia vào ASEAN cũng có nghĩa là Việt Nam sẽ cùng chung vai gánh vác
những thách thức chung của Hiệp hội trong tương lai. Việt Nam đang cùng ASEAN
bước sang một giai đoạn phát triển mới, xây dựng một tầm nhìn, tạo ra một sân chơi

khu vực toàn diện từ nay đến 2025. Việc hội nhập toàn diện với ASEAN cũng là
cách để Việt Nam có thể tham gia hội nhập tồn cầu mạnh mẽ hơn.

23


KẾT LUẬN
Trải qua hơn nửa thế kỷ hình thành và phát triển với nhiều thăng trầm, ASEAN
đã khẳng định vị thế của một tổ chức vững mạnh, liên kết sâu rộng và là đối tác
không thể thiếu của các nước trên thế giới với những thành tựu đáng tự hào. Từ
những quốc gia nhỏ còn nghi kỵ lẫn nhau, bây giờ ASEAN đã trở thành một tổ chức
thống nhất gồm cả 10 nước trong khu vực Đông Nam Á. Với tổng dân số 635 triệu
dân, ASEAN là nền kinh tế lớn thứ 6 thế giới và thứ 3 châu Á sau Trung Quốc và
Ấn Độ.
Dự đoán ASEAN sẽ là nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới trong năm 2025. Quan
trọng hơn nữa, ASEAN đã hình thành một khn khổ hợp tác ở trong khu vực tương
đối ổn định. Sự phối hợp chính sách và đối thoại trong ASEAN cho phép tổ chức
này trở thành một ngọn hải đăng của hịa bình và ổn định trên thế giới, tạo điều kiện
cho sự phát triển bền vững của từng quốc gia thành viên cũng như chính ASEAN.
Đối với Việt Nam, dù gia nhập muộn nhưng những gì mà chúng ta đã đóng góp
cho ASEAN trong hơn 23 năm qua kể từ khi gia nhập khối (28/7/1995) là hết sức
đáng tự hào. Trong thời gian tới, chắc chắn mối quan hệ của Việt Nam và ASEAN
sẽ ngày càng được củng cố thêm. Đây là cơ hội lớn cho Việt Nam để sớm hoàn thành
mục tiêu xây dựng đất nước văn minh, giàu đẹp, phát triển và có vị thế cao trong
khu vực cũng như trên thế giới.

24




×