Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tải Phân tích hình ảnh người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu - Bài văn mẫu lớp 11 hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.3 KB, 14 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích Hình ảnh người nơng dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn</b>
<b>Đình Chiểu -Lớp 11</b>


<b>Đề bài:</b> Trong văn tế nghĩa sĩ cần giuộc của Nguyễn Đình Chiểu có một tượng đài nghệ
thuật mang tính bi tráng về người nơng dân u nước chống giặc ngoại xâm. Anh chị hãy
phân tích bài văn tế để làm rõ vẻ đẹp hiếm có của hình tượng nghệ thuật đó.


<b>Dàn ý chi tiết</b>


<b>1. Hình tượng của người nông dân nghĩa sĩ:</b>


<b>a. Bối cảnh thời đại và ý nghĩa cái chết của những người nghĩa quân:</b>


Bối cảnh thời đại diễn ra hết sức căng thẳng và ác liệt thể hiện tình hình nguy nan của
dân tộc. "Súng giặc đất rền"


<b>b. Nghệ thuật:</b>đối lập giữa "súng giặc" (thế lực xâm lược) >< "lòng dân" (sự yêu nước,
lòng căm thù giặc tỏ rõ). Mở đầu sử dụng câu cảm thán => thể hiện sự hoành tráng cho
bức tượng đài nghệ thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

sĩ là cái chết bất tử, lưu lại tiếng thơm mn đời (chết vì độc lập dân tộc ln hằng in dấu
trong lịng con cháu đời sau và đặc biệt là trong lịng tác giả).


<b>2. Hình ảnh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc:</b>
<b>a. Nguồn gốc xuất thân của những người nghĩa sĩ:</b>


- Là những người nông dân cần cù lao động, vất vả, cuộc sống gắn liền với đồng ruộng
- Hoàn toàn xa lạ với những vũ khí như khiên, súng, mác....


- Nghệ thuật: đối lập -> nhấn mạnh nguồn gốc nông dân của những người nghĩa sĩ
-> Cảm thơng, thương xót, chia sẻ với người nơng dân.



<b>b. Khi có giặc người nơng dân trở thành người nghĩa sĩ đánh Tây:</b>
<b>a. Xuất phát từ lòng yêu nước và căm thù giặc:</b>


- Sự quan tâm đến tình cảnh của đất nước "tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng"
- Căm ghét bọn quan lại hèn nhát, bán nước cầu vinh "trông tin quan như trời hạn trông
mưa"


- Căm thù bọn giặc cướp nước "ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ"
- Nghệ thuật: so sánh ghét lũ giặc như nhà nơng ghét cỏ.


-> Thể hiện tính chất căm thù giặc mãnh liệt, sâu sắc, cao độ.


- Nhận thức về chủ quyền lãnh thổ: là một khối thống nhất, toàn vẹn -> khi giặc đến cần
phải bảo vệ.


- Cách nói độc đáo, cụ thể


- Vạch trần tội ác của giặc, lũ bán nước cầu vinh "treo dê bán chó" -> khơng dung tha kẻ
lừa dối, bịp bợm.


- Tự nguyện tham gia đánh giặc


-> Sự chuyển hóa phi thường của người chiến sĩ nghĩa quân Cần Giuộc: từ những người
nơng dân áo vải bình thường trở thành những người chiến sĩ vì có tấm lịng u nước.
(Cách đánh giặc, suy nghĩ... vẫn cịn mang vóc dáng nơng dân: chiến sĩ nghĩa quân)
Sử dụng động từ mạnh "ra sức đoạn kình", "dốc ra tay bộ hổ"


-> Chính lịng căm thù giặc đã tạo nên ý chí chiến đấu chống ngoại xâm của người nghĩa
sĩ là ý thức tự gánh lấy trách nhiệm cứu nước thật cao đẹp.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- Điều kiện chiến đấu: thiếu thốn, dùng vũ khí thơ sơ
- Động cơ đánh giặc: lòng yêu nước, căm thù giặc
-> Vẻ đẹp hào hùng bi tráng


- Nghệ thuật đối lập: dụng cụ đánh giặc thơ sơ >< vũ khí hiện đại. Tuy dụng cụ thô sơ
nhưng ta thắng trên cơ sở đồn kết một lịng của nhân dân cùng lòng yêu nước. -> tinh
thần chiến đấu hùng tráng, tuyệt vời.


-> Khí thế của ta mạnh như vũ bão, làm cho giặc kinh hồng -> xơng trận với khí thế oai
hùng, gan dạ, dũng cảm, sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn, chiến đấu bằng cả trái tim yêu
nước của mình.


- Sử dụng động từ mạnh liên tiếp, cách ngắt nhịp dồn dập, ngắn gọn, giọng văn hào hùng
mang tính sử thi.


=> Nghệ thuật tả thực kết hợp với trữ tình, phép tương phản giàu nhịp điệu tác giả đã
dựng nên tượng đài nghệ thuật về người nông dân nghĩa sĩ bình dị mà phi thường.


<b>3. Tiếng khóc cho những người nghĩa sĩ:</b>


<b>a. Tiếng khóc xót thương cho những người nghĩa sĩ:</b>
- Trong nỗi xót thương pha lẫn nhiều nỗi niềm.


- Có sự tiếc hận của người phải hi sinh khi sự nghiệp cịn dang dở.


- Nỗi xót xa của những gia đình mất người thân tổn thất khơng thể bù đắp.
- Nỗi căm hờn những kẻ gây nên cảnh éo le.


- Hịa chung tiếng khóc uất ức, nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất nước, dân
tộc, nhiều niềm cảm thương ấy cộng lại thành nhiều nỗi đau sâu nặng khơng chỉ ở trong


lịng người mà dường như cịn bao trùm cả cỏ cây, sơng núi.


<b>b. Tiếng khóc cảm phục và tự hào:</b>


- Đối lập với lẽ sống cao đẹp của những người nghĩa sĩ là lối sống tầm thường, ô nhục
của những kẻ bán nước cầu vinh, tác giả không tiếc chửi rủa.


- Nhưng cũng không tiếc lời ca ngợi những người nông dân Cần Giuộc đã lấy cái chết
làm rạng ngời chân lí cao đẹp: thà chết vinh còn hơn sống nhục.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

mà còn hướng về cuộc sống đau thương của cả dân tộc. Khơng chỉ gợi nỗi đau thương mà
cịn khích lệ lịng căm thù giặc, ý chí tiếp nối sự nghiệp dở dang của người chiến sĩ.


<b>Bài tham khảo số 1</b>



Có thể nói, với bài văn tế này Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật
đầu tiên về người nơng dân nghĩa sĩ Việt Nam. Đó là một hình tượng rất đẹp, rất chân
thực đầy tính bi tráng - bi thương mà hào hùng .


Người nông dân Việt Nam yêu nước chống ngoại xâm đã xuất hiện từ rất lâu, ít nhất cũng
trên mười thế kỉ nay. Nhưng trong văn học, hình ảnh người nơng dân ấy chỉ thực sự xuất
hiện vào nửa cuối thế kỉ XIX với bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyền Đình Chiểu.
Có thể nói, với bài văn tế này Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật
đầu tiên về người nơng dân nghĩa sĩ Việt Nam. Đó là một hình tượng rất đẹp, rất chân
thực đầy tính bi tráng - bi thương mà hào hùng - đúng như cuộc chiến đấu mà nhân dân
Việt Nam đã tiến hành suốt nửa sau thế kỉ XIX, vì cuộc sống, vì độc lập, tự chủ của Tổ
quốc mình.


Tuy vậy, dù buồn thương, nhà thơ không bao giờ tuyệt vọng. Với niềm tin vào sức
mạnh mn đời của Tổ quốc, tin ở lịng yêu nước của những người dân ; dân lân bình dị


và thiết tha, nhà thơ luôn luôn hướng về một tương lai tốt đẹp. Non sơng rồi sẽ sạch bóng
qn xâm lược, mối nhục mất nước rồi sẽ được rửa sạch làu làu:


<i>Chừng nào Thánh đế ân soi thấu</i>
<i>Một trận mưa nhuần rửa núi sơng.</i>


(Ngóng gió đơng)
Đó là một niềm tin cảm động và mạnh mẽ. Có lẽ trước Nguyền Đình Chiểu, chưa có một
nhà thơ nào sáng tác với một ý thức rõ rệt như ông:


<i>Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm</i>
<i>Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.</i>


Cái đạo của ơng khơng là gì khác ngồi đạo u nước thương dân. Đó là nguồn gốc
khiến thơ văn ơng có sức rung cảm lớn, nguồn gốc đưa tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu đứng
vào vị trí vẻ vang trong nền văn học nước nhà.


Nguyễn Đình Chiểu đã rất có lí, rất sắc khi mở đầu khúc bi ca của mình:
<i>Hỡi ơi!</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Quả là, qua cuộc chiến đấu này, qua cái thử thách khắc nghiệt này, bán chất trọn vẹn,
tấm lịng u nước của những người nơng dân bình thường này, vẻ đẹp thực sự của tâm
hồn họ, mới được tỏ bày cùng trời đất. Trước đây, họ vẫn tồn tại, nhưng nào ai biết đến
họ. Họ vẫn có đấy, sống đấy, nhưng sống trong thầm lặng của sự quên lãng. Nguyễn
Đình Chiểu, với sự cảm thơng cao độ, nhận ra rằng cuộc sống của họ đã từng vạt vả xiết
bao:


<i>Nhớ linh xưa:</i>
<i>Cui cút làm ăn,</i>
<i>Toan lo nghèo khó.</i>



Bao nhiêu lượng thông tin chúa đựng trong tám tiếng ngắn ngủi ấy đã nói với chúng ta
rất đầy đủ về tình cảnh của người nông dân cần Giuộc, người nông dân lục tính, cũng là
người nơng dân Việt Nam ngày đó. Bóng dáng của họ, nhỏ bé và cơ đơn trong cuộc sống,
cặm cụi, lầm lũi, lặng lẽ gập người trên những cánh đồng, oằn vai cam chịu bao nhiêu
gánh nặng của cuộc sống, sự khắc nghiệt và những tai họa từ thiên nhiên, từ xã hội, như
hiện lên rõ mồn một qua từng chữ. Tưởng như, chừng ấy lo toan vất vả cũng đã quá đủ
đối với họ; tưởng như họ, những người nơng dân vất vả ấy, chẳng cịn có thể nghĩ gì thêm,
lo toan gì thêm ngồi những “toan lo nghèo khó” vốn đã quá lớn lao ấy.


Thế mà không, quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, đã đến tận xóm làng, đã đến tận
ngơi nhà của họ. Và, những con người đang cúi xuống ấy bỗng đứng phắt dậy, vươn vai,
và họ chợt trở thành người khổng lồ như chú bé làng Gióng mày nghìn năm xưa khi chợt
nghe lời truyền của sứ giả. Nhưng có một điều cơ bản rất khác xưa là tiếng rao truyền cứu
nước không phải phát đi từ cung điện nhà vua mà đã được phát đi từ chính trái tim của
những người nơng dân Cần Giuộc. Nó chính là lịng căm thù giặc sục sơi vì hành động
cướp nước:


Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nơng ghét cỏ.
<i>Bữa thấy bịng bịng che trắng lốp: muốn tới ăn gan;</i>


<i>Ngày xem ống khói chạy đen sì: muốn ra cắn cổ</i>


Như một phản ứng hạt nhân tất yếu, lòng căm thù giặc cao độ đã làm nảy sinh một khát
vọng cao độ: Khát vọng đánh giặc. Đó là một ước muốn hoàn toàn tự nhiên và cũng hồn
tồn tự nguyện:


<i>Nào đợi ai địi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;</i>
<i>Chẳng thèm trốn ngược trốn xi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

ấy là nét bản chất nhất trong hành động của mọi người nghĩa sĩ thực sự. Phải chăng đó là
sự tiếp tục giữa nghĩa sĩ Cần Giuộc đánh ngoại xâm với chàng tráng sĩ Lục Vân Tiên
đánh cướp mà động cơ duy nhất:


<i>Nhớ câu kiến ngãi bất vi</i>


<i>Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.</i>


Trong mọi việc nghĩa, khơng có việc nào lớn hơn việc cứu nước. Thấy việc nghĩa thì
phải làm, làm một cách vô tư, không vụ lợi, không chần chừ, khơng cần đợi có đủ điều
kiện mới làm. Đó là chỗ bi kịch của người nơng dân Cần Giuộc, đó cũng là chỗ hùng ca
của người nghĩa sĩ Gần Giuộc. Bi kịch vì:


<i>Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng,</i>
<i>Trông tin quan như trời hạn trông mưa.</i>


Họ bắt đầu cuộc chiến đấu vào lúc lẽ ra triều đình phong kiến cùng quan quân của họ
đã phải tiến hành cuộc chiến đấu ấy từ lâu nhưng lại “án binh bất động” một cách khó
hiểu. Bi kịch cịn cho họ là những người:


<i>Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung</i>
<i>Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ,</i>


<i>Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy... tay vốn quen làm</i>
<i>Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ... mắt chưa từng ngó</i>


Bước vào chỗ sống chết của chiến trường mà những con người ấy chỉ mang theo những
trang bị vừa đủ để làm những người cày ruộng. Trước giặc dữ là những tên lính nhà nghề
vừa có đủ thứ “tàu thiếc tàu đơng’', ‘‘đạn nhỏ đạn to", họ chỉ là những người nông dân
khơng có kiến thức gì vê trận mạc, chỉ có “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vơng”, chỉ


có “lưỡi dao phay”. Cuộc chiến đấu mới chênh lệch làm sao! Kết thúc cuộc chiến đấu ấy
như thế nào thì đã rõ ràng rồi. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc,
cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy, tấn bi kịch đã đưa
đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.


Nhưng chính trong cái bi kịch ấy, bản hùng ca của cuộc sống đã cất lên. Hùng ca trước
hết là ở sự ngoan cường của những con người quyết chiến thắng, vượt lên trên nỗi lo thất
bại để chiến thắng, lấy tinh thần, xả thân vì nghĩa để bù đắp hết mọi sự thiếu hụt, chênh
lệch của mình so với kẻ thù:


Chi nhọc quan quản gióng trống kì; trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như
không;


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Thật là phấn chấn, thật là hào hùng, thật là hả dạ. Đúng là họ đã chiến đấu như những
người lính tuyệt vời dũng cảm. Ở đây, sức mạnh tinh thần đã phát huy đến mức độ tối đa
và trong chừng mực nào đó, đã tỏ rõ hiệu quả của nó trước sức mạnh của chiến thuật, của
vũ khí, trang bị:


Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia Gươm đeo dùng bằng
lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ. ... Kẻ đâm ngang người chém ngược, làm
cho mã tà ma lí hồn kinh...


Trong văn chương Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, quả chưa hề có một bức
tranh hào hùng như thế về tư thế chiến đấu của người lính áo vải. Hình ảnh người nơng
dân ở đây là sự kết tinh và thăng hoa ở mức độ cao nhất những gì vốn là bản chất của họ.
Trong những giây phút tuyệt vời ấy, người nông dân Cần Giuộc đã đi vào vĩnh cửu.


Quả Nguyền Đình Chiểu đã tạc nên một bức tượng đài của người nông dân - nghĩa sĩ
Cần Giuộc. Nhưng đây không phải là tượng đài của một người, mà của nhiều người, của
một tập thể anh hùng. Khơng có cái tập thể ấy, khơng làm sao có được sự hịa hợp tuyệt


đẹp, cái khí thế bừng bừng áp đảo hiểm nghèo, áp đảo cái chết, với những “đạp rào lướt
tới”, “xô của xang vào”, với những “kẻ đâm ngang, người chém ngược”, “bọn hè trước,
lũ ó sau" như thế dược.


Bức tượng đài của Nguyễn Đình Chiểu chỉ có một tên gọi chung là “Nghĩa sĩ Cần
Giuộc”, cịn mỗi người nghĩa sĩ trên đó đều vơ danh. Họ đã sống những cuộc đời của
quần chúng vô danh và chết cái chết của quần chúng vô danh. Họ khơng hề tìm một điều
gì cho riêng mình khi chiến đấu. Cái điều duy nhất họ gửi lại cho địi, điều mà Nguyễn
Đình Chiểu nêu lên như một tiêu chí chung bên dưới bức tượng đài của họ, ấy là cái triết
lí sống này:


<i>Chết vinh hơn sống nhục.</i>


<i>Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh</i>
<i>Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ</i>


Hồn thành bức tượng đài của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã để một phần cuối cho
những lời ngợi ca, thương tiếc và thắp những nén hương kính trọng:


Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên đàn Cây hương nghĩa sĩ thắp
thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>Bài tham khảo số 2</b>


Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc là đỉnh cao sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và cũng
là tác phẩm biểu hiện tập trung nhất, sâu sắc nhất tư tưởng u nước, thương dân của ơng.
Với lịng thương cảm và khâm phục chân thành, nhà thơ đã dựng nên một tượng đài nghệ
thuật bất hủ về người anh hùng nghĩa sĩ nơng dân trong thời kì lịch sử chiến đấu chống
ngoại xâm của dân tộc. Có thể nói bài Văn tế là khúc ca bi tráng về người nghĩa sĩ nơng
dân dám xả thân vì sự sống cịn của đất nước.



Vẻ đẹp đầu tiên ở họ là tinh thần tự nguyện đánh giặc, vốn là những người dân cày quanh
năm côi cút làm ăn, điều lo toan hằng ngày của họ là làm sao cho đủ ăn đủ mặc, đừng đói
khổ, rách rưới. Họ biết thân phận mình là hèn mọn trong xã hội, ngoài sưu thuế phài nộp
cho đủ, họ đâu dám nghĩ đến công to việc lớn. Quốc gia đại sự là của vua quan và triều
đình. Vậy mà giờ đây, giặc Lang Sa tràn sang cướp nước, gieo rắc tanh hôi (tinh chiên)
đã ba năm mà mặt mũi quan quân chẳng thấy ở đâu, có chăng nữa thì chi là lũ hèn nhát
chạy dài. Cảnh tượng ấy khiến họ không thể bưng tai bịt mắt làm ngơ. Lịng u nước
hun đúc từ nghìn xưa trong huyết quản sôi sục, họ tự nguyện đứng lên đánh giặc:


Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xi,
chuyến này dốc ra tay bộ hổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Vẻ đẹp tinh thần của họ là dám đánh, dám hi sinh; một lòng xin ra sức, ra tay, cống hiến
sức mình cho Tổ quốc. Tịnh thần dám đánh, dám hi sinh ấy càng đẹp biết bao nhiêu khi
họ chi là những người dân ấp dân lân, tự liên kết thành đội ngũ để chiến đấu chứ khơng
phải là qn lính của triều đình. Từ cửa nếp nhà tranh của mình, họ xơng thẳng vào trận,
không hề được luyện tập mảy may. Tỉnh thần ấy lại thêm lớn lao khi nhìn vào vũ khí
trong tay họ. Có thể nói, trang bị sắc bén của họ chính là tấm lịng u nước và nghĩa lởn
vì nước, chứ rơm con cúi, lưỡi dao phay, gậy tầm vông làm sao đem đối chọi được với
súng song tâm, với tàu thiếc tàu đổng. Cái sắc bén, cái sức giết giặc của nó chi là ở trái
tim, ở dũng khí của người cầm dao, cầm gậy vẻ đẹp của họ thật hào hùng, nhưng bên
cạnh cái hào hùng ấy lại là nỗi đau, nỗi thương muốn rơi nước mắt!


Vậy mà ta hãy xem họ xung trận. Bao nhiêu lời văn là bấy nhiêu chất hùng ca, hừng hực
khí phách, rực lửa chiến đấu của một trận đánh quyết liệt và anh dũng:


Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng
lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.



Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh , bọn hè trước, lũ ó sau,
trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.


Quả là tuyệt vời! Ai đó đã dùng một cách nói rất đắc (chứ khơng phải đắt) là hình tượng
người nghĩa sĩ nơng dân cực nhọc, nghèo khó đã hiện lên thành một hình ảnh anh hùng
lồng lộng giữa chiến trường, làm chủ trận chiến, áp đảo tất cả. Lưỡi dao phay, ngọn tầm
vông của họ đâm ngang chém ngược, tung hoành, hiên ngang chiếm lĩnh cả không gian
trận địa, làm cho giặc hồn kinh phách lạc. Tiếng hè, tiếng ó của họ át cả tiếng đại bác của
tàu thiếc tàu đồng. Rơm con cúi, lưỡi dao phay cũng đốt xong đồn giặc, cũng chém rớt
đầu quan hai giặc. Đoạn văn đầy những động từ, những cụm động từ miêu tả hành động
mãnh liệt, hào khí bừng bừng. Trước những con người anh hùng ấy, quân giặc hung dữ
với súng đạn nghênh ngang đều như co rúm lại, thấp bé, tồi tàn đến thảm hại. Có thể nói
hình bóng người nghĩa sĩ nơng dân cần Giuộc nổi lên trên nền trời rực lửa, sừng sững như
một tượng đài kì vĩ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

giặc cứu nước của họ.


Gần ba chục nghĩa sĩ nơng dân bỏ mình trong cuộc chiến đấu ác liệt và không cân sức.
Cái chết bi tráng của họ khiến thiên nhiên và con người thảy đều thương tiếc: Đối sơng
Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Người chết) đất nước, vì dân tộc, hỏi làm sao không xúc động đến đồng bào, non nước ?
Tượng đài nghệ thuật về người nghĩa sĩ nông dân mang tính chất bi tráng. Nó được dựng
lên trong nước mắt, trong tiếng khóc thống thiết của nhà thơ và của nhân dân. Đây là
thành cồng nghệ thuật xuất sắc của nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Bài Văn tế
như một tấm bia, một cái mốc, một tượng đài vinh quang về người nông dân Nam Bộ anh
hùng, về nhân dân lao động muôn thuỏ sáng ngời.


<b>Bài tham khảo số 3</b>


Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn tài ba khi đã nêu lên hình ảnh người nơng dân trong văn


học mà trong suốt các thời gian qua chưa được nhắc đến thông qua bài Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc.Trong bài văn tế, hình ảnh người nơng dân được khắc hoạ rõ ràng.Hình ảnh
người nơng dân nghèo khổ chỉ biết làm ăn một cách thầm lặng, quanh năm chỉ biết ruộng
trâu, cần cù lao động.Họ là những người nông dân yêu ghét rõ ràng , căm thù quyết
không đội trời chung với giặc khi thực dân Pháp xâm lược.Họ đã anh dũng chiến đấu và
anh dũng hi sinh, trong lời văn là những lời lẽ bi thương đầy nước mắt nhưng khơng hề
rơi nước mắt.Đó chính là cái hay của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.


Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng,
Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu
một q trình mở rộng tấn cơng ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gị Cơng...
Ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những nghĩa sĩ mà là nơng dân, vì q căm phẫn kẻ
ngoại xâm, đã dũng cảm đứng lên chiến đấu tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt
được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho
Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc
động lớn trong nhân dân.Theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn
Đình Chiểu làm bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã
hi sinh trong trận đánh này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên một thời đại
sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc.


Mở đầu bài văn tế là hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ
đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:


“Súng giặc, đất rền; lịng dân trời tỏ” có ý nghĩa là Tổ quốc lâm nguy, súng giặc nổ vang
rền trời đất và quê hương .


Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh
giặc cứu nước cứu nhà. Và người nông dân chỉ biết cui cút làm ăn một cách tội nghiệp đã


dũng cảm đứng lên đánh giặc giành lại .nền độc lập cho Tổ quốc thân yêu mà sự dũng
cảm đó xuất phát từ tấm lịng u nước có trong mỗi con người. Tấm lịng u nước, căm
thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng
ngời chính nghĩa. Hình ảnh chính của bài Văn tế chính là những chiến sĩ nghĩa quân Cần
Giuộc.


Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “côi cút” sau luỹ tre làng. Chất phác
và hiền lành, cần cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với
con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với cung ngựa trường nhung:


<i>“Nhớ linh xưa:</i>


<i>Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó"</i>


Cui cút làm ăn: có nghĩa là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp.Dù mệt mỏi hay
vất vả thì họ vẫn âm thầm, lặng lẽ chịu đựnng một mình mà chẳng nói với ai .“Cui cút
làm ăn; toan lo nghèo khó" đã hiện lên đầy đủ một vịng đời khơng lối thốt của người
nơng dân Việt, người "dân ấp dân lân" Nam Bộ. Bắt đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn,
toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo khó.Họ là những người nơng dân mà quanh
năm chỉ biết làm với làm, chưa hề biết đến cái gì gọi là cung, cái gì gọi là ngựa.


<i>"Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.</i>
Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề
nơng, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người dân chân lấm
tay bùn ấy đã đứng lên tình nguyện làm quân tự nguyện đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo
vệ cái nghề làm lụng mà họ coi là bát cơm manh áo của họ là cái nghĩa lớn mà họ “mến”
là đeo đuổi



<i>“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì,</i>
<i>muốn ra cắn cổ”.</i>


Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”,chỉ có
1 chí hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.


Trong tác bài Văn Tế Nguyễn Đình Chiểu đã có khắc nên sự đối lập giữa đồn dũng sĩ
của quê hương và giặc Pháp xâm lược.Giặc xâm lược được trang bị tối tân, có “tàu thiếc,
tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh th “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái
lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo vải” . Vũ khí
chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả
“bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và
“chém rớt đầu quan hai nọ”.


Bài Văn tế đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân
với giặc Pháp:


<i>“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như</i>
<i>không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xơ cửa xơng vào, liều mình như chẳng có.”</i>
<i>“Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó</i>
<i>sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.</i>


Khơng khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang
dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như khơng, tấn cơng như
vũ bão, tung hồnh giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang
chém ngược”, “hè trước, ó sau”.Giọng văn của Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm tinh thần
dũng cảm, kiên cường bất khuất của các nghĩa sĩ nơng dân Cần Giuộc.Ơng cũng thể hiện
rõ lịng khâm phục đối với người nghĩa sĩ nơng dân.Từ trước đến nay, đây là tác phẩm
đầu tiên có đưa hình ảnh của nghĩa sĩ nơng dân



</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>“Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ”</i>


Đất nước, quê hương vô cùng thương tiếc. Một khơng gian rơng lớn bùi ngùi, đau. đớn:
<i>“Đối sơng Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ 2</i>
<i>hàng kuỵ nhỏ”.</i>


Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ, nỗi nhớ thương của con cái
được nói đến vơ cùng xúc động:


<i>“Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ</i>
<i>yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.</i>


Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng chiến đấu, và hi sinh rất vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và
hi sinh của họ là để ta biết rằng đất nước nào cũng là độc lập, tự chủ. Không ai được
quyền xâm chiếm. Họ là tấm gương sáng rất đáng tự hào:


“Ơi!


<i>Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”</i>


Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài học quý báu mà họ đã để lại. Thà
chết vinh còn hơn sống nhục.Họ là tấm gương sáng để dân tộc Việt Nam noi theo mà làm,
là ngòn đèn soi sáng cho dân tộc Việt Nam.


<i>“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện</i>
<i>được trả thù kia;…”.</i>


Công lao của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc sẽ đời đời nằm trong lòng mỗi người
dân Việt Nam về tấm gương anh dung, sẵn sàng xả thân vì độc lập Tổ Quốc.



<i>“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ</i>
<i>thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14></div>

<!--links-->

×