Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tải Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu - Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.41 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu</b>



<b>Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu - Bài làm 1</b>



Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng những
gam màu hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những chốn xa hoa mĩ lệ để làm
mãn nhãn người đọc, nó tiếp cận hiện thực và tiếp nhận thứ tình cảm chân thật khơng giả
dối. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim mình để đưa bạn đọc trở lại với đời thực để cùng
lắng đọng, cùng sẻ chia. Phân tích bài thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã dẫn bạn đọc vào bức
tranh hiện thực nơi núi rừng biên giới nhưng thấm đẫm tình đồng chí đồng đội bằng thứ
văn giản dị, mộc mạc.


Khi nhắc đến Chính Hữu, ta thường nhắc đến một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong
kháng chiến chống Pháp.Tác phẩm của ông thường viết về chiến tranh và hình ảnh người
lính với những ngôn từ hàm xúc, giản dị. Bài thơ “Đồng chí” là một trong những tiêu biểu
và thành cơng nhất của ông. Bài thơ được viết và in lần đầu trên một tờ báo đại đội ở
chiến khu Việt Bắc (1948), dựa trên những trải ngiệm của Chính Hữu cùng đồng chí đồng
đội trong chiến dịch Việt Bắc thu đơng (1947), đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của
thực dân Pháp vào cơ quan đầu não của ta.


Bằng những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng hình ảnh người lính
thời kì đầu chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, keo sơn giữa các anh.


Ngịi bút tài hoa của chính hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm tình, ngơn
ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính hữu đã từ từ dẫn người đọc đến với cơ sở hình thành
tình đồng chí:


“Q hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi ngèo đất cày sỏi đá”


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

“Anh với tôi đôi người xa lạ


Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau


Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ


Đồng chí!”


Đồng hồn cảnh, chung lý tưởng đánh giặc cứu nước, các ạnh đã tham gia đội ngũ bộ đội
kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc chính là nơi hội tụ trái
tim những người con yêu nước, đã đưa các anh từ lạ thành quen “anh với tôi đôi người xa
lạ, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”


Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu gian khổ bên chiến hào vì độc lập tự do của dân tộc, đã
từ khi nào các anh trở thành tri kỉ của nhau :


“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”


Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Câu thơ: “súng bên
súng, đầu sát bên đầu” đã gợi lên tư thế của người lính trong đêm phục kích. Họ ln sát
cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. “Súng bên súng” là chung nhiệm vụ,
chung hành động; “đầu sát bên đầu” là chung chí hướng, chung lí tưởng. Chính Hữu đã
dung các từ “sát, bên, chung” gợi sự chia sẻ của người lính, ý hợp tâm giao. Hình ảnh
“đêm rét chung chăn” là một hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, đã cho ta thấy được sự sẻ chia
những thiếu thốn gian lao trong cuộc đời người lính. Cũng sự sẻ chia ấy, Tố Hữu từng
viết:


“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng



Tấm chăn tuy mỏng nhưng ấm tình đồng chí, đồng đội mà người lính khơng thể nào qn.
Nó đã vun đắp lên tình đồng chí của các anh, cái tình ấy ngày một thắm thiết, càng đậm
sâu. Các anh giờ đây không chỉ là tri kỉ than thiết của nhau mà đẫ trở thành những người
“đồng chí”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

tiếng “đồng chí” đơn sơ mà cảm động đến nao lòng, làm bừng sang ý nghĩa của cả đoạn
thơ và bài thơ.


Mười câu thơ tiếp theo vẫn là những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc cho người
đọc thấy được biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.


Trải qua những khó khắn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có được sự cảm
thơng, thấu hiểu nỗi lịng, tình cảm của nhau .Những lúc ngồi cận kề bên nhau, các anh đã
kể cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ :


“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”


Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc cho thấy
những người lính vốn là những người nơng dân quen chân lấm tay bùn, gắn bó với căn
nhà thửa ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ những gì thân thuộc nhất
để ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương gửi bạn thân cày, để mặc căn nhà trống trải đang cần
người sửa mái “mặc kệ” vốn chỉ thái dộ thờ ơ vô tâm của con người, nhưng trong lời thơ
của Chính Hữu lại thể hiện được sự quyết tâm của người lính khi ra đi. Các anh ra đi để
lại tình yêu quê hương trrong tim mình, để nâng lên thành tình yêu Tổ quốc. Đó cũng là
sự quyết tâm chung của cả dân tộc, của cả thời đại. Tuy quyết tâm ra đi nhưng trong sâu
thẳm tâm hồn các anh, hình ảnh quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ thân thương:
“giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh hốn dụ cũng với nghệ thuật nhân hóa,
Chính Hữu đã tạo ra nỗi nhớ hai chiều: quê hương – nơi có cha mẹ, dân làng luôn nhớ và


đợi chờ các anh, các anh – những người lính ln hướng về q hương với bao tình cảm
sâu nặng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu
dành lại độc lập cho dân tộc.


Khơng chỉ thấu hiểu, cảm thơng, các anh cịn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và niềm
vui bên chiến hào chiến đấu:


“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi


Áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá


Miệng cười buốt giá
Chân khơng giày


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đơi đối xứng “anh – tơi”, “áo anh – quần
tôi” tạo được sự gắn kết của những người đồng chí ln kề vai sát cánh, đồng cam cộng
khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật, cũng trải qua
những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng chia sẻ những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc
quan “miệng cười buốt giá”, bằng tình u thương gắn bó “thương nhau tay nắm lấy bàn
tay”. Hình ảnh “miệng cười buốt giá” gợi nụ cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh xua
tan đi sự khắc nghiệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau để chuyền cho nhau hơi ấm,
để động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Thật hiếm khi thấy cái bắt tay nào nồng
hậu đến vậy!


Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay giữa
một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới
trong đêm khuya:



“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới


Đầu súng trăng treo.”


Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận đánh
giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào
lịch sử khiến người lính khơng thể nào qn. Các anh phục kích chủ động chờ giặc trong
hồn cảnh đầy khắc nghiệt: “rừng hoang sương muối”


“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp căng
thẳng khi ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ “chờ” đã thể hiện được tư thế
chủ động của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế chủ động của tồn dân ta sau
chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Như vậy, “Đồng chí” giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng chí đồng
đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới mẻ, một bức tranh
đẹp về người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ bình dị, tự nhiên,
những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến
trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đơi,
ngịi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí.
Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái tim. Chính
Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng đồng thời cũng
đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sấng thuần khiết nhất, đó là tình đồng chí đồng đội
keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua, tác phẩm trở thành bài ca khơng qn
trong lịng bạn đọc.


<b>Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu - Bài làm 2</b>



Phải chăng chất lính đã thấm dần vào chất thi ca, tạo nên dư vị tuyệt vời cho tình Đồng


chí. Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Khơng có cảm xúc, thơ sẽ
khơng thể có sức lay động hồn người, khơng có sự chân thành chút hồn của thơ cũng
chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà
Chính Hữu đã gieo vào lịng người những cảm xúc khó qn. Bài thơ Đồng chí với nhịp
điệu trầm lắng mà như ấm áp tươi vui; với ngơn ngữ bình dị dường như đã trở thành
những vần thơ của niềm tin yêu, sự hi vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách
mạng.


Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của
thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?


Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình
ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở
thành niềm tin yêu và hi vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã
nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:


Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho
Tố quốc. Những khó khăn ấy dường như khơng thể làm cho những người lính chùn bước:


Anh với tơi đơi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau


Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ


Họ đến với cách mạng cũng vì lí tưởng muốn dâng hiến cho đời. Sổng là cho đâu chỉ nhận
riêng mình. Chung một khát vọng, chung một lí tưởng, chung một niềm tin và khi chiến


đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào... Dường như tình đồng đội cũng xuất
phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn, câu thơ
cũng trở nên gần gũi hơn:


Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ


Đồng chí!...


Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ khơng chỉ đưa bài thơ lên
tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng
cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao q hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu
lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lịng người đọc. Trong mn
vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp
nhất, lí tưởng nhất, nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thơ của bài thơ cũng như
mảnh mai hơn. Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo
sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất
trong thơ Chính Hữu. Hồi ức của những người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận:


Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính


Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có sức
sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa giếng nước gốc đa cũng có nỗi nhớ khơn ngi với
những người lính. Nhưng khơng kể những vật vơ tri, tác giả cịn sử dụng nghệ thuật hốn
dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trơng của người mẹ đối với con,
những người vợ đối với chồng và những đôi trai gái yêu nhau... Bỏ lại nỗi nhớ, niềm
thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian khổ:



Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đầm mồ hôi


Áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá


Miệng cười buốt giá
Chân khơng giày


Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phái chăng sự khó khăn vất vả thiếu
thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất nước ta cịn
nghèo, những người lính cịn thiếu thốn quân trang, quân dụng, phải đối mặt với sốt rét
rừng, cái lạnh giá của màn đêm... Chỉ đôi mảnh quần vá, cái áo rách vai, người lính vẫn
vững lịng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng
đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng, nó gần gũi mà chân thực, khơng giả
dối, cao xa... Tình cảm ấy lan tỏa trong lịng của tất cá những người lính. Tình đồng chí:


Là hớp nước uống chung, nắm cơm bẻ nửa,
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa,


Chia khắp anh em một mẩu tin nhà,
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp


Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết
(Nhớ - Hồng Nguyên)


Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được Chính
Hữu cô lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hịa bình cũng
như khi xây dựng Tố quốc, một nụ cười ngạo nghễ yêu thương, một nụ cười lạc quan


chiến thắng...


Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt huyết, vẫn đứng
canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đầy khuya, sương đã xuống, màn đêm cũng chìm
vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên
nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả bài thơ, câu thơ cuối cùng vẫn
trở nên rất nên thơ:


Đầu súng trăng treo
Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:


Chiến tranh ở rừng Trăng thành tri kỉ
(Ánh trăng - Nguyễn Duy)


Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một sự quyện
hịa giữa khơng gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan xen vào cái mộng,
cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình u làm cho biểu tượng người lính khơng những
chân thực mà cịn rực rỡ đến lạ kì. Chất lính hịa vào chất thơ, chất trữ tình hịa vào chất
Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ
chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa
dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. Nụ cười chiến sĩ như cất cao tiếng hát
ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính, những
anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau kề vai sát cánh cùng chiến hào đấu tranh giành độc
lập.


Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong cái lớn
lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách mạng, tình đồng chí như


được thắt chặt hơn bằng một sợi dây u thương vơ hình.


Bài thơ Đồng chí với ngơn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ của các
chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ sống mãi với
quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.


<b>Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu - Bài làm 3</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội
đánh giặc trong nhữg năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Chính bài
thơ đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lịng nhiều thế hệ.


Đồng chí


Q hương anh nước mặn đồng chua
Làng tơi nghèo đất cày lên sịi đá


Anh với tơi vốn người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.


Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đên rét chung chăn, thành đơi tri kỷ


Đồng chí!


Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà khơng, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính.


Anh với tơi biết từng cơn ớn lạnh,


Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.


Áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương muối


Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới
Đầu súng trăng treo.


Trong bài thơ “Đồng Chí”, Chính Hữu đã khắc hoạ thành cơng cái chất hiền lành, tình
nghĩa mộc mạc mà dung dị cũng như tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng cao cả của
những người lính nơng dân áo vải. Từ moi miền quê trên dải đất quê hương, những con
người xa lạ bỗng đứng lên theo tiếng gọi của Tổ Quốc, cùng họp lại với nhau, trở thành
một con người mới: Người Lính. Họ là những người nơng dân từ những vùng quê lam lũ
đói nghèo, quanh năm chỉ biết đến con trâu mảnh ruộng, các anh giã từ quê hương lên
đừơng chiến đấu:


“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá


Không hẹn mà nên, các anh đã gặp nhau tại một điểm là tình yêu quê hương đất nước. Từ
những người “xa lạ” rồi thành “đơi tri kỉ”, về sau thành “đồng chí”.Câu thơ biến hoá 7,8
từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại.Những ngày đầu
đứng dưới lá qn kì:”Anh với tơi đơi người xa lạ -Tự phương trời chẳng hen quen nhau”.
Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:


“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ



Đồng chí!”


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

tình thân hữu, ấm cúng ruột thịt. Những cái chung đã biến những con người xa lại thành
đôi tri kỉ. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc để làm nên tình bạn,
tình đồng chí.


Tấm lịng của họ đối với đất nước thật càm động khi giặc đến các anh đã gửi lại người
bạn thân mảnh ruộng chưa cày , mặc kệ những gian nhà bị gió cuốn lung lay để ra đi
kháng chiến . Bình thường vậy thơi , nhưng nếu khơng có một tình u đất nước sâu nặng
khơng thể có một thái độ ra đi như vậy.


“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay “


Họ đứng lên chiến đấu chỉ vì một lẽ giản dị: yêu nuớc Tình yêu đất nước, ý thức dân tộc
là máu thịt, là cuộc đời họ, bởi vậy, nơng dân hay trí thức chỉ mới nghe tiếng đau thương
của quê hương, họ sẽ bỏ lại tất cả, cả ruộng nương, xóm làng. Chỉ đến khi ở nơi kháng
chiến người lính nơng dân áo vải lại trở mình, lịng lại bận tâm lo lắng về mảnh ruộng
chưa cày, với căn nhà bị gió lung lay. Nỗi nhớ của các anh là thế: cụ thể nhưng cảm động
biết bao. Người lính ln hiểu rằng nơi q nhà người mẹ già, người vợ trẻ cùng đám con
thơ đang trơng ngóng anh trở về:


“Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính.”


Trong những tâm hồn ấy, hẳn sự ra đi cũng đơn giản như cuộc đời thường nhật, nhưng
thực sự hành động ấy là cả một sự hy sinh cao cả. Cả cuộc đời ông cha gắn với quê hương
ruộng vườn, nay lại ra đi cũng như dứt bỏ đi nửa cuộc đời mìn.


Sống tình nghĩa, nhân hậu, hay lo toan cũng là phẩm chất cao đẹp của người lính nông


dân. Với họ vượt qua gian khổ thiếu thốn của cuộc sống là điều giản dị bình thường,
khơng có gì phi thường cả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Sốt run người, vừng trán ướt mồ hơi.
Áo anh rách vai


Quần tơi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá


Chân không giày


Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”


Chính Hữu đã khắc hoạ hiện thực khó khăn mà người lính gặp phải. Đối mặt với những
khó khăn đó, những người lính khơng hề một chút sợ hãi, những thử thách giữa nơi rừng
thiêng nước độc cứ kéo đến liên miên nhưng người lính vẫn đứng vững, vẫn nở “miệng
cười buốt giá”. Đó là hình của sự lạc quan, yêu cuộc sống hay cũng là sự động viên giản
dị của những người lính với nhau. Những câu thơ hầu như rất giản dị nhưng lại có sức lay
động sâu xa trong lòng người đọc chúng ta.Tuy nhiên từ trong sự bình thường, hình ảnh
người lính của Chính Hữu vẫn ánh lên vẻ đẹp rực rỡ của lí tưởng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ
Quốc, dũng cảm lạc quan trước hiểm nguy kẻ thù rình rập:


“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới


Đầu súng trăng treo.”


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Sẽ là một thiếu sót rất lớn khi lại đề cập quá nhiều đến hình tượng người lính mà lại
khơng nói về tình đồng chí, tình đồng đội của người chiến sĩ trong bài thơ. Tìm hiểu nhau,
những người lính hiểu ra họ có cùng chung q hương vất vả khó nghèo, chung tình giai


cấp, chung lí tưởng và mục đích chiến đấu. Chính cái chung ấy như một thứ keo sơn bền
vững nối cuộc đời ngững người lính với nhau để làm nên hai tiếng “ đồng chí ” xúc động
và thiêng liêng.


“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”


Vẻ đẹp tâm hồn nơi người lính khơng chỉ phát ra từ những hiện thực khó khăn hiểm nguy
mà cịn phát ra từ vừng ánh sang lung lính, chính là tình đồng đội. Vượt rừng đâu phải
chuyện dễ dàng. Những căn bệnh quái ác, những đêm tối lạnh buốt xương, những thiếu
thốn vật chất của đoàn quân mới được gầy dựng vội vã. Nhưng những người lính đã cùng
nhau vượt qua. Họ lo cho nhau từng cơn sốt, từng miếng áo rách, quần vá. Với họ quan
tâm tới những người đồng đội giờ đây cũng như là quan tâm chăm sóc cho chính mình. Ơi
ấm áp biết mấy là cái xiết tay của đồng đội lúc gian khó. Cái xiết tay truyền đi hơi ấm,
sức mạnh cho ý chí con người. Và cùng nhau, giúp đỡ nhau, những người lính vượt qua
với tư thế ngẩng cao đầu trước mọi thử thách, gian nan .


“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.


Áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá


Miệng cười buốt giá
Chân khơng giày


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Cái khốn khó, gian trn hãy cịn dài trên bước đường kháng chiến dân tộc. Nhưng dường
như trước mắt những con người này, mọi thứ khơng cịn hiểm nguy. Trong đêm trăng
vắng lặng, bát ngát giữa rừng hoang sương muối, những người lính vẫn kề vai, sát cánh
cùng hướng mũi súng về phía kẻ thù.



“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới”


Sức mạnh của sự tin tưởng lẫn nhau, của sự quan tâm tới nhau giữa những người lính đã
làm vững chắc thêm tình đồng đội trong họ. Bởi họ biết rằng khi cùng nhau thắp lên tình
đồng chí vững bền, sức mạnh chung nhất sẽ là sức mạnh mạnh nhất. Mục đích chiến đấu
vì quê hương, vì Tổ Quốc của họ sẽ càng mau chóng đạt được. Khi ý chí và mục đích hợp
chung con đường, thì tình cảm giữa họ càng thắm thiết, sâu đậm. Đó là tình đồng chí giữa
những người lính …


Khơng chỉ dừng ở cung bật tình cảm giữa những người lính, bài thơ “Đồng Chí” cịn
mang ta đến chi tiết lãng mạn cao hơn ở cuối bài:


“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặt tới


Đầu súng trăng treo.”


Người lính khơng cơ đơn lạnh lẽo vì bên anh đã có đồng đội và cây súng, là những người
bạn tin cậy nhất, tình đồng chí đã sưởi ấm lịng anh. Người chiến sĩ tồn tâm tồn ý
hướng theo mũi súng. Chính lúc ấy, các anh bắt gặp một hiện tưỡng kì lạ.


“Đầu súng trăng treo.”


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15></div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16></div>

<!--links-->

×