Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

HOÀN THIỆN HẠCH TOÁN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY TNHH NN MỘT THÀNH VIÊN KIM LOẠI MÀU NGHỆ TĨNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.12 KB, 15 trang )

1
HOÀN THIỆN HẠCH TOÁN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY TNHH NN MỘT THÀNH VIÊN
KIM LOẠI MÀU NGHỆ TĨNH.
2.1. Đánh giá thực trạng
2.1.1. Ưu điểm và những thành quả đạt được
Cùng với nhịp độ phát triển của đất nước, của thời đại, hoà nhập trong cơ chế thị
trường, Công ty TNHH NN một thành viên Kim Loại Màu Nghệ Tĩnh qua 25 năm xây
dựng và phát triển đã không ngừng vươn lên tự khẳng định mình, là một doanh nghiệp
sản xuất luôn đạt lợi nhuận cao. Cùng với sự lớn mạnh về cơ sở vật chất kỷ thuật, trình
độ quản lý của Công ty củng ngày càng được nâng cao và không ngừng hoàn thiện.
Hiện nay, Công ty đã được những thành tích đáng kể trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, hoàn thành tốt các chỉ tiêu mà cấp trên giao phó và không ngừng nâng cao đời
sống cho cán bộ công nhân viên chức trong toàn công ty, tạo công an việc làm cho hàng
trăm lao động. Có được thành quả này là do Công ty đã vận dụng sang tạo các quy luật
kinh tế thị trường, đồng thời thực hiện đúng các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước.Công ty luôn nghiên cứu tìm ra những biện pháp quản lý chi phí sản xuất, quản lý
con người … phù hợp với điều kiện kinh tế của Công ty, phù hợp với yêu cầu của chế độ
quản lý kinh tế hiện nay sao cho tối thiểu được chi phi sản xuất, hạ giá thành sản phẩm,
tăng vị thế cạnh tranh trên thị trường. Ngày càng nâng cao vị thê của mình trên thị
trường, là đơn vị có tầm quan trọng trong Tổng công ty Khoáng sản Việt Nam.
Nhận thức được vai trò quản lý của hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty đã tổ
chức công tác kế toán một cách khoa học và hợp lý đảm bảo cho kế toán thực hiện tốt
chức năng và nhiệm vụ của mình. Đặc biệt được sự quan tâm của Tổng công ty Khoáng
sản Việt Nam, Tổng công ty đã hổ trợ phần mềm kê toán phù hợp với đặc điểm kinh
doanh của Công ty. Để người quản lý có những quyết định đúng đắn thì trợ lý đắc lực
tham mưu là kế toán trưởng. Kế toán trưởng là người đứng đầu bộ máy kế toán của
Công ty. Để làm tròn nhiệm vụ của mình, kế toán trưởng phải luôn xác định được các
biện pháp để làm thế nào mà chi phí sản xuất là tối thiểu. Việc tập hợp chi phí sản xuất,
1
2


tính giá thành sản phẩm là cơ sở để ban lãnh đạo phân tích, đánh giá một cách đầy đủ,
khách quan tình hình hoạt động của Công ty. Ở Công ty đã nắm rõ tầm quan trọng của
việc tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm nên việc tập hợp chi phí và tính giá
thành sản phẩm luôn được quan tâm hàng đầu.
Bộ máy kế toán của Công ty được tổ chức theo hình thức vừa tập trung vừa phân
tán, việc tổ chức bộ máy như vậy là phù hợp với đặc điểm loại hình kinh doanh của
Công ty, đảm bảo được sự phân công phân nhiệm trong bộ máy kế toán, nâng cao được
chất lượng công việc. Loại hình này kết hợp được ưu điểm của cả hai hình thức là tập
trung và phân tán nên trong quá trình tập hợp chi phí sản xuất được đầy đủ, kịp thời…
đáp ứng được yêu cầu của việc tính giá thành sản phẩm đúng thời hạn được giao.
Sự kiểm tra, kiểm sát, quản lý nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ rất được quan tâm,
chú trọng. Đã thường xuyên tiến hành kiểm kê, đánh giá chất lượng.của nguyên vật liệu,
công cụ dụng cụ. Những mất mát, hao hụt ngoài định mức được Công ty điều tra làm rõ
nguyên nhân mất mát, hao hụt.
Được sự hổ trợ của Tổng Công ty Khoáng sản Việt Nam về phần mềm kế toán, phần
mềm kế toán đã được triển khai thực hiện toàn diện ở các đơn vi trực thuộc Công ty nên
khối lượng công việc được giảm đi đáng kể, độ chính xác lại cao, tránh được nhiều sai
sót trong ghi chép như trước đây. Điều này giúp việc tập hợp chi phí và tính giá thành
sản phẩm đáp ứng được nhu cầu quản lý hơn.
Những trường hợp, cá nhân gian lận như mua hoá đơn giả để khai tăng chi phí ở
phân xưởng mình khi được phát hiện thì xử phạt nghiêm đã làm giảm tình trạng gian lân
đáng kể, điều này đã giúp kế toán chi phí và tính giá thành phản ánh trung thực hơn về
giá thực tế của sản phẩm.
Công ty luôn xây dựng bổ sung, hoàn thiện quy chế tài chính, hướng dẫn các đơn vị,
cán bộ công nhân viên thực hiện tiết kiệm chi phí trên cơ sở kế hoặch được giao. đây
củng là thuận lợi cho việc tập hợp chi phí dể dàng. Trong quá trình tập hợp chi phí có thể
một số loại chi phí phát sinh trong kỳ hạch toán mà chưa được tập hợp vì chưa đánh giá
được, như khoản công nợ, để khách hàng nợ lâu tức là Công ty đang bị chiếm dụng vốn,
2
3

chi phí cơ hội của Công ty là lớn hơn, và cón có một số khoản nợ khó thu hồi thì Công
ty củng đã đánh giá để phân bổ chi phí cho từng kỳ kinh doanh, do đó công tác đòi nợ
phải thực hiện tôt để mức bị chiếm dụng vốn là tối thiểu, kỳ kinh doanh phản ánh đúng
chi phí sản xuất trong kỳ để tránh được tình trạng lãi giả.
Hàng tháng, phòng kế toán đã lập kế hoạch tài chính và tiến hành phân tích kết quả
sản xuất kinh doanh của tháng trước giúp Giám đốc nắm được tình hình để định hướng
cho tháng tới. Ví dụ như, vào thời điểm mà giá thiếc trên thị trường thấp thì sản xuất
nhập kho, mua của các cơ sở tư nhân để trích trữ, khi giá tăng thì xuất bán. Đây là biện
pháp mang lại hiệu quả nhưng yêu cầu người quản lý phải có trình độ để thẩm định giá
trong thời gian gần đó nế trích trữ quá lâu sẽ tăng nhiều khoản chi phí khác như; chi phí
bảo vệ, chi phí kho bãi…Nhưng thực tế đã cho thấy thời gian gần đây Công ty đã thực
hiện tốt được điều này, mang lại hiệu quả cao, tuy biện pháp này không làm biến động
nhiều tới việc tập hợp chi phí nhưng đây là biện pháp nâng cao doanh thu tương đương
với việc hạ giá thành vì đảm bảo được tăng lợi nhuận.
Trên địa bàn có nhiều đơn vị tư nhân khai thác quặng, Công ty đã thu mua với giá
cao hơn giá thành sản xuất nhưng đây là một biện pháp tiết kiệm thời gian và để đáp ứng
được đủ khối lượng cho xưởng tuyển tinh luyện thiếc hoạt động liên tục để giảm chi phí
khấu hao phân bổ cho từng đơn vị sản phẩm.
Trong công tác quản trị của doanh, chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là
những chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn được các nhà quản lý quan tâm vì đó là những chỉ
tiêu phản ánh chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, thông
qua những thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm do bộ phận kế toán cung
cấp, các nhà quản lý nắm được các chie tiêu thực tế của từng hoạt động, của từng loại
sản phẩm củng như của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, để
phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành của sản phảm để các quyết
định quản lý thích hợp, kịp thời. Việc hạ giá thành và năng cao chất lượng sản phẩm là
nhân tố quyết định năng cao hiệu quả kinh doanh và nâng cao thu nhập cho người lao
động. Do đó hạch toán chi phí snả xuất và tính giá thành sản phẩm có một vị trí quan
3
4

trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp không riêng gì Công ty
TNHH NN một thành viên Kim Loại Màu Nghệ Tĩnh. Kế toán chính xác chi phí và tính
giá thành sản phẩm sẽ phản ánh được chính xác, kịp thời, đầy đủ thông tin về mặt lượng
hao phí.
Có một số loại chi phí khoán cho từng đơn vị, phòng ban như chi phí điện thoại, chi
phí lễ tân, chi phí giao dịch, chi phí tiếp thị, công tác phí….đã khống chế được sự lãng
phí khi sử dụng và sự lợi dụng đi công tác để khai báo chi phí quá mức,….
2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những ưu điểm và thành quả đạt được trong hạch toán kế toán chi phí và
tính giá thành sản phẩm thì còn nhiều hạn chế cần khắc phục.
Công tác kế toán quản trị chi phí sản xuất, phân tích giá thành cho từng đơn vị chưa
chỉ ra được các yếu tố làm tăng giá thành, chủ yếu mới tổng hợp chi phí đơn vị nhận từ
Công ty hoặc mua về để thanh toán. Trên thực tế đưa ra dùng còn thừa, thiếu,…yếu tố
làm tăng chi phí chưa phân tích kỹ, nguyên nhân là chưa được phân tích, chưa lập ra đội
phân tích các yếu tố chi phí ở các đơn vị.
Trong cách hạch toán chi phí nguyên vật liệu chưa chi tiết cụ thể, đang hạch toán chi
phí nguyên vật liệu chính và nguyên vật liệu phụ vào một tài khoản 621, cần phải chi tiết
nguyên vật liệu chính là TK 6211, nguyên vật liệu phụ là TK 6212: Và trong chi phí
nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ dùng chung cho sản xuất củng chỉ hạch toán trên tài
khoản 6273, nên cần tách ra nguyên vật liệu là TK 6271, Chi phí công cụ dụng cụ là TK
6273. Có tách ra như thế thì trong công tác phân tích yếu tố làm tăng giá thành là do
nguyên nhân ở đâu, do chi phí nào mà giá thành vẫn còn cao để từ đó quản lý chặt chẽ
loại chi phí đó.
Hiện tại Công ty hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp:
4
5
Nợ TK 621 – Chi tiết từng phân xưởng
Có TK 1521, 1522 – Chi tiết loại vật liệu
Ta thấy như thế sẽ gặp khó khăn khi phân tích yếu tố chi phí của nguyên vật liệu
chính và nguyên vật liệu phụ, khó xác định trong tổng chi phí nguyên vật liệu gồm bao

nhiêu phần trăm chi phí nguyên vật liệu chính, bao nhiêu phần trăm nguyên vật liệu phụ.
Hạch toán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ dùng chung cho sản xuất :
Nợ TK 6273 – Chi tiết từng phân xưởng
Có TK 152, 153.
Hạn chế của cách hạch toán này củng giống như cách hạch toán chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp. Nguyên nhân là do sự hạn chế về khả năng chuyên môn.
2.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm.
Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm không chỉ là của riêng doanh nghiệp nào mà là của tất cả các doanh nghiệp tham
gia vào quá trình sản xuất. Để hiểu rõ sự cần thiết đó ta phải hiểu rõ bản chất và vai trò
của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, mối quan hệ của chúng như thế nào với hiệu
quả hoạt động của Doanh nghiệp.
Quá trình sản xuất sản phẩm cần có yếu tố đầu vào, đó là nguyên vật liệu, máy móc
thiết bị, con người,… như vậy để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ ra
chi phí về thù lao tả cho người lao động, về tư liệu sản xuất, về đối tượng lao động. Vì
thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm là yếu tố khách
quan. Nói tóm lại, chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh
nghiệp phải tiêu dung trong một kỳ để thực hiện quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Thực chất chi phí chỉ là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất
vào đối tượng tính giá sản phẩm. Nhưng chi phí sản xuất mới chỉ biểu hiện được một
mặt sự hao phí, để biết được thực chất sản xuất ra sản phẩm phải bỏ ra bao nhiêu hao phí
thì chỉ tiêu giá thành sản phẩm ra đời. Giá thành là biểu hiện băng tiền của toàn bộ các
khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng sản
phẩm. Như vậy, giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hóa, phản ánh
5
6
lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để

tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh
doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được
giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu
khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn chi phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ
quan đều không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đề có thể dẫn đến việc
phá vỡ mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và
không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong
quá trình tạo ra sản phẩm. Chi phí biểu hiện mặt hao phí còn giá thành biểu hiện mặt kết
quả của quá trình sản xuất. Đây là hai mặt thống nhất của một quá trình. Giá thành được
tính trên cơ sở chi phí sản xuất đã được tập hợp và số lượng sản phẩm đã được hoàn
thành, nội dung giá thành của sản phẩm chính là chi phí sản xuất được tính cho sản
phẩm đó, cả chi phí sản xuất và giá thành sản phảm đề có nội dung cơ bản là biểu hiện
bằng tiền của những chi phí doanh nghiệp bỏ ra cho hoạt động sản xuất. Sự tiết kiệm hay
lãng phí chi phí sản xuất đề ảnh hưởng trực tiếp đến giảm hay tăng giá thành sản
phẩm.Dó đó việc quản lý giá thành phải gắn liền với việc quản lý chi phí sản xuất. Mối
quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm được thể hiện qua công thức:
Tổng giá thành Chi phí sản xuất Chi phí sản xuất Chi phí sản xuất
= + -
sản phẩm dở dang đầu kỳ phát sinh trong kỳ dở dang cuối kỳ
Như vậy giá thành sản phản phẩm chỉ bằng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ khi
chi phí sản xuât dơ dang đầu kỳ bằng chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ.
Mặt khác thì lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bằng khoản chênh lêch giữa doanh thu
thu được và chi phí bỏ ra, nghĩa là lợi nhuận với chi phí có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với
nhau. Chi phí tăng (giá thành tăng) thì lợi nhuận giảm và chi phí giảm (giá thành giảm)
6

×