Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Luận văn thạc sĩ thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NAM THẮNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN NAM THẮNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. MAI ĐẮC BIÊN

Hà Nội, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là đề tài nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi.
Những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn đảm bảo tính chính xác, trung
thực, được thu thập trong quá trình học tập và cơng tác tại đơn vị Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, không trùng lặp với các đề tài khác
cùng lĩnh vực đã được công bố trước đây.
Tác giả luận văn

Nguyễn Nam Thắng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ............................ 7
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy ........................................................... 7
1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy ......................................................... 23
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 29
Chương 2 THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA
TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI .. 30
2.1. Tình hình đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và tình hình tội phạm ảnh
hưởng đến thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án Mua bán
trái phép chất ma túy tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai ........................ 30
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án Mua
bán trái phép chất ma túy tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa,

tỉnh Đồng Nai .................................................................................................. 33
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 51
Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI THÀNH PHỐ
BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI ................................................................... 52
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai ......................................................................................... 52


3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai .................................................................................................. 56
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

:


Bộ luật Hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật Tố tụng Hình sự

CQĐT

:

Cơ quan điều tra

ĐTV

:

Điều tra viên

KSV

:

Kiểm sát viên

THQCT

:


Thực hành quyền cơng tố

TNHS

:

Trách nhiệm hình sự

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số liệu tin báo, nguồn tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp nhận và vụ
án hình sự khởi tố từ năm 2015 đến năm 2019 .........................................................82
Bảng 2.2. Bảng so sánh tỷ lệ án ma túy đã khởi tố tại thành phố Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 ......................................................82
Bảng 2.3. Bảng số liệu số vụ án hình sự và vụ án ma túy đã khởi tố tại thành phố
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 ..............................83
Bảng 2.4. Bảng so sánh tình hình áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam
tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 ........83


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình tội phạm về ma túy ngày càng diễn biến phức tạp, với sự gia tăng
về số lượng tội phạm, quy mô phạm tội và xu hướng trẻ hóa đặt ra những thách thức

lớn đối với tình hình chính trị xã hội và ảnh hướng đến đời sống của người dân. Đối
với địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cũng đối mặt với những ảnh hưởng
của loại tội phạm này. Thành phố Biên Hòa là một thành phố với nhiều khu công
nghiệp lớn, tập trung số lượng lớn người lao động nhập cư, địa bàn rộng nên thường
xuyên là điểm nóng về tội phạm, đặc biệt là tội phạm về mua túy chiếm tỷ lệ cao.
Việc xử lý tội phạm này giúp ổn định tình hình chính trị địa phương, ln được các
cấp chính quyền quan tâm, vì thế đặt ra những yêu cầu nâng cao chất lượng trong
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Các
loại tội phạm về ma túy cần được phát hiện, điều tra, truy tố xét xử nhanh chóng,
kịp thời, đặc biệt là tội mua bán trái phép chất ma túy, bởi vì việc xét xử nghiêm
minh loại tội phạm này góp phần lớn trong việc ngăn ngừa các loại tội phạm ma túy
khác xảy ra.
Để phòng ngừa và ngăn chặn tệ nạn ma túy gây ra, chúng ta đã có một hệ
thống pháp luật tương đối đầy đủ như Luật Phòng, Chống ma túy, các quy định về
xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi liên quan đến ma túy, các quy định
pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ma túy… Trong hoạt động tư pháp, một
trong những hoạt động mang tính chất phịng ngừa tội phạm đó là hoạt động xử lý
hình sự các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy, mang tính răn đe, phịng ngừa
chung cho xã hội. Để hoạt động này mang lại hiệu quả cần có sự phối hợp trong
cơng tác điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm mua bán trái phép chất ma túy.
Đối với vai trò của VKS, chức năng THQCT là một chức năng quan trọng
bên cạnh chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, nếu thực hiện tốt chức năng
THQCT trong các vụ án mua bán trái phép chất ma túy, đặc biệt là giai đoạn điều
tra, sẽ giúp cho quá trình giải quyết vụ án được chính xác, khách quan, tồn diện,
đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong việc không bỏ lọt tội phạm và không làm oan

1


sai người vơ tội. Tại thành phố Biên Hịa, tỉnh Đồng Nai, trong công tác THQCT

trong hoạt động điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy vẫn còn tồn tại một số
bất cập, hạn chế như việc gắn hoạt động THQCT với hoạt động điều tra đôi khi
chưa thực sự đáp ứng đẩy đủ yêu cầu đấu tranh phịng, chống tội phạm; vẫn cịn
tình trạng một vài KSV thiếu tính chủ động trong cơng tác THQCT, việc đề ra u
cầu điều tra đơi khi cịn sơ sài, mang tính hình thức, khơng cụ thể dẫn đến khơng
định hướng cho hoạt động điều tra, dẫn đến hoạt động điều tra cịn hạn chế, vẫn cịn
tình trạng phải gia hạn thời hạn điều tra vì một số nguyên nhân chủ quan có thể
khắc phục được, vẫn cịn tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung…Những vấn đề
này cần được phân tích, nghiên cứu để có những giải pháp khắc phục để nâng cao
hiệu quả THQCT. Do đó việc nghiên cứu đề tài này đem lại ý nghĩa thực tiễn đối
với cơng tác đấu tranh phịng chống nhóm tội phạm ma túy nói chung và tội phạm
mua bán trái phép chất ma túy nói riêng trên địa bàn thành phố Biên Hịa, tỉnh Đồng
Nai, từ đó góp phần nâng cao chất lượng THQCT, đặc biệt trong giai đoạn điều tra,
là giai đoạn mang tính chất quan trọng và tạo nền tảng cho các hoạt động tố tụng
sau này.
Từ những lý do đã nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành
phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai” để làm nội dung nghiên cứu cho Luận văn Thạc sỹ
Luật học hoàn toàn phù hợp, mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn, vừa có tính thời sự
cao, từ đó góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn
điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại địa phương thành phố Biên Hịa,
tỉnh Đồng Nai.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động thực hành quyền cơng tố của VKSND nói chung và trong vụ án
mua bán trái phép chất ma túy nói riêng là vấn đề đã được nhiều tác giả nghiên cứu,
như:
- Lê Hữu Thể (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

2



- Phan Hoàng Tân (2011), Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Điện
Biên, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
- Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố tụng
hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
- Nguyễn Mạnh Tùng (2017), Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án về ma tuý ở thành phố Hà Nội; Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội;
- Hà Minh Loan (2018), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các tội phạm về ma tuý trên địa bàn Huyện Văn Chân, Tỉnh Yên Bái; Luận văn thạc
sỹ luật học, Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,
2017.
- Mai Đắc Biên (2018), Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy; Kỷ yếu Hội thảo khoa học Học viện
Công an nhân dân, Hà Nội;
- Lại Viết Quang (2018), Áp dụng biện pháp cưỡng chế trong điều tra tội
phạm về ma túy; Kỷ yếu Hội thảo khoa học Học viện Công an nhân dân, Hà Nội;
- Trần Công Phàn (2019), Điều tra và truy tố các tội phạm về ma túy theo
pháp luật mới; sách chuyên khảo, NXB Công an nhân dân, Hà Nội;
- Nguyễn Thành Nhân (2019), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra các vụ án về ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành
phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học
xã hội, Hà Nội;
- Trần Thị Minh Hảo (2019), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh; Luận văn thạc sỹ luật học,
Học viện khoa học xã hội, Hà Nội;
- Nguyễn Ngọc Phụng (2019), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều

tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang; Luận văn

3


thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội;
Tuy nhiên, cho đến thời điểm viết luận văn này, hiện chưa có cơng trình
khoa học nào nghiên cứu về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ
án mua bán trái phép chất ma túy tại địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vì
vậy luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn tại địa
bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai để đưa ra những yêu cầu, giải pháp hiệu
quả nhằm nâng cao chất lượng THQCT của loại tội phạm này trong giai đoạn điều
tra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ mặt lý luận, các quy định pháp luật và hoạt động thực tiễn tại địa
phương, từ đó phân tích được thực trạng, những tồn tại, hạn chế để có hướng đề
xuất giải pháp nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án mua
bán trái phép chất ma túy nói chung và địa bàn thành phố Biên Hịa nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích những vấn đề lý luận như các khái niệm, đối tượng,
phạm vi, các nhiệm vụ, quyền hạn và vai trị của KSV trong cơng tác THQCT trong
giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy;
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực tiễn quy định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật trong công tác THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái
phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hịa, tỉnh Đồng Nai, từ đó đúc kết
được những mặt đã đạt được, những mặt chưa đạt được, hạn chế cần khắc phục;
Thứ ba, nêu được những yêu cầu đặt ra nhằm nâng cao chất lượng THQCT
trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy và đề xuất những
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền cơng tố nói chung và cụ thể

đối với VKSND thành phố Biên Hòa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn

4


hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá, khảo
sát thực tiễn áp dụng các quy định về công tác THQCT của VKS trong giai đoạn
điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam.
Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu trong khoảng thời gian 05 năm từ năm
2015 -2019.
Phạm vi về không gian: Tập trung nghiên cứu tại địa bàn thành phố Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai, đồng thời có mở rộng thu thập một số thơng tin số liệu các tội
phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
Mác-Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng, cụ thể là quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị; chính sách pháp luật của Nhà nước nói chung và các chính sách pháp luật của
ngành Kiểm sát nói riêng trong cơng tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng thể các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp
phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch,

phương pháp quy nạp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp thống kê tội
phạm để làm rõ các nội dung của Luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Luận văn giúp làm sáng tỏ vấn đề lý luận THQCT trong giai đoạn điều tra
các vụ án mua bán trái phép chất ma túy như khái niệm, đặc điểm pháp lý của tội

5


phạm này, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc THQCT… Luận văn có thể sử
dụng như một tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu pháp luật, học tập cho
những ai quan tâm đến hoạt động THQCT của VKS.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Từ việc nghiên cứu thực tiễn địa phương, luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo phục vụ việc đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng THQCT trong giai
đoạn điều tra các vụ án, đặc biệt là các vụ án mua bán trái phép chất ma túy của
VKS cấp huyện. Luận văn cũng có thể sử dụng như một tài liệu giúp cho các nhà
lãnh đạo ngành kiểm sát định hướng trong công tác tổ chức, quản lý, đào tạo và bồi
dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ; hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt
động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 03 chương, bao gồm cả các phần mục lục, mở
đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
Chương 2: Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại thành phố Biên

Hòa, tỉnh Đồng Nai.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN MUA BÁN
TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
mua bán trái phép chất ma túy
Cho đến nay, khái niệm “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
vụ án mua bán trái phép chất ma túy” chỉ được nói đến trong các cơng trình nghiên
cứu khoa học. Khái niệm này là tập hợp các khái niệm nhỏ ghép lại với nhau, tác
giả chia khái niệm này thành các khái niệm nhỏ để phân tích đó là khái niệm “quyền
cơng tố”, “thực hành quyền công tố”, khái niệm “vụ án mua bán trái phép chất ma
túy”, khái niệm “giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy”. Từ đó
tổng hợp một cách đầy đủ, tồn diện để đưa ra khái niệm “THQCT trong giai đoạn
điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy”.
1.1.1.1. Khái niệm “quyền công tố” và “thực hành quyền công tố”
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “Công” được hiểu là “thuộc về Nhà nước”,
mang yếu tố cơng cộng, thuộc tính chung xã hội, trái ngược với “tư” là thuộc về cá
nhân, cái riêng. “Tố” được hiểu là “trình bày cơng khai cho mọi người biết việc làm
sai trái, phạm pháp của người phạm tội khác”. “Công tố” là “điều tra, truy tố, buộc
tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước tòa án”. [36, tr 459]
Từ điển Luật học cho rằng công tố là “quyền buộc tội nhân danh Nhà nước
đối với người phạm tội… được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật…,
không thể tách rời với việc nhân danh Nhà nước chống lại hình thức vi phạm pháp

luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự” [51, tr 188].
Theo từ điển Oxford, cơng tố (prosecution) được hiểu là quá trình thực hiện
một loạt hoạt động pháp lý để chứng minh trước Tòa án rằng một người nào đó

7


phạm tội, là hoạt động chính thức cho việc buộc tội một hành vi phạm pháp [13].
Có thể hiểu rằng quyền cơng tố là quyền lực để cơ quan có thẩm quyền thực hiện
các thủ tục tố tụng đã được quy định để buộc tội hành vi phạm pháp trước cơ quan
xét xử là Tòa án.
Trong nghiên cứu khoa học, có một số ý kiến khác nhau về quyền cơng tố,
nổi bật là các quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: Quyền công tố là quyền lực của VKS thay cho Nhà
nước bảo vệ lợi ích cơng khi xảy ra các hành vi vi phạm pháp luật. Có nghĩa là VKS
đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật trên các lĩnh vực ra Tòa
án để xét xử, nhằm bảo vệ lợi ích của chính Nhà nước và trật tự xã hội, trật tự pháp
luật [26, tr.85-86]. Theo quan điểm này, VKS THQCT trên nhiều lĩnh vực không
chỉ hình sự mà cịn là dân sự, kinh tế và hoạt động tư pháp.
Quan điểm thứ hai: Công tố chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật, không phải là một chức năng riêng biệt của VKS. Quyền
công tố là “quyền nhân danh Nhà nước kiểm sát tính hợp pháp của q trình điều tra
tội phạm, nhằm truy tố và buộc tội người phạm tội ra Tòa án để xét xử đúng người,
đúng tội, đúng luật, đảm bảo lợi ích xã hội, lợi ích Nhà nước và đặc biệt là quyền tự
do của con người” [9, tr.1-12]. Theo quan điểm này, giữa THQCT và kiểm sát sự
tuân theo pháp luật là quan hệ giữa cái riêng và cái chung, quan điểm này dựa trên
lý luận của các nhà TTHS học Xô Viết, phổ biến trong giai đoạn trước khi Hiến
pháp năm 1980 quy định cụ thể hơn về THQCT của VKS.
Quan điểm thứ ba: Quyền công tố là quyền lực của Nhà nước giao cho các
cơ quan cụ thể để thực hiện việc khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước

tòa án để xét xử và buộc tội trước phiên tòa [25, tr.204]. Quan điểm này được phổ
biến trong các Nhà nước có sự phân chia quyền lực.
Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là quyền lực của Nhà nước giao cho VKS
thực hiện các hoạt động truy tố người phạm tội trước Tịa án, buộc tội người đó tại
phiên tịa với tội danh cụ thể bằng q trình chứng minh có căn cứ và đúng pháp
luật được thể hiện trong bản cáo trạng. Những người có quan điểm này cho rằng

8


đây là quan điểm phù hợp nhất với lý luận và thực tiễn hoạt động của VKS [24,
tr.86-88].
Do có nhiều quan điểm khác nhau như đã nêu nên khái niệm quyền công tố
tùy thuộc vào mỗi quan điểm cũng khác nhau về phạm vi giới hạn không gian, thời
gian. Đa số các quan điểm đều cho rằng quyền công tố có phạm vi về mặt khơng
gian trong lĩnh vực tố tụng hình sự, một số quan điểm lại cho rằng quyền cơng tố có
phạm vi trong tất cả lĩnh vực tư pháp, từ tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, lao động,
kinh tế… Về phạm vi thời gian, chưa có sự thống nhất về thời điểm bắt đầu và kết
thúc của quyền cơng tố, ví dụ trong lĩnh vực tố tụng hình sự, có quan điểm cho rằng
quyền cơng tố bắt đầu từ giai đoạn điều tra, cho đến truy tố và xét xử, có quan điểm
cho rằng chỉ có ở giai đoạn xét xử.
Tổng hợp các quan điểm khoa học, tác giả xin đưa ra khái niệm về quyền
công tố như sau: Quyền công tố là quyền lực Nhà nước, được Nhà nước trao cho cơ
quan công tố (VKS), đại diện Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự và truy tố,
buộc tội đối với người phạm tội.
Đối với khái niệm “thực hành quyền công tố”, đây là khái niệm liên quan
mật thiết với khái niệm “quyền công tố”. Khi xảy ra hành vi phạm tội, Nhà nước
phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội đó.
Điều này làm phát sinh quyền công tố và cơ quan công tố là VKS phải sử dụng
chức năng của mình để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Theo

từ điển Luật học: “THQCT là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc
nội dung quyền công tố để truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong các giai
đoạn điều tra, truy tố và xét xử” [29,tr.188]. Cần lưu ý rằng tội phạm và người
phạm tội là đối tượng THQCT. Khi có sự việc phạm tội xảy ra, Cơ quan công tố
(VKS) phải áp dụng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định pháp luật tố tụng hình sự
để phát hiện kịp thời tội phạm, khởi tố, điều tra làm rõ tội phạm, người hoặc pháp
nhân phạm tội. Hoạt động này phải bắt đầu từ giai đoạn tiếp nhận tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố, kéo dài đến giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, xét
xử. Chủ thể THQCT là VKS mà người trực tiếp thực hiện hoạt động THQCT là

9


Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, KSV và Kiểm tra viên, trong đó, KSV là người
có đầy đủ nhiệm vụ quyền hạn THQCT trong tất cả các hoạt động tố tụng. Một số
quyền hạn quan trọng thuộc về Viện trưởng, Phó Viện trưởng được Viện trưởng
phân cơng, như ra các quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các
quyết định tố tụng trái pháp luật của CQĐT, các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị
can, áp dụng biện pháp ngăn chặn, quyết định truy tố..... Đối với KSV khơng phải là
Viện trưởng, Phó Viện trưởng nhưng là lãnh đạo đơn vị như Trưởng phịng, Phó
trưởng phịng ở VKS cấp tỉnh, Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng ở VKSND tối cao được
Lãnh đạo Viện ủy quyền được thực hiện một số thẩm quyền thuộc lãnh đạo Viện
[33].
Mặc dù thuật ngữ “thực hành quyền công tố” đã được quy định trong nhiều
văn bản quy phạm pháp luật, nhưng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, chưa
thống nhất. Qua quá trình nghiên cứu tổng hợp các quan điểm khoa học và thực tiễn
quy định của pháp luật, tác giả xin đưa ra khái niệm về thực hành quyền công tố
như sau: Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự,
trong đó, VKSND sử dụng tổng hợp quyền lực do pháp luật quy định để truy cứu
trách nhiệm hình sự, truy tố và buộc tội người phạm tội trước Tịa án, khơng để xảy

ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Bên cạnh chức năng THQCT của VKSND, chức năng kiểm sát điều tra vụ án
cũng là một chức năng vô cùng quan trọng. Kiểm sát điều tra là việc VKS thực hiện
các biện pháp giám sát, mục đích nhằm bảo đảm các hoạt động điều tra được tiến
hành một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung
của pháp luật quy định, không trực tiếp ra quyết định, chỉ ra kiến nghị khi có vi
phạm pháp luật tố tụng xảy ra hoặc kiến nghị yêu cầu khắc phục các nguyên nhân,
điều kiện dẫn đến tội phạm. THQCT và kiểm sát điều tra vụ án luôn tồn tại song
song từ khi khởi tố cho đến khi kết thúc việc điều tra và VKS ra quyết định truy tố,
giữa hai chức năng tuy độc lập về chức năng, nhưng có tác động qua lại lẫn nhau.
Nếu làm tốt nhiệm vụ THQCT sẽ hỗ trợ đắc lực cho KSĐT thực hiện vai trị của
mình, như tạo điều kiện cho KSĐT tiếp cận các biện pháp điều tra nhằm duy trì

10


pháp luật, phát hiện, khắc phục vi phạm pháp luật về tố tụng; làm tốt nhiệm vụ kiểm
sát điều tra sẽ giúp cho công tác THQCT phát huy khả năng quyết định quá trình tố
tụng, như bảo đảm việc khởi tố, yêu cầu khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ các biện pháp ngăn chặn, huỷ các quyết định trái pháp luật của CQĐT một cách
có căn cứ, đúng pháp luật. Như vậy, hoạt động THQCT và kiểm sát điều tra tuy hai
nhưng là một, hai hoạt động này phải được tiến hành song song và hỗ trợ lẫn nhau
nhằm không để bất kỳ người nào bị bắt giữ, khởi tố trái pháp luật, không để lọt tội
và không làm oan người vô tội, đảm bảo cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội phải đúng pháp luật và có căn cứ, việc điều tra được tiến hành
một cách khách quan, tồn diện, chính xác và đúng pháp luật; những vi phạm pháp
luật trong quá trình điều tra được phát hiện và khắc phục kịp thời.
1.1.1.2. Khái niệm “vụ án mua bán trái phép chất ma túy”
Các Công ước của Liên hợp quốc về phịng, chống và kiểm sốt chất ma túy
vào các năm 1961, 1971 và 1988 không nêu khái niệm thế nào là chất ma túy mà

chỉ liệt kê danh mục các chất ma túy bị kiểm soát. Khoản 1, 2 , 3 Điều 2 Luật
phòng, chống ma túy năm 2013 đã nêu “chất ma túy là các chất gây nghiện, chất
hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành. Chất gây
nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với
người sử dụng. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo
giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử
dụng.” Danh mục các chất gây nghiện, chất hướng thần được Chính phủ quy định
cụ thể tại Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.
Để đi đến khái niệm vụ án mua bán trái phép chất ma túy, trước tiên, chúng
ta cần tìm hiểu một số vấn đề cơ bản về tội mua bán trái phép chất ma túy. Pháp luật
Hình sự Việt Nam quy định cụ thể về tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” tại
Điều 251 BLHS. Dựa vào quy định của điều luật, tội “Mua bán trái phép chất ma
túy” có cấu thành tội phạm và hình phạt như sau:
Về khách thể tội phạm: Khách thể bị tội phạm xâm hại là chế độ quản lý của
Nhà nước đối với các chất ma túy. Chất ma túy là một loại chất nếu khơng có sự

11


quản lý chặt chẽ của Nhà nước thì sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực rất lớn đến với xã
hội. Bỡi lẽ nếu có sự quản lý và phục vụ vào mục đích hợp pháp như nghiên cứu
khoa học, phục vụ y tế... thì có ý nghĩa và hữu ích cho xã hội, ngược lại nếu sử dụng
chất ma túy vào các mục đích cá nhân khơng hợp pháp như nhằm thỏa mãn cơn
nghiện thì ma túy trở thành thứ gây nguy hiểm cho xã hội. Ma túy có thể coi là khởi
nguồn của rất nhiều loại tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, ảnh
hưởng đến khả năng lao động, tình hình chính trị xã hội của bất kì quốc gia nào.
Chính vì vậy Nhà nước phải có một chế độ quản lý đặc biệt và độc quyền đối với
loại chất ma túy này. Cần lưu ý rằng, đối tượng tác động của tội “Mua bán trái phép
chất ma túy” chính là chất ma túy (các chất gây nghiện, chất hướng thần), không
phải các tiền chất ma túy.

Mặt khách quan tội phạm: Mặt khách quan của tội này là các hành vi mua và
bán trái phép chất ma túy như mua chất ma túy để bán lại cho người khác, vận
chuyển chất ma túy để bán cho người khác, tàng trữ trái phép chất ma túy để bán
dần cho người khác, dùng chất ma túy đổi lấy hàng hóa hoặc ngược lại, xin chất ma
túy để bán lại cho người khác... Theo quy định tại tiểu mục 3.3, Mục 3, phần II,
Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP có hướng dẫn
về tội danh này, theo đó ta có thể phân hành vi khách quan của tội “Mua bán trái
phép chất ma túy” thành 03 nhóm hành vi khách quan, đó là:
Nhóm hành vi bán (quy định tại các điểm a, b, c, e, g): Là các hành vi mua,
chiếm đoạt, nhặt được, trộm được,...chất ma túy mà không cần biết nguồn gốc ma
túy do đâu mà có, để phục vụ cho mục đích bán trái phép ma túy cho người khác.
Nhóm hành vi trao đổi (quy định tại các điểm d, đ): Là các hành vi trao đổi
trái phép ma túy nhằm để lấy tài sản của người nhận ma túy, để bù trừ khoản chi phí
bất kì hoặc sử dụng để thanh tốn.
Nhóm hành vi hỗ trợ: Là các hành vi hỗ trợ cho việc bán và trao đổi trái phép
chất ma túy như tổ chức, xúi giục, giúp sức cho hành vi mua bán, trao đổi chất ma
túy (trường hợp đồng phạm).
Về chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội này bắt buộc là con người cụ thể, là

12


người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự. Cần lưu ý một số vấn đề sau: Theo quy định tại điều 12 BLHS thì người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi khơng chịu trách nhiệm hình sự về các hành vi phạm tội
quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS (Tội nghiêm trọng). Theo tinh thần của Mục
10, Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thì trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành
vi mua bán trái phép chất ma túy từ hai lần trở lên thì khơng chịu trách nhiệm hình
sự về tội này nếu tổng trọng lượng chất ma túy của các lần cộng lại dưới mức tối

thiểu hoặc không xác định được tổng trọng lượng chất ma túy của tất cả các lần đó
đến mức tối thiểu quy định tại điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều 194
BLHS năm 1999 (tương ứng với các quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS hiện
hành).
Về mặt chủ quan của tội phạm: Người thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực
tiếp, tức là người phạm tội nhận thức được rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả nguy hiểm của hành vi đó
và mong muốn hậu quả đó xảy ra.
Về khung hình phạt, tội danh này có mức hình phạt tù từ 02 năm đến chung
thân hoặc tử hình. Cụ thể:
Tại khoản 1 Điều này quy định cấu thành tội phạm là hành vi “mua bán trái
phép chất ma túy” với mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Tại khoản 2 Điều này quy định một loạt các hành vi cụ thể, nếu người phạm
tội có dấu hiệu thuộc các trường hợp từ điểm a đến điểm q khoản 2 Điều này như:
Có tổ chức; Phạm tội 02 lần trở lên; Đối với 02 người trở lên; Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn; Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Sử dụng người dưới 16 tuổi vào
việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người dưới 16 tuổi; Qua biên giới; Nhựa thuốc
phiện, nhựa cần sa hoặc cao cơca có khối lượng từ 500 gam đến dưới 01 kilơgam;
Heroine, Cocaine,..có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam; Lá cây côca; lá khát
(lá cây Catha edulis)... do Chính phủ quy định có khối lượng từ 10 kilôgam đến
dưới 25 kilôgam; Quả thuốc phiện khơ có khối lượng từ 50 kilơgam đến dưới 200

13


kilơgam; Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;
Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam; Các
chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít; Có 02
chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương
với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h

đến điểm o khoản này; Tái phạm nguy hiểm, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Tại khoản 3 Điều này quy định một loạt các hành vi cụ thể, nếu người phạm
tội có dấu hiệu thuộc các trường hợp từ điểm a đến điểm h khoản 3 Điều này như:
Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cơca có khối lượng từ 01 kilôgam đến
dưới 05 kilôgam; Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA
hoặc XLR-11 có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam; Lá cây côca; lá khát (lá
cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây
khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 25 kilơgam đến
dưới 75 kilơgam; Quả thuốc phiện khơ có khối lượng từ 200 kilôgam đến dưới 600
kilôgam; Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 50 kilơgam đến dưới 150 kilơgam;
Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới 300 gam; Các
chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 250 mililít đến dưới 750 mililít; Có 02
chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương
với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a
đến điểm g khoản này, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm.
Tại khoản 4 Điều này quy định một loạt các hành vi cụ thể, nếu người phạm
tội có dấu hiệu thuộc các trường hợp từ điểm a đến điểm h khoản 4 Điều này như:
Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cơca có khối lượng 05 kilôgam trở lên;
Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối
lượng 100 gam trở lên; Lá cây cơca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân,
cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do
Chính phủ quy định có khối lượng 75 kilôgam trở lên; Quả thuốc phiện khô có khối
lượng 600 kilơgam trở lên; Quả thuốc phiện tươi có khối lượng 150 kilơgam trở
lên; Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam trở lên; Các chất ma

14


túy khác ở thể lỏng có thể tích 750 mililít trở lên; Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng
khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích

chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này, thì bị
phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Ngồi ra tại khoản 5 Điều này còn quy định mức phạt tiền từ 5.000.000 đồng
đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Như vậy, tội phạm ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có
năng lực TNHS, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, xâm phạm đến
chế độ quản lý, sử dụng các chất ma túy của nhà nước, từ đó gây thiệt hại cho lợi
ích của Nhà nước, của xã hội và của cơng dân, gây mất trật tự an tồn xã hội [11;
tr.233]. Đối với tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” thì hành vi mua bán trái
phép chất ma túy là “hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức
nào” [27, tr. 204] hoặc có thể hiểu cụ thể hơn là “bán hay mua để bán lại; vận
chuyển ma túy để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất
ma túy khác để bán lại trái phép; hoặc dùng ma túy để đổi lấy hàng hóa hay dùng
hàng hóa để đổi lấy ma túy” [16, tr. 92]. Như vậy đối với hành vi mua bán trái phép
chất ma túy, hầu hết các nhà khoa học đều thống nhất đây là hành vi nhằm bán trái
phép chất ma túy cho người khác mà không cần biết nguồn gốc ma túy hoặc hành vi
nhằm trao đổi ma túy như hàng hóa có giá trị. Đối với các hành vi đồng phạm với
hành vi bán ma túy thì cũng bị truy cứu TNHS về tội danh này.
Tổng kết lại, hành vi mua bán trái phép chất ma túy là hành vi gây nguy
hiểm cho xã hội, do người có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS thực hiện, có lỗi,
xâm phạm đến khách thể là chế độ quản lý, sử dụng các chất ma túy của Nhà nước.
Vụ án mua bán trái phép ma túy là một loại vụ án hình sự, do đó khái niệm
của nó cũng phải mang tính lý luận từ khái niệm “vụ án hình sự”. “Vụ án hình sự”
là “vụ việc phạm pháp có dấu hiệu là tội phạm được quy định trong BLHS đã được
CQĐT khởi tố hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo trình tự thủ tục đã
được quy định” [8,tr.170-171].

15



Trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy gồm hai loại hành vi phạm tội, đó
là hành vi mua trái phép chất ma túy và bán trái phép chất ma túy. Người phạm tội
có hành vi mua ma túy và bán ma túy để kiếm lời, thu lợi bất chính. Đối với trường
hợp có hành vi mua ma túy để nhằm mục đích bán kiếm lợi nhưng chưa bán thì
cũng phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Khi có hành vi mua bán trái phép
chất ma túy xảy ra, CQĐT hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra (sau đây gọi chung là CQĐT) sẽ áp dụng các biện pháp điều tra theo
quy định của pháp luật để phát hiện, khởi tố, điều tra đối với tội phạm và người
phạm tội. Như vậy kết hợp với các phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm “vụ
án mua bán trái phép ma túy” là những vụ việc phạm tội liên quan đến hành vi mua
bán trái phép chất ma túy được quy định trong BLHS, đã được CQĐT phát hiện và
khởi tố để tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử theo quy định”.
1.1.1.3. Khái niệm “giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy”
“Giai đoạn điều tra” đề cập trong luận văn được hiểu là giai đoạn điều tra vụ
án hình sự, bởi lẽ “điều tra” là một hoạt động không thể tách rời với các vụ án mang
tính chất hình sự, khác với các hoạt động xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ trong
các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính...
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự do các cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng nhằm thu thập tài liệu, chứng
cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án, phát hiện chính xác, khách quan, đầy đủ hành
vi tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong đó nhiệm vụ chính trong hoạt
động điều tra là của CQĐT, bên cạnh đó có sự tham gia của VKS trong hoạt động
THQCT và kiểm sát thuộc chức năng, quyền hạn của mình. Giai đoạn điều tra vụ án
hình sự là một trong các giai đoạn tố tụng được thực hiện trước giai đoạn truy tố,
xét xử.
Dưới góc độ nghiên cứu, có một số quan điểm cho rằng giai đoạn điều tra vụ
án hình sự có hai cách xác định theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Quan điểm giai đoạn
điều tra nếu xét theo quy định của BLTTHS hiện hành thì là nghĩa hẹp, tức là bắt
đầu khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Quan điểm theo nghĩa rộng, giai đoạn


16


điều tra sẽ được xác định thời gian bắt đầu từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm hoặc kiến nghị khởi tố. Đối với giai đoạn điều tra cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp
đều kết thúc khi CQĐT có hoạt động kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can hoặc
kết luận điều tra và đình chỉ vụ án. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả cho
rằng giai đoạn điều tra được xác định từ khi CQĐT ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự và tiến hành điều tra cho đến khi CQĐT có hoạt động kết thúc điều tra, đây là
quan điểm phù hợp và chính xác theo quy định của BLTTHS hiện hành.
Trong giai đoạn điều tra, CQĐT được áp dụng các biện pháp điều tra, thu
thập chứng cứ theo quy định của pháp luật để thu thập chứng cứ và tiến hành chứng
minh có hay khơng sự việc phạm tội, người thực hiện tội phạm và các vấn đề khác
như nguyên nhân của hành vi phạm tội, điều kiện người phạm tội thực hiện hành vi
và các tình tiết liên quan khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Trong giai
đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy có các hoạt động điều tra như:
Lấy lời khai của người bị bắt quả tang, lời khai người bị giữ (bắt người bị giữ) trong
trường hợp khẩn cấp, lời khai người bị tạm giữ hình sự, lời khai người làm chứng,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng khác liên
quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy; Hỏi cung bị can; Giám định chất
ma túy và các hoạt động giám định khác có liên quan đến hàm lượng chất ma túy;
giám định tuổi của người phạm tội; đối chất, nhận dạng; các thủ tục khám xét, khám
người, thu giữ tài liệu, đồ vật... liên quan đến hành vi phạm tội “Mua bán trái phép
chất ma túy”. Các hoạt động điều tra trong giai đoạn này cần phải thực hiện đúng
theo trình tự thủ tục quy định trong BLTTHS, thực hiện nhanh chóng, khách quan
nhằm thu thập tài liệu, chứng cứ toàn diện để củng cố cho hoạt động buộc tội và gỡ
tội đối với người có hành vi phạm tội.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy là một giai
đoạn tố tụng, trong đó, Cơ quan điều tra tiến hành các biện pháp điều tra theo quy

định của BLTTHS để xác định tội phạm và người phạm tội mua bán trái phép chất
ma túy, làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn, không làm
oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm.

17


1.1.4. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
mua bán trái phép chất ma túy
THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy là hoạt
động của VKS trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối
với người có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Hoạt động này bắt đầu từ khi
CQĐT khởi tố vụ án hình sự đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy và kết
thúc khi có kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc khi có quyết định đình chỉ điều tra
vụ án mua bán trái phép chất ma túy [09, tr. 50 - 53]. Khi THQCT trong giai đoạn
điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy, VKS thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
được quy định tại Điều 165 và trong một số điều luật khác của BLTTHS. Trong giai
đoạn này, KSV, KTV và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS tiến hành các hoạt
động sau:
- Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can;
- Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố bị can khơng có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT;
- Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can
của CQĐT trong các trường hợp do BLTTHS quy định;
- Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, khám xét, thu
giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng biện pháp điều
tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác khơng
có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; hủy bỏ các quyết định tố tụng khơng có căn

cứ và trái pháp luật của CQĐT;
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp
cưỡng chế của CQĐT theo quy định của BLTTHS;
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra để làm rõ tội
phạm, người phạm tội; yêu cầu CQĐT truy nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt;

18


×