Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Luận văn thạc sĩ kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn huyện quế sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.05 KB, 63 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ HƯỚNG

KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO,
TỐ GIÁC TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ HƯỚNG

KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO,
TỐ GIÁC TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 838.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN HIỂN


HÀ NỘI, năm 2020


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của các cơ quan tiến hành tố tụng, là
nguồn căn cứ để kịp thời phát hiện các hành vi phạm tội xảy ra; từ đó xác định
hành vi đó có dấu hiệu tội phạm hay khơng để xem xét khởi tố hay khơng khởi
tố vụ án hình sự. Đồng thời thông qua hoạt động này, CQĐT, VKS cũng như
các cơ quan hữu quan sẽ nắm được tình hình tội phạm xảy ra trên thực tế để có
các biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Viện kiểm sát nhân dân là một
trong những cơ quan thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước. Theo đó, VKSND là cơ
quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
góp phần bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất,
bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm
bảo không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Chức năng kiểm sát
các hoạt động tư pháp của Viện KSND được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận
nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự nói riêng
và các hoạt động tư pháp khác nói chung.
Thực tiễn cơng tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong những năm
qua cho thấy, công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến
nghị khởi tố sẽ quyết định đến chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Nhận thức được tầm quan trọng của
khâu công tác này, trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân nói chung
và VKSND huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam nói riêng luôn quan tâm, chú



trọng đến khâu công tác này và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy
nhiên, trước sự thay đổi của tình hình kinh tế xã hội, nhất là yêu cầu đấu tranh
phịng chống tội phạm trong tình hình mới thì cơng tác kiểm sát việc giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn huyện Quế Sơn,
tỉnh Quảng Nam vẫn còn nhiều hạn chế từ các quy định của pháp luật cũng như
trên thực tế áp dụng, dẫn đến hiệu quả việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
chưa cao, nhiều vụ việc có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa được xử lý đúng quy
trình, có những tố giác, tin báo tội phạm chưa được CQĐT kịp thời xác minh
làm rõ dẫn đến việc thu thập tài liệu, chứng cứ chưa kịp thời làm ảnh hưởng
đến quá trình giải quyết vụ án…
Từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm theo yêu cầu cải cách tư
pháp và việc nghiên cứu, thực hiện các quy định mới của BLTTHS năm 2015
nói chung và nhất là việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2015 về
công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
sẽ làm sáng tỏ về mặt khoa học, nêu lên những kết quả đạt được, những bất
cập, hạn chế từ những quy định của pháp luật cũng như việc thực hiện các quy
định này trên thực tế. Từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp
dụng các quy định trên thực tiễn, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan
trọng. Vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Kiểm sát việc giải quyết tin
báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh
Quảng Nam” để làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về
công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
làm tiền đề cho việc nghiên cứu đề tài luận văn như: Bình luận khoa học
BLTTHS; Nơng Xn Trường, Vai trị, trách nhiệm của VKS trong giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, thực trạng và một số giải pháp, (Trang tin điện tử



VKSNDTC); ThS. Nguyễn Duy Giảng, Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
trong công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí kiểm sát số 18-20/2008;
ThS. Lê Ra, Cần thống nhất nhận thức về các khái niệm tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và các nguồn thông tin về tội phạm, Tạp chí kiểm sát
số 20/2012; ThS. Lê Minh Long, Một số giải pháp tháo gỡ vướng mắc, bất
cập trong giải quyết và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
giết người, Tạp chí kiểm sát số 4/2011...
Ngồi ra, cịn có một số các Luận văn thạc sĩ luật học như: “Kiểm sát
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố vụ án hình
sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Phan Văn Khai (Hà Nội-2018);
“Kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” của tác giả
Nguyễn Thị Hồng Loan (Hà Nội-2018); “Kiểm sát việc giải quyết các tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang” của
tác giả Bé Thị Thảo (Hà Nội-2018)...
Như vậy, vấn đề kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố đã được các nhà nghiên cứu lý luận cũng như những người
làm công tác thực tiễn nghiên cứu. Tuy nhiên, liên quan đến công tác kiểm sát
việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam thì chưa có một bài viết, một cơng trình
nghiên cứu nào đề cập đến. Đây là đề tài do bản thân tác giả tự nghiên cứu
nên sẽ không trùng với bất kỳ đề tài hoặc cơng trình nghiên cứu nào đã được
cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và


thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến công

tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố từ
thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam; từ đó đưa ra các giải pháp tiếp tục
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết nguồn tin
về tội phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và các quy định theo pháp luật
TTHS Việt Nam về công tác kiểm sát việc giải quyết các tin báo, tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố.
Phân tích, đánh giá thực trạng công tác kiểm sát giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng
Nam giai đoạn 2015 - 2019. Qua đó đánh giá những kết quả đã đạt được cũng
như những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và tìm ra ngun nhân
của những tồn tại đó.
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiểu quả kiểm sát
việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa
bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của
BLTTHS năm 2015 cũng như thực tiễn hoạt động của công tác kiểm sát việc
giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn huyện
Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi kiểm sát việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ khi CQĐT tiếp nhận đến
khi ra các Quyết định khởi tố, không khởi tố và tạm đình chỉ.


- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu số liệu thực tế trong giai đoạn từ năm
2015 đến 2019, số liệu thống kê của VKSND huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng

Nam.
- Về không gian: huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận về chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng
nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, quy
nạp, diễn dịch, phân tích quy phạm pháp luật để tổng hợp các tri thức khoa
học luật TTHS và luận cứ các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận
văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và
thực tiễn liên quan đến công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND. Luận văn tổng hợp các quan điểm
khoa học về công tác kiểm sát việc giải quyết các tin báo, tố giác về tội phạm
và kiến nghị khởi tố từ đó xây dựng các khái niệm về kiểm sát việc giải quyết
các tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Bên cạnh đó, luận văn
cũng chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những bất cập, hạn chế liên
quan đến khâu công tác này. Từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao hơn
nữa hiệu quả thực hiện khâu công tác này.


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích cho các nhà nghiên
cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, học viên, sinh viên và những người làm

công tác thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về kiểm sát việc giải
quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Chương 2: Thực trạng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
và kiến nghị khởi tố từ thực hiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát việc giải quyết tin
báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố.


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC TỘI PHẠM
VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, đối tượng, phạm vi, trình tự, thủ tục
kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
1.1.1. Khái niệm tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
Tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là nguồn thông tin
quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện dấu hiệu của tội
phạm, trên cơ sở đó sẽ tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh để xác định
có căn cứ để khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự. Đây là tiền đề quan
trọng bởi lẽ nếu kết quả kiểm tra, xác minh dẫn đến việc CQĐT ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự thì nó sẽ mở ra hồng loạt các hoạt động tố tụng sau
này. Vì vậy, việc hiểu và đưa ra khái niệm chính xác về tin báo, tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố sẽ giúp cho người THTT cũng như các Cơ quan
THTT thuận lợi hơn trong việc phân loại, giải quyết các nguồn tin báo về tội
phạm đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Trên thực tế, hoạt động giải quyết tố giác tội phạm và tố cáo thường
gây nhầm lẫn cho các chủ thể khi thực hiện nhiệm vụ vì giữa chúng có những

điểm tương đồng, gây ra khơng ít khó khăn trong cách hiểu và cách xử lý dẫn
đến việc phân loại khơng chính xác, làm cho hoạt động áp dụng pháp luật
cũng như quy trình xử lý chưa thật sự phù hợp. Vì vậy, cần phân biệt giữa
khái niệm “tố cáo” và “tố giác”
Thứ nhất, dưới góc độ ngơn ngữ:
Khái niệm “Tố cáo” được hiểu với hai nghĩa: thứ nhất, tố cáo là báo
cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết hoặc hành động phạm pháp


nào đó. Thứ hai, tố cáo là vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho mọi
người biết nhằm lên án, ngăn chặn. [14]
Khái niệm “Tố giác” được hiểu là báo cho chính quyền biết người hoặc
hành động phạm pháp nào đó. [14]
Thứ hai, dưới góc độ pháp lý:
Khoản 1, Điều 2 Luật Tố cáo năm 2018 quy định: “Tố cáo là việc cá
nhân theo thủ tục quy định của luật này báo cáo cho cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” [17]. Như
vậy, xét về bản chất việc thực hiện quyền tố cáo thể hiện mối quan hệ giữa
Nhà nước và các cơ quan, tổ chức, cá nhân mà trong đó bên đi tố cáo báo cáo
cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp
luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (lĩnh vực dân sự,
hành chính...) theo những trình tự, thủ tục giải quyết khác nhau.
Khoản 1, Điều 144 BLTTHS năm 2015 quy định: “Tố giác về tội phạm
là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan
có thẩm quyền”.[15]
Từ đó có thể thấy rằng, tố cáo và tố giác về tội phạm có những điểm

khác biệt. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật không phân biệt tính chất, mức
độ vi phạm; cịn tố giác về tội phạm chỉ bao gồm những hành vi có dấu hiệu
tội phạm được quy định trong BLHS nên có thể nói khái niệm tố cáo rộng
hơn, bao hàm cả khái niệm tố giác về tội phạm. Điểm khác biệt cơ bản giữa tố
cáo và tố giác là: Tố cáo là quyền, còn tố giác về tội phạm vừa là quyền vừa
là nghĩa vụ của công dân. Quan hệ pháp luật về tố cáo hành vi vi phạm pháp


luật phát sinh khi công dân thực hiện quyền tố cáo, còn quan hệ pháp luật về
tố giác tội phạm phát sinh ngay sau khi công dân biết về tội phạm. Cơng dân
có quyền quyết định việc mình có tố cáo hay không một hành vi vi phạm pháp
luật nhưng bắt buộc phải tố giác nếu biết rõ một trong các tội phạm được quy
định tại Điều 389 BLHS năm 2015 đang được thực hiện hoặc chuẩn bị thực
hiện. Nếu khơng tố giác, cơng dân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội “Khơng tố giác tội phạm” theo quy định tại Điều 390 BLHS năm 2015.
Khái niệm “Tin” cũng được hiểu theo hai nghĩa, một là, điều được
truyền đi, báo đi cho biết sự việc, tình huống nào đó đã xảy ra. Hai là, sự
truyền đạt, sự phản ánh dưới các hình thức khác nhau cho biết về thế giới
xung quanh và quá trình xảy ra trong nó.[14]
Khái niệm “Báo” được hiểu theo hai nghĩa: Một là, cho biết việc gì đó
đã xảy ra. Hai là, báo cho người có trách nhiệm biết về việc xảy ra có thể hại
đến trật tự an ninh chung..., là dấu hiệu biết trước.[14]
Theo đó, tin báo về tội phạm được hiểu là những thơng tin về hành vi
có dấu hiệu tội phạm do các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp cho cơ quan
có thẩm quyền và những thơng tin được đăng tải trên các phương tiện thông
tin đại chúng có dấu hiệu tội phạm .
Kiến nghị khởi tố được hiểu là những thơng tin về hành vi có dấu hiệu
tội phạm do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản gửi
kèm theo tài liệu, chứng cứ có liên quan cho CQĐT, VKS có thẩm quyền giải
quyết.

Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố về cơ bản là giống nhau nhưng chưa được cụ thể làm cho việc phân biệt
giữa các khái niệm này cịn khó khăn. Đến Bộ luật TTHS năm 2015 thì khái
niệm về tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố mới được quy định


một cách hoàn chỉnh, đầy đủ và cụ thể.
Điều 144 BLTTHS năm 2015 quy định:
Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu
hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.
Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ
quan, tổ chức, cá nhân thơng báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin
về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.
Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị
bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.
1.1.2. Khái niệm kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và
kiến nghị khởi tố
Khái niệm “Giải quyết” được hiểu là làm cho một vấn đề khơng cịn là
vấn đề nữa.[14]
Theo quy định tại Điều 8 Luật Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 thì
CQĐT có trách nhiệm giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi
tố.[18].
Điều 145 BLTTHS năm 2015 quy định: CQĐT, VKS có trách nhiệm
giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc thẩm
quyền của mình; các cơ quan, tổ chức khác có trách nhiệm tiếp nhận các tố
giác, tin báo về tội phạm; các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động
điều tra có trách nhiệm giải quyết các tin báo, tố giác tội phạm thuộc thẩm
quyền điều tra của mình.

Như vậy, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố là
hoạt động tố tụng đầu tiên của quá trình giải quyết một vụ án hình sự, quá
trình này được diễn ra xuyên suốt thông qua các hoạt động tố tụng từ khâu
tiếp nhận, phân loại, thụ lý và giải quyết. Qua kiểm tra, xác minh nguồn tin


chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không để ra quyết định khởi tố
hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu: Giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố là việc CQĐT sử dụng các quyền năng pháp lý
của mình được quy định trong BLTTHS để thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp
luật.
Hiện nay, khái niệm “Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
và kiến nghị khởi tố” chưa có định nghĩa cụ thể và thống nhất, ở nước ta mới
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu ở cấp độ kiểm sát các hoạt động tư pháp nói
chung hay cụ thể là kiểm sát một giai đoạn nào đó trong q trình tố tụng như
kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát điều tra...
Ở nước ta, VKSND là cơ quan duy nhất trong hệ thống tổ chức bộ máy
Nhà nước được Quốc hội quy định hai chức năng là thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp.
Chức năng của Viện KSND đã được cụ thể hóa tại Luật Tổ chức
VKSND năm 2014: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” [18]. Trong chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp có chức năng kiểm
sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, đây là hoạt động của VKKSND để
kiểm sát tính có căn cứ và hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp nói chung và những người
THTT nói riêng. Cơng tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố được Ngành kiểm sát xác định là một trong những khâu

công tác quan trọng, trọng điểm. Thông qua khâu công tác này, Viện kiểm sát
mới có cơ sở để đảm bảo các hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao


nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là có căn cứ, đúng pháp luật;
đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện, khởi tố, điều tra và
xử lý kịp thời, không để bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội, đảm bảo CQĐT, những người THTT và những người tham gia
tố tụng đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ
án. Vì vậy, trong những năm qua nhất là từ khi BLTTHS năm 2015 ra đời,
khâu công tác này luôn được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Viện KSND tối
cao, của các cấp chính quyền địa phương.
Chức năng kiểm sát của VKSND trong giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố là việc VKSND sử dụng những nhiệm vụ, quyền
hạn được quy định trong BLTTHS và những quy định pháp luật có liên quan
nhằm bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ XHCN, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất trên thực tế.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng tham gia “Kiểm tra việc chấp hành pháp
luật của Nhà nước” trong TTHS khơng chỉ có VKS mà cịn có các chủ thể
khác như: người tham gia tố tụng, cá nhân cơng dân, đại biểu dân cử và tồn
thể xã hội. Các chủ thể này có quyền được kiểm tra việc chấp hành pháp luật
của Nhà nước trong lĩnh vực TTHS xuất phát từ những chế định quan trọng
của Hiến pháp và pháp luật, về tổ chức Bộ máy Nhà nước và địa vị pháp lý
của công dân. Về bản chất, hoạt động của các chủ thể này như theo dõi, yêu
cầu cơ quan THTT báo cáo tình hình hoạt động, yêu cầu trả lời lý do ra các
quyết định, yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm, yêu cầu khắc phục vi phạm
pháp luật. Điều này, sẽ làm ảnh hưởng đến việc kịp thời phát hiện các hành vi

vi phạm pháp luật của các cơ quan THTT và loại trừ việc vi phạm pháp luật
của những cơ quan hoặc cá nhân trong TTHS. Nhưng không thể coi đây là


hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS mà chỉ là các hoạt
động giám sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS. Sự khác nhau giữa hoạt
động kiểm sát của VKS và hoạt động giám sát của các chủ thể nói trên chính
là một số quyền mà pháp luật cho phép chỉ có VKSND mới có khi thực hiện
hoạt động kiểm sát như: Yêu cầu CQĐT tiếp nhận nguồn tin về tội phạm; yêu
cầu kiểm tra, xác minh nguồn tin tội phạm; ra quyết định giải quyết nguồn tin
về tội phạm; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu về vi phạm pháp luật trong việc
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, phê chuẩn hoặc không phê chuẩn
các lệnh, quyết định của CQĐT... Những quyền này đồng thời cũng là nghĩa
vụ của VKSND, tạo nên sự khác biệt về phương thức hoạt động của Viện
kiểm sát mà các chủ thể khác khơng có. Quyền của VKSND khi kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTHS được thực hiện cụ thể qua các quyền của
Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên theo quy định tại các Điều 41,
42 BLTTHS năm 2015.
Các quyền và nghĩa vụ của VKSND đặt trong mối quan hệ tổng thể tạo
ra một phương thức kiểm sát đặc trưng, riêng có của VKS, tạo sự phân biệt dễ
dàng giữa hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS với hoạt động
giám sát của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Phương thức kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS thể hiện ở việc kiểm tra, giám sát một
cách liên tục trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, VKS có quyền và
nghĩa vụ có mặt trong tất cả các giai đoạn từ khởi tố - điều tra - truy tố - xét
xử - thi hành án. Tính cụ thể của phương thức kiểm sát là việc VKS có quyền
giám sát các hoạt động cụ thể như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi, hỏi cung bị can, thực nghiệm điều tra, đối chất, nhận dạng... VKS kiểm
sát một cách trực tiếp các hoạt động tố tụng thể hiện ở việc VKS có mặt ở
những hoạt động tố tụng bắt buộc phải có sự tham gia của KSV; thường

xuyên nhắc nhở, đôn đốc kịp thời khi các cơ quan THTT thực hiện các hoạt


động giải quyết vụ án. Tuy nhiên, VKSND không phải có mặt, theo dõi và
giám sát mọi hoạt động, mọi lúc, mọi nơi mà còn phụ thuộc vào điều kiện
thực tế về nhân sự, số lượng vụ án, tính chất từng vụ án và quy định của pháp
luật TTHS mà VKS sẽ quyết định việc trực tiếp kiểm sát diễn biến của một
hoạt động tố tụng hay chỉ cần kiểm sát thông qua kết quả của hoạt động tố
tụng.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, BLTTHS, Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 và những phân tích nên trên, có thể hiểu khái niệm như
sau:
“Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi
tố là việc Viện kiểm sát nhân dân sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
của mình được pháp luật tố tụng hình sự quy định để kiểm sát tính hợp pháp
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật”.
Bên cạnh chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố, Viện kiểm sát cịn có chức năng thực hành quyền
công tố trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Quá trình kiểm sát hoạt động của CQĐT trong quá trình giải quyết nguồn tin
về tội phạm chúng ta cần phân biệt rõ hai chức năng này để áp dụng pháp luật
đúng đắn. Thực hành quyền công tố của VKSND trong TTHS là việc
VKSND thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với cá nhân, pháp nhân
thương mại phạm tội trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự từ khi giải
quyết nguồn tin tội phạm đến khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Thực hành
quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố là hoạt động của VKSND trong q trình giải quyết những thơng tin
về hành vi có dấu hiệu của tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp
theo quy định của pháp luật. Các hoạt động thực hành quyền công tố trong



việc giải quyết nguồn tin về tội phạm của VKSND như: Phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn
tạm giữ, hủy bỏ quyết định tạm giữ; đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh; trực
tiếp giải quyết nguồn tin về tội phạm trong trường hợp có vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu
nhưng CQĐT không khắc phục...Chức năng thực hành quyền công tố và chức
năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố
là hai chức năng độc lập nhưng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Từ khi
CQĐT tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm là đã phát sinh hoạt động
thực hành quyền công tố của VKSND.
1.2. Quy định của pháp luật về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
1.2.1. Về chủ thể thực hiện quyền kiểm sát
VKSND là cơ quan duy nhất được Hiến pháp trao cho chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chức năng này của
VKS được kế thừa từ Hiến pháp năm 1959 đến nay. Tuy qua các thời kỳ khác
nhau, chức năng của VKSND có những thay đổi khác nhau nhưng về cơ bản
Hiến pháp vẫn quy định cho VKSND hai chức năng cơ bản là thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định về chức năng kiểm sát các
hoạt động tư pháp như sau: Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi
tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành
chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư



pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật. [19]. Như vậy,
một trong những nội dung đầu tiên trong công tác kiểm sát các hoạt động tư
pháp của VKSND là kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố.
Trong tố tụng hình sự, VKS là cơ quan duy nhất tham gia đầy đủ các
giai đoạn tố tụng. Chức năng thực hành quyền công tố của VKS là những hoạt
động trong việc xác định tội phạm, việc truy cứu trách nhiệm hình sự và việc
buộc tội trước Tịa án. Vì vậy, để bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát
hiện, xử lý theo quy định của pháp luật, không để lọt người, lọt tội, không làm
oan người vô tội, thì các hoạt động cơng tố phải được thực hiện ngay từ khi
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Đặc biệt trong tiến trình cải
cách tư pháp và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, Đảng và Nhà
nước luôn yêu cầu VKS phải tăng cường hơn nữa trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra để bảo đảm các hoạt
động tố tụng hình sự phải được kiểm tra, giám sát, kiểm sốt chặt chẽ, bởi vì
các hoạt động này đều có tác động, liên quan đến quyền con người, quyền
cơng dân, thậm chí là sinh mệnh chính trị của con người... đây là nguyên tắc
tối thượng được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, bảo vệ. Như vậy, việc giải
quyết tố giác, tin báo trở thành “một giai đoạn” của tố tụng hình sự, VKS
thực hành quyền công tố sớm hơn, ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm.
Tại Điều 160 BLTTHS năm 2015 quy định: Viện kiểm sát kiểm sát
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thông qua các hoạt động kiểm sát
tuân theo pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong tố
tụng hình sự thực hiện việc tiếp nhận, kiểm sát việc kiểm tra, xác minh và
việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm của CQĐT; kiểm sát việc tạm
đình chỉ, phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm; kiểm sát việc phục hồi



giải quyết nguồn tin về tội phạm; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu liên quan
để kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm. Trường hợp khi phát hiện
việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm khơng đầy đủ, vi phạm pháp
luật thì u cầu CQĐT thực hiện các hoạt động, như: (1) tiếp nhận, kiểm tra,
xác minh, ra quyết định giải quyết nguồn tin về tội phạm đầy đủ, đúng pháp
luật; (2) kiểm tra việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và thông
báo kết quả cho VKS; (3) cung cấp tài liệu về vi phạm pháp luật trong việc
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm; (4) khắc phục vi phạm pháp luật
và xử lý nghiêm người vi phạm; (5) yêu cầu thay đổi Điều tra viên, Cán bộ
điều tra; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm
và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của BLTTHS. Trong Điều luật này
cũng quy định VKS tiến hành trực tiếp các cuộc kiểm sát, là những hoạt động
kiểm sát mang tính tồn diện, để kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật
của CQĐT… trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất và ngăn
ngừa các vi phạm, xử lý nghiêm tội phạm trong hoạt động tư pháp.
Từ những quy định nêu trên, có thể thấy VKSND là cơ quan Nhà nước
duy nhất được Hiến pháp và pháp luật trao cho quyền được thực hiện việc
kiểm sát hoạt động giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi
tố. Đây là chức năng đặc thù của VKSND cùng với chức năng thực hành
quyền công tố, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để VKSND thực hiện tốt nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân.
1.2.2. Về mục đích, đối tượng và phạm vi kiểm sát
1.2.2.1. Mục đích kiểm sát
Giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố là nhiệm vụ


mới của Viện kiểm sát được quy định trong BLTTHS năm 2015. Đây là khâu

công tác hết sức quan trọng của ngành kiểm sát nói chung và của các hoạt
động tố tụng nói riêng bởi lẽ đây là giai đoạn mở đầu cho các hoạt động tố
tụng hình sự. Có tiếp nhận và giải quyết tốt các nguồn tin về tội phạm, thì mới
xác định được có tội phạm hay khơng có tội phạm xảy ra, để quyết định khởi
tố hay quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự. Vì vậy, VKS được giao nhiệm
vụ thực hiện khâu cơng tác này nhằm đảm bảo mọi tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố đều phải được tiếp nhận đầy đủ, kịp thời, không để
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đồng thời phải đảm bảo cho việc
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm được khách quan, toàn diện, đảm
bảo đúng quy định của pháp luật.
1.2.2.2. Đối tượng kiểm sát
Đối tượng của công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động tuân theo pháp luật trong quá trình
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của các cơ quan có
thẩm quyền theo quy định của BLTTHS. Trách nhiệm giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được quy định cụ thể tại Điều 145
BLTTHS và Thông tư liên tịch số 01/2017. Theo các quy định này thì mọi tố
giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải
quyết kịp thời. Cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm tiếp nhận, khơng được từ
chối tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nếu
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. [15]
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan có trách nhiệm tiếp
nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo trình tự
TTHS được chia thành hai nhóm là cơ quan điều tra và cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Theo quy định tại Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 thì


CQĐT gồm ba hệ thống là: CQĐT của Công an nhân dân, CQĐT của quân
đội nhân dân và CQĐT của VKSNDTC. Đây là những cơ quan chuyên trách,

được trao cho nhiệm vụ, quyền hạn điều tra trong hầu hết các vụ án hình sự
nên cũng là các cơ quan chủ yếu tiến hành các hoạt động tiếp nhận, giải quyết
nguồn tin về tội phạm.
Các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là
hệ thống các Cơ quan được quy định tại Điều 35 BLTTHS năm 2015 và Luật
Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 như: Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Cảnh sát biển, Kiểm lâm...Các cơ quan này là các cơ quan quản lý hành
chính trong ngành, lĩnh vực mà mình quản lý, được pháp luật cho phép tiến
hành một số hoạt động điều tra các vụ án hình sự xảy ra trên lĩnh vực đó. Các
cơ quan này được tiến hành các hoạt động điều tra kể từ khi tiếp nhận nguồn
tin về tội phạm đối với những vụ án đơn giản, bị can có lý lịch rõ ràng; đối
với những vụ án phức tạp thì phải chuyển ngay cho CQĐT có thẩm quyền
giải quyết.
1.2.2.3. Phạm vi thực hiện các hoạt động kiểm sát
Điều 10 và 14 Thông tư liên tịch số 01/2017 quy định: Nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được thực hiện theo
quy định tại Điều 159, Điều 160 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong
thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được Quyết định phân công giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, Cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định
tại Điều 9 Thông tư liên tịch này, Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp tổ chức,
chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, phân công Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên hoặc ra Quyết định phân cơng Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ


đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và gửi ngay một bản cho Cơ quan
điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã

ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố. Đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã rõ về dấu
hiệu của tội phạm mà Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự thì
Viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, phân công Kiểm sát viên, Kiểm
tra viên hoặc ra Quyết định phân công Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ đạo hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố, điều tra theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Khi kết thúc việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố phải gửi kết quả giải quyết cho Viện kiểm sát đã thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố theo quy định tại các điều 148, 154, 158 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Từ đó có thể thấy, phạm vi cơng tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm và kiến nghị khởi tố được bắt đầu khi cơ quan có thẩm quyền
điều tra tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm đến khi ra Quyết định khởi tố;
Quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự; Quyết định tạm đình chỉ việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và ban hành thông báo kết quả giải quyết
theo quy định tại Điều 147 BLTTHS năm 2015.
1.2.3. Trình tự, thủ tục, thời hạn kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
1.2.3.1. Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị
khởi tố


Theo quy định của BLTTHS năm 2015 và Luật tổ chức VKSND năm
2014, VKS có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra. Hoạt động kiểm sát trong lĩnh vực này của VKS

được thực hiện qua việc VKS trực tiếp kiểm sát, kiểm sát việc kiểm tra, xác
minh, lập hồ sơ và kết quả giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị
khởi tố của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra để kịp thời phát hiện những sai sót trong giai đoạn này, yêu cầu cơ
quan điều tra chấn chỉnh, khắc phục, đảm bảo việc giải quyết nguồn tin về tội
phạm được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. VKS kiểm sát các
quyết định khởi tố, khơng khởi tố vụ án hình sự, Quyết định tạm đình chỉ việc
giải quyết nguồn tin về tội phạm, kiểm sát việc phục hồi giải quyết nguồn tin
về tội phạm.
Sau khi tiếp nhận thông tin liên quan đến tội phạm, CQĐT, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tiến hành phân
loại, xác minh sơ bộ ban đầu, nếu xác định thơng tin đó là tố giác, tin báo về
tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 03 ngày
làm việc, Thủ trưởng CQĐT phải ra Quyết định phân công Điều tra viên giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm đó và gửi ngay một bản đến VKS cùng cấp
để kiểm sát việc giải quyết theo quy định. Sau khi nhận được quyết định phân
công của CQĐT, trong thời hạn 03 ngày VKS phải ra Quyết định phân công
KSV kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và gửi 01 bản cho
CQĐT. Đối với các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực mà mình quản lý có tiếp nhận
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì khẩn trương tiến hành
kiểm tra, xác minh, quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự,
đồng thời phải thơng báo cho VKSND có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo


pháp luật trong hoạt động điều tra của cơ quan mình.
Hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố của cơ quan có thẩm quyền là hoạt động quan trọng. VKSND với
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật sẽ tác
động, trực tiếp theo dõi liên tục, xuyên suốt từ khi tiếp nhận, phân công người

giải quyết, các hoạt động xác minh, lập hồ sơ cho đến kết quả giải quyết luôn
được kiểm sát chặt chẽ. Trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm,
CQĐT sẽ tiến hành các hoạt động như thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật của
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin; khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi...để xác định có dấu hiệu tội phạm
xảy ra hay khơng để khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự.
Trong giai đoạn tố tụng này, KSV được phân công giải quyết nguồn tin
phải lập kế hoạch theo dõi, kiểm sát chặt chẽ các hoạt động của ĐTV, nắm
được nội dung và tiến độ thực hiện của ĐTV. Chủ động đề ra các yêu cầu xác
minh ngay từ khi tiếp nhận, KSV phải nêu rõ những nội dung cần làm rõ để
xác định tính xác thực của nguồn tin, văn bản này phải được lưu trong hồ sơ
kiểm sát. Trong trường hợp ĐTV không đồng ý với yêu cầu của KSV thì
KSV có quyền u cầu ĐTV nêu rõ lý do. Nếu lý do của ĐTV khơng có căn
cứ thì KSV báo cáo lãnh đạo đơn vị xem xét, kiến nghị với Thủ trưởng
CQĐT. Đồng thời với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, VKSND
phải kịp thời phát hiện và yêu cầu khắc phục ngay những vi phạm của CQĐT
trong quá trình xác minh tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, bảo
đảm các hoạt động của CQĐT tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật.
Ngoài việc kiểm sát việc giải quyết nội dung, VKS còn phải kiểm sát
chặt chẽ về thời hạn giải quyết nguồn tin. BLTTHS năm 2003 quy định thời
hạn tối đa để giải quyết nguồn tin về tội phạm là 02 tháng. Tuy nhiên, khắc
phục những khó khăn vướng mắc của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm


2015 đã có thay đổi lớn về thời hạn giải quyết nguồn tin về tội phạm. Hiện
nay theo quy định tại Điều 147 BLTTHS thì thời hạn tối đa để giải quyết
nguồn tin về tội phạm là 04 tháng. Sau khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh
nguồn tin về tội phạm, CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra phải ra một trong các quyết định: Quyết định khởi tố vụ án
hình sự, Quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự; Quyết định tạm đình chỉ

việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.[15]. Để kiểm
sát chặt chẽ thời hạn giải quyết, VKS phải nắm được nội dung thông tin cụ
thể, nếu thông tin về tội phạm cụ thể, rõ ràng và có đủ các yếu tố cấu thành tội
phạm thì có thể u cầu CQĐT ra quyết định giải quyết ngay mà không cần
thiết phải chờ hết thời hạn giải quyết nguồn tin, nếu CQĐT vẫn để kéo dài
thời hạn thì VKS sẽ kiến nghị, yêu cầu đảm bảo cho việc giải quyết nguồn tin
được nhanh chóng, kịp thời. Trường hợp đã hết thời hạn giải quyết mà chưa
có đủ căn cứ để khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự, thì sau khi nhận
được thông báo của CQĐT, KSV cùng ĐTV nghiên cứu kết quả đã xác minh
và báo cáo lãnh đạo hai cơ quan để cùng thống nhất quan điểm xử lý.
1.2.3.2. Kiểm sát kết quả giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến
nghị khởi tố
BLTTHS năm 2015 quy định sau khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh
nguồn tin về tội phạm thì CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra phải ra một trong các quyết định: Quyết định khởi tố vụ
án hình sự, Quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự; Quyết định tạm đình chỉ
việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Do đó, KSV
phải kiểm sát chặt chẽ kết quả giải quyết nguồn tin tội phạm của CQĐT.
Trong đó, tạm đình chỉ việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm là quy định
hoàn toàn mới, lần đầu tiên được thể chế hóa vào BLTTHS. Đây là một
hướng giải quyết mới, hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, mở ra cơ sở pháp lý


×