Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 89 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG TIẾN MẠNH

KIÓM S¸T VIÖC GI¶I QUYÕT TIN B¸O, Tè GI¸c
TéI PH¹M trong luËt tè tông h×nh sù viÖt nam
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Phƣợng

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN


Dƣơng Tiến Mạnh


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn ...................... 4
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu ............................... 5
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn ............................................. 6
6. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 6
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI
QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN ..................................................................................................... 7
1.1. Các khái niệm về tin báo, tố giác về tội phạm và kiểm sát việc giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân .............. 7
1.1.1 Khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm ............................................ 7
1.1.2. Khái niệm kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
của Viện kiểm sát nhân dân ................................................................... 13
1.2. Các đặc điểm về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm của Viện kiểm sát nhân dân ........................................................... 19
1.2.1. Chủ thể có quyền kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm. 19
1.2.2. Về đối tượng và phạm vi của hoạt động kiểm sát giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm ........................................................................... 20
1.2.3. Về hình thức kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm ... 21



1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về kiểm
sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát ............ 23
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1960 đến trước năm 1988 ............................... 23
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003 ............................... 24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 27
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH.......... 28
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về kiểm sát việc
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm ..................................................... 28
2.1.1. Chủ thể và đối tượng của kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm ............................................................................................... 28
2.1.2. Trình tự, thủ tục, thời hạn của kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm ....................................................................................... 32
2.2. Thực tiễn thi hành công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm ................................................................................................. 39
2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân .................................... 39
2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân .................................... 46
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 58
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN
BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN .. 59
3.1. Hoàn thiện pháp luật về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm ...................................................................................................... 59
3.1.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự ................ 60
3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật khác ..................................... 66



3.2. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm ................................................................................................. 67
3.2.1. Chú trọng công tác tổ chức, chỉ đạo điều hành và tổng kết rút
kinh nghiệm về nghiệp vụ kiểm sát ........................................................ 67
3.2.2. Đổi mới công tác cán bộ, tăng cường bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức, nâng cao trình độ về chính trị, nghiệp vụ và trách nhiệm của cán
bộ, Kiểm sát viên; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết. . 68
3.2.3. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát .................................................................................................... 72
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

CQĐT

: Cơ quan điều tra


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

THQCT

: Thực hành quyền công tố

TTHS

: Tố tụng hình sự


DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Số hiệu
bảng
2.1.
2.2.

Tên gọi bảng
Tổng số tin tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố và kết quả giải quyết
Kết quả kiểm sát công tác giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm của VKSND toàn quốc trong giai đoạn 2010 – 2014

Trang
40
40



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một trong những cơ quan thuộc hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước,
được ghi nhận tại Chương X Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND
năm 2014 theo đó VKSND có chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư
pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phải đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội. Với tư cách là cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp, một trong những
chức năng quan trọng của VKSND là kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố của các cơ quan có thẩm quyền. Việc
tiếp nhận, giải quyết kịp thời và có hiệu quả tin báo, tố giác về tội phạm có ý
nghĩa quyết định, then chốt đảm bảo việc đấu tranh, phòng chống tội phạm
đạt hiệu quả cao.
Là cơ quan đấu tranh phòng, chống tội phạm, trách nhiệm của VKSND
phải tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm do cá nhân, cơ quan tổ chức
chuyển đến, sau đó chuyển cho CQĐT có thẩm quyền giải quyết đồng thời
trực tiếp kiểm sát việc giải quyết toàn bộ tin báo, tố giác về tội phạm của
CQĐT. Làm tốt công tác này là tiền đề để VKS thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử được thuận lợi, hạn chế
tối đa tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm, hạn chế được số vụ phải trả hồ sơ để
điều tra bổ sung cũng như số vụ Tòa án tuyên không phạm tội. Trong những
năm vừa qua, trên cơ sở quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của
VKSND, công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của
ngành kiểm sát đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy vậy trước sự thay
đổi của các điều kiện kinh tế xã hội, đặc biệt trước yêu cầu đấu tranh phòng

1



chống tội phạm trong tình hình mới nên các quy định của pháp luật về kiểm
sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm đã bộc lộ nhiều bất cập và hạn
chế dẫn, tỷ lệ kết quả giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm thấp, tình hình tội
phạm ẩn còn nhiều, tiềm ẩn nguy cơ đe dọa đến tình hình an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội.
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo
tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm
vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020"; và Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020" thì việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam hiện hành về công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm để làm sáng tỏ về mặt khoa học, đưa ra giải pháp hoàn thiện
pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy
định trên thực tiễn có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng. Từ
những lý do nêu trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài "Kiểm sát việc giải
quyết tin báo, tố giác tội phạm trong luật TTHS Việt Nam" làm đề tài luận
văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Tin báo, tố giác về tội phạm là một trong những cơ sở để xác định dấu
hiện của tội phạm làm căn cứ để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố
hoặc không khởi tố vụ án hình sự, do đó hoạt động kiểm sát việc giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm của VKSND được rất nhiều nhà khoa học quan
tâm nghiên cứu đặc biệt là các cán bộ làm công tác chuyên môn nhưng chủ
yếu vẫn chỉ dừng lại ở những bài báo khoa học như: ThS. Nguyễn Duy Giảng,
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát việc giải


2


quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo yêu cầu cải cách
tư pháp, Tạp chí Kiểm sát, số 18-20/2008; Nguyễn Tiến Sơn, Một số vướng
mắc, bất cập và giải pháp nâng cao chất lượng công tác tiếp nhận, kiểm sát
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố hiện nay, Tạp
chí kiểm sát, số 12/2009; Phạm Đình Sự, Những kinh nghiệm tổ chức, thực
hiện và biện pháp trong công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố, Tạp chí kiểm sát, số 12/2009; Lưu Trọng
Nguyên, Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm
sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Tạp chí
kiểm sát, số 12/2009; Vũ Việt Hùng, Quy định của pháp luật về kiểm sát việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố - Thực trạng và
một số đề xuất kiến nghị, Tạp chí kiểm sát, số 12/2009; ThS. Lê Ra, Cần
thống nhất nhận thức về các khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và các nguồn thông tin về tội phạm, Tạp chí kiểm sát, số 20/2012,
ThS. Lê Minh Long, Một số giải pháp tháo gỡ vướng mắc, bất cập trong giải
quyết và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm giết người, Tạp
chí kiểm sát số 4/2011; Nguyễn Quang Thành, Nâng cao chất lượng, hiệu quả
phối hợp giữa viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội với cục điều tra
trong việc phát hiện và giải quyết tố giác, tin báo về các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp, Tạp chí kiểm sát số 11/2012;...
Như vậy nhìn một cách tổng quan có thể khẳng định rằng, vấn đề lý
luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm chưa được khoa
học luật TTHS Việt Nam quan tâm nghiên cứu đúng mức. Những nghiên cứu
về vấn đề này chỉ dừng lại ở những bài báo khoa học luận bàn về những khía
cạnh đơn lẻ chứ chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có tính chất
hệ thống, toàn diện và sâu sắc cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn thực hiện.


3


Với tình hình nghiên cứu trên, lại một lần nữa cho phép khẳng định
việc nghiên cứu đề tài "Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
trong luật TTHS Việt Nam" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý
luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về kiểm
sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm dưới khía cạnh lập pháp TTHS
và áp dụng chúng trong thực tiễn. Từ đó, luận văn đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện trong luật TTHS Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp
nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Từ cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả về chức năng
kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKSND, luận văn
nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung như: Khái niệm tin báo, tố giác
về tội phạm; khái niệm kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm;
- Khái quát sự phát triển của chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo,
tố giác về tội phạm của VKSND từ năm 1960 đến nay để rút ra những nhận
xét, đánh giá;
- Nghiên cứu các quy định cụ thể về chức năng kiểm sát việc giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm trong BLTTHS năm 2003 và các văn bản có liên
quan, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát việc giải
quyết tin báo, tố giác về tội phạm, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung
quanh việc áp dụng và những nguyên nhân cơ bản của tồn tại, hạn chế đó;


4


- Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về
chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong
BLTTHS năm 2003 và các văn bản có liên quan, cũng như những giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chức
năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong luật TTHS
Việt Nam và những văn bản hướng dẫn khác có liên quan, kết hợp với việc
nghiên cứu đánh giá thực tiễn thực hiện công tác trên của VKSND trên toàn
quốc, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải
pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả thực hiện trong
thực tiễn. Luận văn không nghiên cứu về thực tiễn kiểm sát giải quyết tin báo,
tố giác về tội phạm của VKS quân sự các cấp.
Về phạm vi nghiên cứu thực tiễn: Đề tài nghiên cứu thực tiễn thực hiện
công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong 05 năm 06
tháng (2010 – tháng 6/2015) trên địa bàn cả nước.
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh,
đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống


5


kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật TTHS và luận
chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý
luận và thực tiễn liên quan chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm trong luật TTHS Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong nước về công tác kiểm sát việc
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKSND từ đó xây dựng khái niệm về
kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, tạo cơ sở áp dụng pháp luật
thống nhất và có căn cứ. Đồng thời luận văn chỉ ra những đặc điểm công tác
kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKSND;
- Qua nghiên cứu thực tiễn kiểm sát việc giải quyết tin báo tố giác về tội
phạm của VKSND, luận văn đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện công tác kiểm sát này.
- Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp
luật, học viên và người làm thực tiễn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân
Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát
việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân và
thực tiễn thi hành
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm
sát nhân dân

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN
BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Các khái niệm về tin báo, tố giác về tội phạm và kiểm sát việc
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1 Khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm
Tin báo, tố giác về tội phạm là nguồn thông tin quan trọng góp phần giúp
các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở, căn cứ để tiến hành hoạt động khởi tố,
điều tra các vụ án hình sự. Quy định về tin báo, tố giác về tội phạm góp phần
tăng cường trách nhiệm của người dân, cơ quan, tổ chức trong xã hội đối với
việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời góp phần tạo sự rõ ràng và
minh bạch cho các chủ thể này có thể tố cáo hành vi phạm tội hoặc thông tin về
hành vi phạm tội của người khác đến cơ quan có thẩm quyền. Hoạt động xử lý
tin báo, tố giác về tội phạm là một hoạt động quan trọng trong quá trình giải
quyết các vụ án hình sự, qua đó CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có căn cứ không khởi tố vụ án hình sự
hoặc khởi tố vụ án hình sự và tiến hành điều tra.
Điều 100 BLTTHS năm 2003 quy định: " Chỉ được khởi tố vụ án hình
sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa
trên những cơ sở sau đây: 1. Tố giác của công dân; 2. Tin báo của cơ quan,
tổ chức; 3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;...". Khởi tố vụ
án hình sự là giai đoạn đầu tiên trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự
thể hiện sự phản ứng nhanh chóng từ phía nhà nước đối với mỗi hành vi phạm
tội nhằm góp phần điều tra, xử lý một cách có căn cứ và đúng pháp luật hành

vi phạm tội và người phạm tội. Việc khởi tố vụ án đúng, kịp thời có ý nghĩa
quan trọng, là tiền đề mở ra hàng loạt những hoạt động tố tụng sau này. Căn
cứ để khởi tố vụ án hình sự khi xác định có dấu hiệu của tội phạm xảy ra dựa
7


trên năm cơ sở được quy định tại Điều 100 BLTTHS năm 2003, trong số đó là
tố giác của công dân; tin báo của cơ quan, tổ chức; tin báo trên các phương
tiện thông tin đại chúng.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, các thuật ngữ: Tố cáo, tin báo, tố giác
được hiểu là:
Khái niệm “Tố cáo” được hiểu với hai nghĩa: Thứ nhất, tố cáo là báo
cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm
pháp nào đó. Thứ hai, tố cáo là vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho
mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn [21, tr.1199].
Khái niệm “Tố giác” được hiểu là: báo cho cơ quan chính quyền biết
người hoặc hành động phạm pháp nào đó [21, tr.1200].
Khái niệm “Tin” cũng được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất là, điều được
truyền đi, báo đi cho biết sự việc, tình hình xảy ra. Thứ hai là, sự truyền đạt,
sự phản ánh dưới các hình thức khác nhau, cho biết về thế giới xung quanh
và những quá trình xảy ra trong nó [21, tr.1183].
Khái niệm “Báo” được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất là, cho biết việc
gì đó đã xảy ra. Thứ hai là, cho người có trách nhiệm nào đó biết về việc xảy
ra có thể hại đến trật tự an ninh chung…là dấu hiệu biết trước [21, tr.342].
Trên bình diện pháp lý, Luật Tố cáo năm 2011 quy định:
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định
báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi
phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức (khoản 1 Điều 2) [26].

Tố cáo ở đây là khái niệm chung, là việc công dân thực hiện quyền của
mình báo tin về tất cả các hành vi vi phạm pháp luật nói chung cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền biết. Tùy theo lĩnh vực pháp luật bị vi phạm mà

8


người ta phân biệt các loại tố cáo khác nhau. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật
có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của
pháp luật về TTHS (khoản 3 Điều 31). Việc tố giác và tin báo về tội phạm
được thực hiện theo quy định của pháp luật về TTHS (khoản 1 Điều 3) [26].
Như vậy, trong TTHS tố cáo hành vi phạm tội được gọi là tố giác về tội
phạm. Đây chính là việc thuộc nội dung khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm [39].
Tố cáo và tố giác về tội phạm có những điểm khác biệt nhất định. Tố
cáo hành vi vi phạm pháp luật, không phân biệt tính chất, mức độ vi phạm.
Còn tố giác về tội phạm chỉ bao gồm hành vi vi phạm pháp luật có thể cấu
thành tội phạm đã được quy định trong BLHS. Do đó, có thể nói khái niệm tố
cáo rộng hơn và cơ bản đã bao hàm cả khái niệm tố giác về tội phạm theo luật
TTHS. Điểm khác biệt cơ bản giữa hai khái niệm này là: Tố cáo là quyền của
công dân, còn tố giác về tội phạm vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân.
Quan hệ pháp luật về tố cáo hành vi vi phạm pháp luật chỉ phát sinh sau khi
công dân thực hiện quyền tố cáo, còn quan hệ pháp luật tố giác về tội phạm
thì phát sinh ngay sau khi công dân biết về tội phạm. Công dân có quyền
quyết định việc mình sẽ tố cáo hay không một hành vi vi phạm pháp luật
nhưng bắt buộc phải tố giác nếu đã biết rõ về một số tội phạm quy định tại
Điều 313 BLHS đang được chuẩn bị hoặc đã được thực hiện. Công dân có thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội: “Không tố giác tội phạm” theo Điều
314 BLHS nếu biết mà không tố giác tội phạm.
Ở phương diện phản ánh, những thông tin về tội phạm là kết quả phản
ánh của những tội phạm đó trong hiện thực khách quan, tồn tại ở dạng vật

chất, đó là tín hiệu thông tin. Sự thay đổi trong môi trường do tội phạm gây ra
là nội dung, còn hình thức biểu hiện của những thông tin đó là tiếng nói và
chữ viết của con người. Trong hoạt động điều tra tội phạm, tín hiệu thông tin
có thể tồn tại ở hai dạng: Vật chất và tư tưởng, ý nghĩ. Hai hình thức tồn tại

9


của tín hiệu thông tin này chính là sự đa dạng của những dấu vết do tội phạm
để lại trong môi trường xung quanh.
Ở phương diện điều tra khám phá tội phạm tin báo, tố giác về tội phạm
là những thông tin ban đầu, có ý nghĩa rất lớn cho các cơ quan pháp luật xem
xét tính chất nghiêm trọng hay không của sự việc đã được những chủ thể báo
tin, tố giác đến; tính chính xác và độ tin cậy của các thông tin đến đâu; có dấu
hiệu của tội phạm hay không… Tin báo, tố giác về tội phạm là căn cứ để
CQĐT mở ra những hoạt động điều tra, xác minh theo luật định.
Có nhiều cách hiểu về tin báo, tố giác về tội phạm. Có quan điểm xác
định: Chỉ có tin báo do nhân dân, đài báo, cơ quan, tổ chức cung cấp, kiến
nghị mới là tin báo, tố giác về tội phạm; hoặc có quan điểm cho rằng mọi
thông tin liên quan đến tội phạm đều là tin báo, tố giác. Có quan điểm nêu:
Tố giác về tội phạm là việc công dân tố giác về hành vi tội
phạm được quy định trong BLHS, còn tin báo về tội phạm là những
thông tin về tội phạm được quy định trong BLHS do cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội cung cấp cho cơ quan có trách
nhiệm tiếp nhận và giải quyết; do các phương tiện thông tin đại
chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú [50].
Quan điểm khác cho rằng:
Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện, tố cáo người
phạm tội hoặc hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm
quyền giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 100, Điều 101 và

Điều 103 của BLTTHS năm 2003. Tin báo về tội phạm là việc các
cơ quan, tổ chức báo tin hoặc đăng tin có nội dung phản ánh về tội
phạm xảy ra cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định
tại khoản 2, 3 Điều 100, Điều 101 và Điều 103 của BLTTHS năm
2003 [44].

10


Trái lại, có quan điểm xác định rằng không thể phân biệt giữa tin báo
và tố giác về tội phạm. Hiện nay, có quan điểm đưa ra khái niệm tin báo, tố
giác về tội phạm không rõ đối tượng; dựa theo sự phân loại tin báo, tố giác về
tội phạm mà người báo tin, tố giác và kể cả CQĐT tiến hành xác minh nhưng
không xác định rõ đối tượng gây ra. Ví dụ, một người báo mất chiếc xe mô tô
trị giá trên 30 triệu đồng nhưng không xác định ai là người đã trộm cắp chiếc
xe đó. Cách hiểu này không đúng với bản chất của tin báo, tố giác về tội
phạm. Dù rõ hay không rõ đối tượng, đó vẫn là tin báo, tố giác về tội phạm.
Cách hiểu trên dẫn đến tình trạng các cơ quan có thẩm quyền không đưa vào
giải quyết và kiểm sát việc giải quyết đối với tin báo, tố giác về tội phạm loại
này, hệ quả của nó là việc đánh giá tình hình tội phạm chưa chính xác, làm
hạn chế kết quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Các quan điểm trên chưa nêu rõ, đầy đủ về khái niệm tin báo và tố giác
về tội phạm, chưa phân biệt rõ tố giác và tin báo, hoặc là nhấn mạnh tiêu chí
không thuộc nội hàm của khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm.
Tại Thông tư Liên ngành số 03/TT-LN ngày 15/5/1992 của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao - Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) - Bộ Quốc phòng Bộ Lâm nghiệp - Tổng cục Hải quan về: “Hướng dẫn thi hành các quy định
của luật TTHS về tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm” đã nêu
định nghĩa:
Tin báo và tố giác về tội phạm là những thông tin về tội
phạm được qui định trong BLHS do công dân, cơ quan Nhà nước,

tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (gọi tắt là người, cơ quan, tổ chức)
cung cấp cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết; do
các phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc do người phạm
tội tự thú [43].

11


Định nghĩa này đến nay có nhiều điểm chưa phù hợp. Trong khi đó,
BLTTHS năm 2003 không quy định thế nào là tin báo, tố giác về tội phạm.
Do đó, năm 2013 liên ngành tư pháp trung ương đã ban hành thông tư mới
hướng dẫn về giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Theo Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-VKSTC-BCA-BNNPTNT-BTCBQP ngày 02/8/2013 (sau đây gọi là Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT)
hướng dẫn thi hành quy định của BLTTHS năm 2003 về tiếp nhận, giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì khái niệm tin báo, tố giác
về tội phạm được hiểu như sau:
Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu
hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp
cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết.
Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu
hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ
quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp
nhận, giải quyết [51].
Như vậy, trong khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm đều có đã chỉ ra,
tin báo, tố giác đều là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm, chỉ
khác nhau ở chủ thể cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận,
giải quyết. Theo Điều 101 BLTTHS năm 2003, chúng ta thấy chủ thể của tố
giác về tội phạm chỉ có thể là cá nhân; chủ thể của tin báo về tội phạm chỉ có
thể là cơ quan, tổ chức. Cơ quan, tổ chức ở đây được hiểu là bất cứ cơ quan, tổ
chức nào. Như vậy, theo chúng tôi có thể rút ra các khái niệm tin báo và tố giác

về tội phạm như sau:
Tin báo về tội phạm là việc các cơ quan, tổ chức báo tin hoặc đăng tin
có nội dung phản ánh về tội phạm xảy ra cho cơ quan có thẩm quyền giải
quyết theo qui định của BLTTHS.

12


Tố giác về tội phạm được hiểu là việc cá nhân phát hiện, tố cáo người
phạm tội hoặc hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền giải
quyết theo qui định của BLTTHS.
Và có thể nêu khái niệm chung về tin báo, tố giác về tội phạm như sau:
Tin báo, tố giác về tội phạm là những thông tin về tội phạm được quy
định trong BLHS do công dân, cơ quan, tổ chức cung cấp bằng các hình thức
thông tin khác nhau; do các phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc do
người phạm tội tự thú để cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết
theo qui định của BLTTHS.
1.1.2. Khái niệm kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
của Viện kiểm sát nhân dân
Vận dụng tư tưởng của LêNin vào thực tiễn xây dựng tổ chức bộ máy
Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã nhận định rằng, để đảm bảo cho pháp luật
do Nhà nước ban hành được thực hiện một cách nghiêm minh và thống nhất thì
việc tổ chức một cơ quan có chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động áp dụng
pháp luật của các cơ quan nhà nước và công dân là đòi hỏi mang tính khách
quan nên đã quyết định thành lập cơ quan VKS. Quan điểm trên đã được thể chế
hóa trong các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1959, năm 1992 (sửa đổi).
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) trong đó có sự điều chỉnh chức năng
của cơ quan VKS quy định "VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và

pháp luật" (Điều 137) [22]. Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã cụ thể hóa
quy định trên với nội dung quy định rõ VKS thực hiện chủ yếu hai chức năng
đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Sự điều
chỉnh đã đưa ra tiền đề cho việc nghiên cứu làm rõ chức năng kiểm sát các
hoạt động tư pháp của VKS.

13


Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp là một vấn đề được quan
tâm nghiên cứu, tranh luận trong suốt quá trình lập Hiến và lập pháp cũng như
trong quá trình đổi mới cải cách tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp
nước ta trong thời gian qua. Việc đi sâu nghiên cứu làm rõ chức năng kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong TTHS giúp chúng ta nhận thức và phân biệt hình
thức hoạt động của VKS với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. Đồng
thời đưa đến nhận thức chung, thống nhất của toàn thể cán bộ ngành kiểm sát
nhằm thực hiện tốt và có hiệu quả các quy định của Luật tổ chức VKSND trong
thực tiễn, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
"Chức năng" theo định nghĩa chung nhất được hiểu là những phương
diện, hướng hoạt động của tổ chức, cá nhân thể hiện bản chất của hoạt động
đó. Với quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Điều 1 Luật
tổ chức VKSND năm 2014 thì chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp
được coi là vấn đề căn bản xuyên suốt toàn bộ hoạt động của hệ thống cơ
quan VKS, đồng thời thể hiện bản chất trong hoạt động của VKS nước ta.
Thuật ngữ "Kiểm sát các hoạt động tư pháp" được xuất hiện trong các
văn kiện của Đảng như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08
ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 137
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKSND năm 2014, Nghị
quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020. Tuy nhiên các nhà lập pháp nước ta chưa đưa ra một định nghĩa pháp lý

chung nhất của khái niệm "Kiểm sát các hoạt động tư pháp" dẫn đến nhiều
quan điểm nhận thức khác nhau về khái niệm này. Thực tế chúng ta phải thừa
nhận rằng, trong suốt một thời gian dài chúng ta chưa quan tâm đúng mức
đến lĩnh vực tư pháp thể hiện ở việc trước khi có Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX, thuật ngữ "quyền tư pháp" ít được sử dụng trong ngôn
ngữ chính trị, pháp luật và khoa học. Điều đó đã không tạo ra được tiền đề

14


cho việc nghiên cứu các vấn đề về tư pháp [52, tr.4,5], trong đó có vấn đề
kiểm sát các hoạt động tư pháp. Cho nên hiện nay, khái niệm kiểm sát các
hoạt động tư pháp đang còn có nhiều quan điểm khác nhau, tựu chung lại có
ba nhóm quan điểm sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng: "Kiểm sát các hoạt động tư pháp
chỉ bao gồm nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án" [41].
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng: "Kiểm sát các hoạt động tư pháp
bao gồm việc kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (cả các vụ
án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và
phần tư pháp trong thi hành án" [41].
Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng:
Hoạt động tư pháp là một dạng hoạt động thực hiện quyền
lực nhà nước và cũng phải chịu sự giám sát từ bên ngoài cũng như
từ bên trong hệ thống tư pháp, chịu sự giám sát Nhà nước và giám
sát xã hội. Theo nghĩa rộng, kiểm sát tư pháp cũng được hiểu là
giám sát tư pháp, là một bộ phận, một lĩnh vực của hoạt động giám
sát Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Còn theo nghĩa hẹp thì kiểm
sát tư pháp được hiểu là chức năng của VKS. Phạm vi kiểm sát tư
pháp là việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử

các vụ án hình sự, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia
đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy
định của pháp luật (Điều 3 Luật tổ chức VKSND 2002). Mục đích
của của kiểm sát tư pháp là bảo đảm cho pháp luật được áp dụng
thống nhất trong giải quyết các vụ án trên cơ sở tuân thủ nghiêm
chỉnh thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định [11].

15


Mỗi quan điểm trên đây đều có những lập luận đúng của mình về khái
niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, theo quan điểm chúng tôi
trước hết cần phải khẳng định kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng
Hiến định của VKS. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát
Nhà nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Tuy
nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát
các hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ
quan tư pháp trong quá trình tố tụng với mục đích là nhằm đảm bảo cho pháp
luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất. Bản chất pháp lý của chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong TTHS là kiểm tra tính có căn cứ và
tính hợp pháp trong hành vi của các chủ thể bị kiểm sát. Từ phân tích trên theo
chúng tôi có thể đưa ra định nghĩa về khái niệm kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong TTHS như sau:
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong TTHS là chức năng Hiến định
của VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp các hoạt động của các cơ quan tư
pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật
TTHS được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất [13, tr.15].
Việc kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS có nhiều công tác khác nhau,
trong các hoạt động tư pháp khác nhau điển hình như kiểm sát việc giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố; kiểm sát việc khởi tố, điều

tra; kiểm sát việc xét xử; kiểm sát thi hành án hình sự; kiểm sát việc giải
quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự, kiểm sát việc giải quyết các
vụ án hành chính... Các hoạt động này cho thấy vai trò và nhiệm vụ của VKS
trong quá trình thực hiện quyền giám sát trong hoạt động tư pháp, đảm bảo
pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và chính xác.
Từ khái niệm về kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, chúng ta có thể
xây dựng khái niệm kiểm sát việc giải quyết tố giác tin báo về tội phạm. Trong

16


khoa học luật TTHS Việt Nam hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất về
khái niệm: "Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm" bởi lẽ,
chúng ta mới chỉ dừng lại nghiên cứu ở cấp độ kiểm sát các hoạt động tư pháp
nói chung hoặc cụ thể là kiểm sát một giai đoạn nào đó trong quá trình TTHS
như khái niệm kiểm sát khởi tố, kiểm sát điều tra...Hiện nay tồn tại khá nhiều
cách hiểu khác nhau về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm,
có quan điểm cho rằng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm là
việc VKS bằng quyền năng pháp lý theo luật định thực hiện việc kiểm tra,
giám sát trực tiếp và liên tục hoạt động giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
của Cơ quan có thẩm quyền giải quyết, tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng
hoạt động kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKS chỉ
giới hạn dưới góc độ kiểm tra, giám sát có hay không việc giải quyết tin báo,
tố giác về tội phạm của Cơ quan có thẩm quyền chứ không đi sâu vào kiểm
sát nội dụng giải quyết. Theo quan điểm của tác giả, cách hiểu thứ nhất là
cách hiểu đầy đủ và toàn diện, thể hiện được rõ nhất ý nghĩa chức năng, hoạt
động của VKS trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm.
"Kiểm sát" ở tầng nghĩa phổ thông theo định nghĩa của từ điển tiếng
Việt: "Là kiểm tra việc chấp hành pháp luật của nhà nước" [37]. Theo đó, nội

dung của khái niệm "Kiểm sát" là hoạt động kiểm tra với đối tượng kiểm tra
là việc chấp hành pháp luật. Như vậy định nghĩa này vẫn chưa chỉ ra được
chủ thể của hoạt động kiểm sát. Theo pháp luật thực định, chỉ có một loại chủ
thể có chức năng kiểm sát việc giải quyết, tin báo tố giác tội phạm, đó là
VKS. Khoản 4 Điều 103 BLTTHS năm 2003 quy định: "VKS có trách nhiệm
kiểm sát việc giải quyết của CQĐT đối với tin báo, tố giác về tội phạm và
kiến nghị khởi tố". Như vậy theo BLTTHS năm 2003, kiểm sát việc giải

17


quyết tin báo, tố giác về tội phạm đối với VKS là một chức năng, một nhiệm
vụ luật định.
Tham gia vào kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nước nói
chung, hay kiểm tra việc chấp hành pháp luật của CQĐT trong việc giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm nói riêng không chỉ có VKS mà còn có các chủ
thể khác như người tham gia tố tụng, các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cá
nhân công dân và toàn thể xã hội nói chung. Quyền kiểm tra việc chấp hành
pháp luật của CQĐT trong hoạt động giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm
của các chủ thể khác xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp và pháp
luật về tổ chức bộ máy Nhà nước và quyền công dân. Điều 28 Hiến pháp
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 khẳng định: "Công dân có quyền
tham gia quản lý Nhà nước và xã hội..." [27]. Điều 8 Pháp lệnh tổ chức điều
tra hình sự quy định: Cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam
và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát
hoạt động điều tra của CQĐT [40]. Tuy nhiên đối với các chủ thể này việc
kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng không phải là chức
năng hoạt động giống như VKS mà nó chỉ là quyền, nghĩa vụ phái sinh từ
những chức năng, hoạt động của chủ thể đó. Về bản chất, các hoạt động của
những chủ thể này như: theo dõi, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng báo cáo

tình hình hoạt động, yêu cầu trả lời lý do ra quyết định, yêu cầu chấm dứt, khắc
phục vi phạm...cũng hướng tới việc phát hiện kịp thời để loại trừ việc vi phạm
pháp luật của cơ quan hoặc cá nhân trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm tuy nhiên đây chỉ là hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật. Sự khác
nhau cơ bản giữa hoạt động kiểm sát của VKS và hoạt động giám sát của các
chủ thể khác chính là hình thức thực hiện, cụ thể là phương thức và các quyền
năng mà pháp luật TTHS cho phép khi thực hiện [2].

18


×