Tải bản đầy đủ (.pdf) (236 trang)

Báo chí tiếng Việt, Phụ nữ, Giải phóng phụ nữ, Lịch sử Việt Nam, Thời kỳ cận đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 236 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẶNG THỊ VÂN CHI

VẤN ĐỀ PHỤ NỮ
TRÊN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT TRƯỚC
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẶNG THỊ VÂN CHI

VẤN ĐỀ PHỤ NỮ
TRÊN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT TRƯỚC CÁCH
MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại
Mã số
: 62 22 54 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


GS.TS Đỗ Quang Hưng

HÀ NỘI - 2007


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ---------------------------------------------------------------------- 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề------------------------------------------------------------ 3
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu-----------------------------------------------------8
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu----------------------------------------10
5. Đóng góp của luận án----------------------------------------------------------------12
6. Bố cục luận án-------------------------------------------------------------------------13
Chƣơng 1: BỐI CẢNH XUẤT HIỆN “VẤN ĐỀ PHỤ NỮ” TRONG
XÃ HỘI VIỆT NAM
1.1. Vai trò và địa vị phụ nữ trong xã hội Việt Nam truyền thống --------------------- 14
1.1.1. Những điều kiện tự nhiên và xã hội ảnh hưởng đến vai trò và địa vị phụ
nữ Việt Nam trong lịch sử --------------------------------------------------------- 14
1.1.2. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với địa vị phụ nữ Việt Nam --------------------- 16
1.2. Những điều kiện mới của “vấn đề phụ nữ” ------------------------------------------- 20
1.2.1. Tình hình xã hội ---------------------------------------------------------------------- 20
1.2.2. Ảnh hưởng của tình hình thế giới và sự xuất hiện của tư tưởng dân chủ
tư sản phương Tây ở Việt Nam --------------------------------------------------- 25
1.2.3. Ảnh hưởng của phong trào nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên thế giới ---- 27
1.3. Tình hình phụ nữ Việt Nam và sự xuất hiện "vấn đề phụ nữ" trong xã hội ---------- 34
1.3.1. Tình hình phụ nữ Việt Nam dưới chế độ thuộc địa ----------------------------- 34
1.3.2. Sự xuất hiện “vấn đề phụ nữ “ trong xã hội -------------------------------------- 37
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1------------------------------------------------------------------------------------------------ .--------40
CHÚ THÍCH CHƢƠNG 1 ----------------------------------------------------------------------------- 42


Chƣơng 2: VẤN ĐỀ PHỤ NỮ TRÊN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN NĂM 1929
2.1. Vấn đề phụ nữ đầu thế kỷ XX và sự ra đời của tờ báo phụ nữ đầu tiên
bằng tiếng Việt ở Việt Nam- báo Nữ giới chung năm 1918 ------------------------ 43
2.1.1.Tình hình báo chí và bối cảnh chung ---------------------------------------------- 43
2.1.2. Sự xuất hiện “ vấn đề phụ nữ” trên báo chí tiếng Việt đầu thế kỷ XX ------- 45
2.1.3. Báo Nữ giới chung và sự tự nhận thức của phụ nữ về những vấn đề của
mình ---------------------------------------------------------------------------------- 56
2.2. Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ
nhất đến năm 1929 ------------------------------------------------------------------------ 62
2.2.1. Bối cảnh bùng nổ các “diễn đàn phụ nữ “ trên báo chí sau Chiến tranh
Thế giới lần thứ nhất ---------------------------------------------------------------- 62
2.2.2. Vấn đề vai trò và địa vị của phụ nữ trong xã hội-------------------------------- 67
2.2.3. Vấn đề nữ quyền và bình đẳng nam nữ-------------------------------------------72
2.2.4. Bình đẳng về giáo dục và hôn nhân tự do- giải pháp cho vấn đề phụ nữ----- 77


2.3. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề phụ nữ trên báo Thanh niên và
báo Thân ái --------------------------------------------------------------------------------- 84
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 --------------------------------------------------------------------------------------89
CHÚ THÍCH CHƢƠNG 2 ----------------------------------------------------------------------------- 92

Chƣơng 3: VẤN ĐỀ PHỤ NỮ TRÊN BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT
TỪ NĂM 1929 ĐẾN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
3.1. Ảnh hƣởng của phong trào phụ nữ trên thế thế giới và bối cảnh chính trị,
kinh tế, xã hội và văn hoá trong nƣớc ------------------------------------------------- 93
3.1.1. Thuyết nữ quyền mác- xit và phong trào phụ nữ thế giới ---------------------- 93
3.1.2. Các chính sách chính trị, kinh tế, văn hố của Pháp và hệ quả của nó ------- 97
3.1.3. Đường lối vận động phụ nữ của Đảng Cộng sản Việt Nam -------------------- 100
3.2. Sự ra đời của tờ Phụ nữ tân văn và sự phát triển của dòng báo phụ nữ trƣớc

Cách mạng tháng Tám năm 1945 ----------------------------------------------------- 104
3.2.1. Báo Phụ nữ tân văn và quan điểm của giới trí thức đương thời về vấn đề
phụ nữ----------------------------------------------------------------------------------104
3.2.2. Sự phát triển của dòng báo phụ nữ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 --- 114
3.3.Vấn đề phụ nữ trên báo chí hợp pháp --------------------------------------------------- 127
3.3.1. Ảnh hưởng của khuynh hướng vận động nữ quyền tư sản --------------------- 127
3.3.2. Vấn đề giải phóng phụ nữ
133
3.3.3. Vấn đề phụ nữ với văn học và nghệ thuật---------------------------------------------143
3.3.4. Vấn đề mãi dâm --------------------------------------------------------------------- 146
3.3.5. Ảnh hưởng của đường lối vận động phụ nữ của Đảng Cộng sản trên báo
chí hợp pháp ------------------------------------------------------------------------- 151
3.3.6. Những khuynh hướng mới của vấn đề phụ nữ trong thời kì Chiến tranh
Thế giới thứ hai ---------------------------------------------------------------------- 156
3.4.Vấn đề phụ nữ trên báo chí cách mạng ------------------------------------------------- 163
3.4.1. Vấn đề tuyên truyền và vận động phụ nữ tham gia cách mạng --------------- 163
3.4.2. Vấn đề tổ chức và hướng dẫn phụ nữ đấu tranh trong thời kì vận động
dân chủ 1936-1939 ------------------------------------------------------------------ 166
3.4.3. Vấn đề vận động phụ nữ tham gia phong trào giải phóng dân tộc trong
cuộc vận động Cách mạng tháng Tám 1945 ------------------------------------- 174
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3---------------------------------------------------------------------------------------180
CHÚ THÍCH CHƢƠNG 3 ----------------------------------------------------------------------------- 183

KẾT LUẬN --------------------------------------------------------------------------------------- 188
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI
DUNG LUẬN ÁN --------------------------------------------------------------------------------- 199
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN ------------------------------------------------ 201


MỤC LỤC CÁC BẢNG THỐNG KÊ

1. Bảng số 1 : Tỷ lệ công nhân nữ

trang 35

2. Bảng số 2 : Tỷ lệ công nhân nữ ở nhà máy dệt Nam Định

trang 35

3. Bảng số 3 : Tỷ lệ tiền công giữa nam và nữ

trang 35

4. Bảng số 4 : Tỷ lệ tiền lương giáo viên nam so với lương giáo viên nữ

trang 37

5. Bảng số 5 : Tóm tắt mục đích tơn chỉ của các tờ nữ báo

trang 116


1. Tên báo viết tắt sử dụng trong luận án.
- NCMĐ :

Nơng cổ mín đàm

- ĐCTB:

Đăng cổ tùng báo


- ĐDTC:

Đơng Dương tạp chí

- TBTV:

Trung Bắc tân văn

- NP:

Nam phong

- NGC:

Nữ giới chung

- CL:

Cơng luận

- TNDB:

Thực nghiệp dân báo

- KHNB:

Khai hố Nhật báo

- HT:


Hữu thanh

- ĐPTB:

Đơng Pháp thời báo

- THNB:

Trung Hồ nhật báo

- TDB

Tân dân báo

- TL:

Trung lập

- ĐP:

Đông Pháp

- ANTC:

An Nam tạp chí

- VM:

Văn minh


- TD:

Tiếng dân

- TC:

Thần chung

- HTNB

Hà thành ngọ báo

- PNTV:

Phụ nữ tân văn

- PNTĐ:

Phụ nữ thời đàm

- TB:

Thời báo

- PH:

Phong hố

- ĐTTC:


Đơng Thanh tạp chí


- PNTT:

Phụ nữ tân tiến

- ZB:

Zân báo

- HCTV:

Hoàn cầu tân văn

- ĐBM:

Đàn bà mới

- TT:

Tân thời

- TA:

Tràng An

- VB:

Việt báo


- DH:

Dân hiệp

- VN:

Việt nữ (1937)

- PN:

Phụ nữ

- ĐB:

Đàn bà

- TBCN:

Trung Bắc chủ nhật

- HP:

Hạnh phúc

- NKTB:

Nam Kỳ tuần báo

- VNĐL


Việt Nam độc lập

- GP

Giải phóng

- DC

Dân chúng

- CQ

Cứu quốc

2.Tên tổ chức viết tắt:
- HVNCMTN:
- TVCMĐ :
- ĐCSĐD
:
- TLVĐ
:

Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
Tân Việt cách mạng Đảng
Đảng Cộng sản Đơng Dương
Tự lực văn đồn


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Giá trị lý luận
Với tư cách là một nửa xã hội, phụ nữ ở bất cứ đâu và trong bất cứ thời đại
nào cũng có những đóng góp vơ cùng to lớn vào sự phát triển của lịch sử nhân loại.
Phụ nữ không chỉ là một lực lượng lao động xã hội quan trọng, mà còn giữ chức
năng sản sinh ra con người, những người có vai trị to lớn trong việc ni dưỡng và
giáo dục trẻ em, tương lai của loài người. Chính vì thế, khi nói về phụ nữ, các nhà
thơ, nhà văn trên khắp thế giới đều dùng những ngôn từ, những ý thơ hay nhất để
viết về họ. Ngạn ngữ cổ Trung Hoa cho rằng “phụ nữ nâng nửa bầu trời”... Với
Goethe- đại thi hào người Đức, thì “đàn bà bất tử”, còn với Mácxim Gocki - đại văn
hào Nga- lại khẳng định: “Khơng có người mẹ, nhà thơ, anh hùng đều khơng có”.
Phụ nữ Việt Nam trong những điều kiện lịch sử xã hội đặc biệt đã có những
đóng góp vơ cùng to lớn trên tất cả mọi lĩnh vực sản xuất, chiến đấu và phát triển
văn hoá, nhưng trải qua thời kì phong kiến lâu dài, chịu ảnh hưởng nặng nề của tư
tưởng Nho giáo, họ chưa được đánh giá đúng, cũng như chưa được hưởng quyền lợi
tương xứng với những đóng góp của họ.
Từ cuối thế kỷ XIX, đặc biệt từ đầu thế kỷ XX, dưới ách áp bức, bóc lột của
chủ nghĩa thực dân Pháp, phụ nữ là những người chịu nhiều đau khổ, thiệt thịi nhất.
Do đó, giải phóng phụ nữ là một u cầu bức thiết có tính thời đại gắn liền với giải
phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nói phụ nữ là nói một nửa xã
hội, nếu khơng giải phóng phụ nữ thì khơng giải phóng lồi người, nếu khơng giải
phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa” [72, tr15].
Nhưng vấn đề giải phóng phụ nữ và quyền bình đẳng nam nữ ở Việt Nam
được đặt ra từ khi nào?
Như một hệ quả của q trình tiếp xúc văn hố Đơng-Tây, cùng với sự du
nhập những tư tưởng dân chủ tư sản từ bên ngồi, sự xuất hiện và có vai trị ngày
càng lớn của tầng lớp tiểu tư sản thành thị vào những năm đầu thế kỷ XX, trong xã
hội Việt Nam đã dần dần xuất hiện “vấn đề phụ nữ” bên cạnh các vấn đề xã hội

1



khác. Cũng lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, báo chí xuất hiện và cùng với sự
xuất hiện của báo chí, vấn đề phụ nữ được nêu lên với những tư tưởng mới như bình
đẳng nam nữ, nữ quyền và giải phóng phụ nữ.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, vấn đề giải phóng phụ nữ, vấn
đề vận động phụ nữ tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được Đảng
quan tâm hàng đầu. Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Cách mạng tháng Tám thành công đã chứng tỏ đường lối cách mạng đúng đắn của
Đảng, trong đó việc giải quyết vấn đề phụ nữ là một nhân tố quan trọng. Chính vì
vậy, nghiên cứu vấn đề phụ nữ khơng chỉ có ý nghĩa quan trọng góp phần nghiên
cứu lịch sử phụ nữ - một bộ phận của lịch sử dân tộc, mà còn làm sáng tỏ sự phát
triển quá trình nhận thức về vai trị và vị trí của phụ nữ trong xã hội nói chung, cũng
như sự tự nhận thức của chính bản thân phụ nữ về các vấn đề của giới mình.
Trong điều kiện xã hội Việt Nam, báo chí là lĩnh vực thể hiện rõ sự thay
đổi trong quá trình nhận thức về vấn đề phụ nữ, phản ánh quan điểm của tầng lớp
trí thức tư sản và tiểu tư sản, đồng thời cũng phản ánh cuộc sống sinh hoạt của
phụ nữ Việt Nam dưới chế độ thuộc địa. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu quá trình
nhận thức vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên báo chí trước Cách mạng
tháng Tám cịn có ý nghĩa làm phong phú thêm mảng lịch sử tư tưởng Việt Nam
thời kì cận đại.
1.2. Giá trị thực tiễn
Hiện nay, mặc dù hầu hết các quyền cơ bản của phụ nữ đã được quy định
trong hiến pháp và pháp luật, nhưng các quy định pháp luật về cấm phân biệt đối
xử với phụ nữ, hay tuyên bố về bình đẳng nam nữ tự chúng không đem lại sự biến
đổi vai trò của phụ nữ trong xã hội. Bản dự thảo Luật bình đẳng giới dù đã được
sửa chữa đến chín lần, vẫn cịn nhiều điểm chưa đi đến sự nhất trí và tiếp tục được
thảo luận, sửa chữa. Điều này cho thấy, nhận thức về quyền bình đẳng vẫn chưa
thống nhất. Theo Trần Thị Vân Anh - Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu gia đình
và giới, thì từ những cuộc thảo luận về thế nào là bình đẳng nam nữ thời kì đầu

những năm 1930 của thế kỷ XX đến nay, mặc dù đã hơn 70 năm, nhưng “rõ ràng

2


là chưa đủ để hình thành những giá trị và quy tắc văn hố mới một cách bền vững,
có tác động tích cực đến việc thực hiện các quyền cơ bản của phụ nữ” [7, tr59].
Nghị quyết của Bộ chính trị ngày 27/4/2007 về Công tác phụ nữ trong thời kì đẩy
mạnh cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước đánh giá: “nhận thức của các cấp uỷ
Đảng, chính quyền ở nhiều địa phương, đơn vị về bình đẳng giới, về vai trò, năng
lực của phụ nữ còn hạn chế. Định kiến về giới còn tồn tại dai dẳng trong nhận
thức chung của xã hội do ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo và tập tục phong kiến lạc
hậu từ lâu đời” là nguyên nhân chủ yếu của những thách thức trong quá trình thực
hiện mục tiêu bình đẳng giới của Đảng ta. Do đó, nghiên cứu vấn đề phụ nữ trên
báo chí khơng chỉ có ý nghĩa về mặt khoa học mà cịn có giá trị thực tiễn góp phần
vào việc đẩy mạnh tiến trình thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam.
Trên những ý nghĩa đó, chúng tơi chọn đề tài nghiên cứu “Vấn đề phụ nữ
trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng Tám năm 1945” làm đề tài luận án
Tiến sĩ sử học của mình .
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Những nghiên cứu chung về phụ nữ
Cùng với sự phát triển của “nền văn hố in ấn” và sự hình thành “vấn đề phụ
nữ”, trong xã hội Việt Nam trước năm 1945 xuất hiện ngày càng nhiều những ấn
phẩm viết về phụ nữ.
Trong những cơng trình nghiên cứu về phụ nữ trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945, trước hết phải kể đến những bài viết của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên báo
Người cùng khổ, trong cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, báo Thanh niên từ những
năm 1920. Những bài viết về Nỗi khổ nhục của người đàn bà bản xứ, Phụ nữ An
Nam và sự đô hộ của Pháp... của Nguyễn Ái Quốc thời kì này đã cho thấy tình cảnh
bị áp bức, bóc lột và chà đạp nhân phẩm của phụ nữ ở các nước thuộc địa, trong đó

có Việt Nam. Trong các bài viết này, Người bước đầu gắn việc vận động giải phóng
phụ nữ với nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Năm 1928, trước tình hình vấn đề phụ nữ đang ngày càng thu hút sự quan
tâm của xã hội và hình thành nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề bình đẳng nam

3


nữ, Đặng Văn Bẩy xuất bản cuốn Nam nữ bình quyền tại Sài Gịn khẳng định vấn
đề nam nữ bình quyền là “hợp với đạo trời và đạo người”. Tác giả ủng hộ việc đề
xuất nam nữ bình quyền bởi trong gia đình Việt Nam, phụ nữ vẫn phải chịu thân
phận “chồng chúa, vợ tôi”. Theo tác giả: cần phải đẩy mạnh việc giáo dục phụ nữ,
cần nhận thức lại quan niệm về chữ trinh và ủng hộ hôn nhân tự do, đạo vợ chồng
cần phải như thế nào... Năm 1929, Duy Tân thư xã ở Huế xuất bản cuốn Vấn đề
phụ nữ của Phan Bội Châu. Trong cuốn sách này, Phan Bội Châu đã lý giải
nguyên nhân lịch sử dẫn đến việc phụ nữ bị coi thường, bị coi là một loại hàng
hố. Ơng cũng phê phán phụ nữ Việt Nam hiện nay còn nhiều người thờ ơ với vận
mệnh đất nước, gắn khái niệm nữ quyền với tư tưởng dân quyền và đưa ra đề nghị
thành lập các tổ chức phụ nữ, liên kết các hoạt động của phụ nữ nhằm đẩy mạnh
phong trào vận động phụ nữ.
Từ sau năm 1930, trên báo chí cơng khai đương thời, cũng như các báo phụ
nữ chuyên biệt bắt đầu xuất hiện các bài nghiên cứu về địa vị của phụ nữ trong xã
hội Việt Nam truyền thống. Các bài nghiên cứu này chủ yếu khảo sát qua tục ngữ,
ca dao cổ và luật pháp thời phong kiến. Có thể kể tên một số tác giả như Phan Khôi,
Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Hải Trân, Đỗ Thiện, Hồng Ngọc Phách... Nhìn
chung, các tác giả đều thấy được vai trị và đóng góp của phụ nữ Việt Nam, cũng
như những thiệt thịi của họ trong xã hội.
Năm 1932, Trần Thiện Tỵ và Bùi Thế Phúc xuất bản cuốn Vấn đề phụ nữ ở
Việt Nam bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt. Sau khi khảo sát địa vị phụ nữ trong
các xã hội cổ đại phương Tây (Hy Lạp, La Mã) và phương Đông (Trung Quốc và

Ấn Độ), các tác giả giới thiệu tình hình phụ nữ ở châu Âu hiện nay và phân tích
địa vị phụ nữ Việt Nam. Đối với phụ nữ Việt Nam, theo các tác giả, mặc dù do
ảnh hưởng của văn hố Trung Hoa mà “con trai có vẻ được trọng vọng hơn”,
nhưng nếu xét về phong tục và luật pháp thì địa vị của phụ nữ Việt Nam không
đến nỗi thấp kém lắm. Hai ông khẳng định: “dân An Nam không phải là dân bạc
đãi đàn bà”. Cuốn sách cũng đề cập đến tất cả những vấn đề đang được thảo luận
sơi nổi trên báo chí như: vấn đề hôn nhân, giáo dục phụ nữ, phụ nữ chức nghiệp...

4


Quan điểm của các tác giả về vấn đề hôn nhân là làm sao đáp ứng được quyền lợi
của tất cả mọi thành viên trong gia đình. Các tác giả ủng hộ việc giáo dục phụ nữ,
phụ nữ thể thao, nhưng phản đối phụ nữ chức nghiệp vì cho rằng đàn bà ra ngồi
làm việc “kiểu gì cũng có hại”. Kết luận của hai tác giả là người nô lệ có thể trở
thành người tự do, cịn phụ nữ dù có quyền lực đến đâu thì bao giờ cũng chỉ là phụ
nữ.
Năm 1938, trong điều kiện phong trào đòi dân chủ phát triển mạnh mẽ, thực
hiện chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương về công tác vận động phụ nữ, Cựu
Kim Sơn và Văn Huệ viết hai tập sách Đời chị em và Chị em phải làm gì đã phân tích
kỹ tình cảnh của mọi tầng lớp phụ nữ Việt Nam dưới chế độ thuộc địa, đặt vấn đề “tại
sao phải giải phóng phụ nữ Đơng Dương” và vạch ra con đường giải phóng phụ nữ
Đơng Dương: Đó là cuộc vận động phụ nữ ở Đông Dương phải trở thành một bộ phận
của phong trào đấu tranh chung của dân tộc. Trong bối cảnh của cao trào vận động dân
chủ những năm 1936 -1939, các tác giả đã đưa ra những khẩu hiệu đấu tranh, hướng
dẫn thành lập các tổ chức phụ nữ và phương pháp hành động, giới thiệu phụ nữ Xô
Viết, phê phán quan điểm của Trần Thiện Tỵ và Bùi Thế Phúc trong cuốn Vấn đề phụ
nữ ở Việt Nam chỉ nhìn thấy cuộc vận động nữ quyền tư sản, bảo vệ gia đình tư sản...
Cũng trong năm 1938, Nguyễn Thị Kim Anh viết cuốn Vấn đề phụ nữ, giới thiệu quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò và địa vị của phụ nữ trong xã hội lồi người,

đấu tranh với quan niệm hơ hào nữ quyền một cách hời hợt, hướng dẫn phong trào phụ
nữ, giới thiệu về Cách mạng tháng Mười Nga và phụ nữ Xơ Viết... Có thể thấy rằng
những cơng trình trên phản ánh sự hình thành những khuynh hướng khác nhau về nhận
thức vấn đề phụ nữ trong xã hội Việt Nam .
Như vậy, cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, giới trí thức bắt
đầu nghiên cứu lịch sử phụ nữ Việt Nam, khảo sát tình trạng phụ nữ Việt Nam trong
xã hội phong kiến, xã hội thuộc địa, giới thiệu các quan điểm và học thuyết về phụ
nữ của các nhà tư tưởng nước ngoài... Đặc biệt, vấn đề vai trò và địa vị phụ nữ trong
gia đình và ngồi xã hội, phụ nữ có vai trị gì trong cơng cuộc giải phóng dân tộc và
xây dựng xã hội mới đã được nêu ra và thảo luận sơi nổi trên báo chí.

5


Từ sau năm 1954, đánh giá đúng vai trò và vị trí của phụ nữ trong lịch sử
cũng như khả năng đóng góp của phụ nữ trong cơng cuộc xây dựng xã hội mới,
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến nghiên cứu, giáo dục và vận động phụ nữ.
Nhiều tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê nin và các lãnh tụ của Đảng và
Nhà nước ta viết về vấn đề phụ nữ và giải phóng phụ nữ được xuất bản làm cơ sở
lý luận cho việc nghiên cứu phụ nữ. Đến những năm 1970, một số công trình
nghiên cứu cơng phu và tồn diện về những đóng góp của phụ nữ trong lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc đã ra đời như: Truyền thống phụ nữ Việt Nam
(1972) của Trần Quốc Vượng, Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại (1973) của Lê
Thị Nhâm Tuyết. Các cơng trình này đã đánh giá đúng vai trị và vị trí của phụ
nữ Việt Nam trong lịch sử, nêu bật những cống hiến to lớn của phụ nữ trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Sau năm 1975, đặc biệt từ cuối những năm 1980 trở lại đây, Trung tâm
nghiên cứu phụ nữ (sau thành Viện nghiên cứu Gia đình và giới) và tập san Khoa
học về phụ nữ (từ tháng 9/2006 đổi tên thành tạp chí Nghiên cứu Gia đình và
giới) đã tập hợp được nhiều nhà khoa học nghiên cứu về phụ nữ dưới nhiều góc

độ khác nhau. Nhiều bộ lịch sử phong trào phụ nữ như Lịch sử phong trào phụ
nữ Việt Nam (1981) do Nguyễn Thị Thập chủ biên và các cuốn Lịch sử phong
trào phụ nữ ở các địa phương được biên soạn đã cung cấp những hiểu biết và tư
liệu về phong trào phụ nữ trong cả nước cũng như đóng góp của họ trong sự
nghiệp cách mạng.
Những cơng trình tìm hiểu và giới thiệu về những đóng góp của phụ nữ
trong lĩnh vực văn học, báo chí và nghệ thuật cũng lần lượt được xuất bản…
Nhìn chung lại, có thể thấy hầu hết các cơng trình nghiên cứu về phụ nữ là
những cơng trình nghiên cứu về lịch sử phong trào phụ nữ, những đóng góp của
phụ nữ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, những nghiên cứu điều
tra xã hội học về thực trạng đời sống của phụ nữ hiện nay.
2.2. Những nghiên cứu về “Vấn đề phụ nữ” thời kì cận đại qua tư liệu báo chí

6


Trước hết phải kể đến bài viết của David Marr The 1920s women’s rights
debates in Vietnam (Cuộc thảo luận về nữ quyền ở Việt Nam trong những năm
1920) trên Journal of Asian Studies số 35 năm 1976. Bài viết này sau được bổ
sung và đưa vào chương 5 “Women questions” (Những vấn đề phụ nữ) trong
cuốn Vietnamese Tradition on Trial 1920-1945 (Truyền thống Việt Nam trong
thử thách 1920-1945). Đặt trong bối cảnh chung về những “thay đổi cơ bản về
chính trị và ý thức xã hội trong bộ phận dân chúng” ở Việt Nam những năm
1920 -1945 mà ông cho là “dù khơng phải có tính quyết định tất yếu thì ít nhất
cũng là tiền đề cho cuộc vận động quần chúng và chiến lược chiến tranh nhân
dân từ 1945 trở đi” [238, tr2], tác giả đã nhận thấy nổi bật lên “vấn đề phụ nữ”.
Theo ông, ngay từ những năm 1920, vấn đề phụ nữ đã nhanh chóng trở thành
“trung tâm điểm mà các cuộc thảo luận khác thường xoay quanh nó”. Cũng trong
chương này, tác giả đã chú ý đến các quan niệm truyền thống về vai trò và địa vị
của phụ nữ trong xã hội Việt Nam. Ông cho rằng “những học giả và quan lại

Việt Nam tất cả đều là đàn ông được giáo dục và rèn luyện trong một chế độ áp
bức rõ ràng đối với phụ nữ Việt Nam. Mặc dù sự áp bức này khác nhau tuỳ theo
từng giai cấp, nhưng tất cả phụ nữ đều chịu ảnh hưởng ở mức độ nào đó” [238,
tr199], và đó là lý do đầu thế kỷ XX phụ nữ bắt đầu lên tiếng phản kháng. Ông
cũng quan tâm tới sự ra đời của các tờ báo Nữ giới chung, Phụ nữ tân văn, Hội
nữ công của bà Đạm Phương ở Huế, chủ nghĩa Mác và vấn đề phụ nữ, cũng như
sự bùng nổ của các cuốn sách và cẩm nang cho phụ nữ...
Năm 1995, chương trình Đông Nam Á của Đại học Cornell ở Mỹ xuất bản
tập Essays into Vietnamese pasts (Những bài tiểu luận về Việt Nam xưa) trong
đó có bài: Printing and power: Vietnamese Debates over Women’s Place in
Society, 1918-1934 (Ấn phẩm và quyền lực: Các cuộc thảo luận ở Việt Nam xung
quanh vấn đề vị trí của người phụ nữ trong xã hội 1918-1934) của Shawn Mc
Hale. Bài báo đã phân tích ảnh hưởng của báo chí và sách trong thời gian đầu thế
kỷ XX đối với nhận thức của phụ nữ về vấn đề nam nữ bình quyền, cũng như ý

7


nghĩa của cuộc thảo luận trên hai tờ báo Nữ giới chung và Phụ nữ tân văn về vị
trí của phụ nữ trong xã hội.
Có thể nói, đây là hai cơng trình nghiên cứu hiếm hoi của học giả nước
ngồi có liên quan trực tiếp đến đề tài của luận án. Các tác giả cũng đồng thời là
những người đầu tiên đặt “vấn đề phụ nữ” trong bối cảnh những thay đổi về kinh
tế, xã hội và văn hoá ở Việt Nam thời kì cận đại. Tuy nhiên, hai cơng trình này
chủ yếu mới chỉ khảo sát hai tờ báo phụ nữ là báo Nữ giới chung và Phụ nữ tân
văn, trong khi hầu hết các báo xuất bản ở Việt Nam thời kì này đều có nhiều bài
viết về phụ nữ. Đặc biệt là sự xuất hiện của dòng báo phụ nữ, cũng như ảnh
hưởng của đường lối vận động phụ nữ của Đảng Cộng sản Việt Nam tới cuộc
thảo
luận trên báo chí thì chưa được khai thác bao nhiêu.

Năm 1997, chúng tơi đã hồn thành bản Luận văn thạc sỹ với đề tài “Vấn
đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước và sau chiến tranh Thế giới lần thứ
nhất” (Qua trường hợp các tờ Đăng cổ tùng báo, Đơng Dương tạp chí, Nam
phong, Nữ giới chung và Phụ nữ tân văn). Bản luận văn đưa ra những nhận định
cơ bản về việc hình thành “vấn đề phụ nữ” và những nhận thức ban đầu về vấn
đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt ở Việt Nam đầu thế kỷ XX. Kết quả của luận
văn đã khuyến khích chúng tôi tiếp tục đi sâu vào đề tài này với phạm vi và đối
tượng khảo sát rộng hơn, nhằm dựng lại quá trình nhận thức của phụ nữ và của
xã hội về vấn đề phụ nữ trong thời kì cận đại.
Cuộc Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần thứ nhất tổ chức tại Hà Nội
năm 1998 có nhiều bài nghiên cứu về phụ nữ, trong đó có một số bài đáng lưu ý
liên quan đến vấn đề này như: Quan điểm của một số người có tên tuổi về vị trí của
người phụ nữ trong xã hội Việt Nam những năm 1930 của Phan Thị Minh Lệ, Vấn đề
nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ XX của Đặng Thị Vân Chi... Bằng cách tiếp cận
tư liệu báo chí và ấn phẩm, các tác giả đã bước đầu giới thiệu quan niệm của giới
trí thức Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX về vai trò của phụ nữ, về nữ
quyền và giải phóng phụ nữ .

8


Như vậy, mặc dù cũng đã có một số tác giả ở cả trong và ngoài nước
nghiên cứu về phụ nữ Việt Nam, nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu
quá trình nhận thức về vấn đề phụ nữ trong một giai đoạn quan trọng của
lịch sử dân tộc từ đầu thế kỷ XX đến 1945, nhất là khảo sát qua tư liệu báo
chí - một mảng tư liệu cực kỳ quan trọng phản ánh vấn đề này. Do đó, việc
nghiên cứu “Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945” là một việc làm cần thiết và địi hỏi chúng tơi phải đi sâu
một cách nghiêm túc và độc lập.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu

Do nhu cầu của cuộc sống, cũng như xu thế phát triển chung của loài
người, đấu tranh cho quyền con người và quyền bình đẳng nam nữ là biểu hiện
của một xã hội văn minh và tiến bộ. Ở Việt Nam, những cơng trình nghiên cứu
về đóng góp của phụ nữ trong cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước có
khá nhiều, nhưng những nghiên cứu về quá trình nhận thức của xã hội, cũng như
của phụ nữ về các vấn đề phụ nữ trong thời kì đầu thế kỷ XX cho tới trước Cách
mạng tháng Tám năm 1945 thì hầu như chưa có ai nghiên cứu. Hơn thế, theo
chúng tơi, đây lại chính là điểm quan trọng để tạo nên những thay đổi căn bản
trong hành động của phụ nữ vì quyền lợi của bản thân họ. Như mọi người đều
thống nhất rằng: phụ nữ muốn được giải phóng, trước hết họ phải tự giải phóng
mình, cuộc đấu tranh địi nữ quyền và giải phóng phụ nữ phải xuất phát từ nhận
thức của bản thân phụ nữ. Vì vậy, mục đích nghiên cứu của chúng tơi là tìm hiểu
“vấn đề phụ nữ” ở Việt Nam đã hình thành như thế nào trong một xã hội thuộc
địa nửa phong kiến, quá trình nhận thức của phụ nữ về các vấn đề của mình qua
báo chí tiếng Việt xuất bản ở Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Cũng qua tư liệu báo chí, chúng tơi muốn góp phần tìm hiểu những thay đổi
trong đời sống của phụ nữ, phong trào phụ nữ và những đóng góp của phụ nữ đối
với cuộc đấu tranh chung của toàn dân tộc.
Phụ nữ là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Không những
thế, trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX cho đến Cách

9


mạng tháng Tám năm 1945, phụ nữ ngày càng trở thành một lực lượng quan
trọng trên tất cả mọi lĩnh vực: văn hố, kinh tế, xã hội và chính trị. Vì vậy,
những vấn đề liên quan đến phụ nữ được đăng tải trên cả báo chí tiếng Pháp lẫn
tiếng Việt là hết sức phong phú. Do đối tượng nghiên cứu rộng lớn, bao quát
nhiều khía cạnh của cuộc sống, được phản ánh trên một khối lượng khổng lồ các
báo xuất bản bằng tiếng Việt trong khoảng thời gian gần một nửa thế kỷ, trong

khuôn khổ của một luận án tiến sĩ, chúng tơi khơng có tham vọng giải quyết tất
cả các vấn đề đặt ra liên quan tới phụ nữ. Với mục tiêu làm sáng tỏ quá trình
nhận thức của phụ nữ, cũng như của xã hội về những vấn đề như vai trò, địa vị
của phụ nữ trong xã hội, vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ..., chúng tơi giới
hạn nghiên cứu và khảo sát của mình qua các bài báo có tính chính luận đề cập
tới quan niệm, nhận thức về vấn đề phụ nữ và một số tin tức có liên quan tới đời
sống phụ nữ... Đối với các sáng tác văn học, chúng tôi chỉ khai thác một số tác
phẩm được coi là những sáng tác tiêu biểu theo khuynh hướng vận động giải
phóng phụ nữ
của nhóm Tự lực văn đồn, cịn các tác phẩm khác, chúng tơi chưa có điều kiện
quan tâm.
Do báo chí tiếng Việt về cơ bản mới hình thành vào đầu thế kỷ XX, nên
về mặt thời gian, chúng tôi chỉ giới hạn mốc cuối là năm 1945 với nhận thức từ
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, lịch sử Việt Nam đã bước sang một trang
mới. Đó là sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mà bản Hiến pháp
đầu tiên năm 1946 công nhận quyền bình đẳng nam nữ là kết quả của một quá
trình nhận thức và đấu tranh của phụ nữ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cũng từ
năm 1945, về mặt pháp lý, phụ nữ Việt Nam đã đặt được những viên gạch đầu
tiên cho việc xây dựng một xã hội mới thật sự dân chủ và bình đẳng, mặc dù để
mục tiêu dân chủ này trở thành hiện thực còn là một q trình đấu tranh lâu dài,
địi hỏi sự nỗ lực khơng chỉ của phụ nữ mà của tồn xã hội.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

10


Trong quá trình thực hiện đề tài, các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa
Mác- Lê nin, Hồ Chí Minh và các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề phụ
nữ, cũng như những nghiên cứu về lịch sử phong trào nữ quyền thế giới là cơ sở lý
luận, là phương pháp luận để chúng tôi xem xét vấn đề. Các sách nghiên cứu, các

cơng trình chun khảo của các tác giả trong và ngoài nước là những gợi ý giúp
chúng tơi có thể tham khảo, tổng kết lại vấn đề phụ nữ trong lịch sử, để từ đó có thể
nhận thức rõ hơn thực chất, cũng như quá trình chuyển biến nhận thức về vấn đề
phụ nữ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Bên cạnh những cơng trình nghiên
cứu về phụ nữ, cịn có các cơng trình nghiên cứu về báo chí, văn học, văn hoá, tác
giả, tác phẩm của những năm trước Cách mạng tháng Tám. Mặc dù không trực tiếp
nghiên cứu về phụ nữ, nhưng những cơng trình này cũng cung cấp tư liệu tham
khảo quan trọng giúp chúng tôi hiểu thêm nhiều mặt về tình hình sinh hoạt báo chí,
đời sống của phụ nữ, tình hình văn hố xã hội trong thời kì này. Ví dụ như các hồi
ký của các nhà văn, nhà báo tiêu biểu như Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng,
Chúng tôi làm báo của Nguyễn Văn Trấn, Hồi ký Tơ Hồi, Hồi ký Trần Huy Liệu,
Hồi ký Thanh Nghị, hồi ký của bà Trần Thị Như Mân..., hoặc hồi ký của các nữ văn
sĩ Anh Thơ, Tùng Long..., hồi ký của các nữ chiến sĩ cách mạng như Nguyễn Thị
Lựu, Bảo
Lương Nguyễn Trung Nguyệt, Tôn Thị Quế, Đường Thị Ân, Trương Thị Mỹ...
Với đề tài “Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945”, nguồn tư liệu chính của chúng tơi là tồn bộ báo chí tiếng Việt từ
khi xuất hiện đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tuy nhiên, do tình hình
lưu trữ tư liệu có nhiều hạn chế, nhiều tờ báo khơng cịn được lưu trữ tại các thư
viện, nhiều tờ báo chỉ còn lưu trữ được một số năm, do đó chúng tơi chỉ có thể khai
thác được những tờ báo hiện còn lưu trữ trong các thư viện của Việt Nam. Một điều
rất may mắn là một số tờ báo phụ nữ quan trọng vẫn còn lưu trữ được khá đầy đủ
như tờ Nữ giới chung, Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm, Phụ nữ tân tiến, Đàn bà
mới...; và ở bất cứ giai đoạn nào cũng có một số tờ báo quan trọng còn được lưu

11


giữ. Mặc dù khơng khảo sát được tồn bộ các tờ báo với đầy đủ các số báo, nhưng
với 102 tờ báo gồm hàng ngàn trang báo về phụ nữ trên đủ các loại tuần báo, nhật

báo, báo tin tức thời sự thơng thường, báo chun biệt... trong đó có hơn mười tờ
báo phụ nữ, chúng tơi hy vọng có thể dựng lại một cách khách quan quá trình nhận
thức của xã hội cũng như của phụ nữ về các vấn đề của phụ nữ.
Với tư cách là một nguồn sử liệu, báo chí có mặt mạnh là phản ánh khá toàn
diện các sự kiện lịch sử vào đúng thời điểm sự kiện xảy ra, đồng thời thể hiện được
tính phong phú, đa dạng và phức tạp trong cách đánh giá các sự kiện của xã hội
đương thời đối với các sự kiện. Khơng những thế báo chí cịn cung cấp thông tin
nhiều mặt của cuộc sống. Đặc biệt, để phản ánh nhận thức, quan điểm của cá nhân
hay một tầng lớp xã hội về các vấn đề thuộc lĩnh vực văn hố tư tưởng thì báo chí là
một nguồn tư liệu trực tiếp đáng tin cậy.
Với đối tượng nghiên cứu là “Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945”, chúng tôi phải vận dụng phương
pháp liên ngành: Nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu giới và nghiên cứu báo chí.
Đó là khi khai thác tư liệu báo chí, chúng tơi ln đặt nó trong mối quan hệ lịch
đại và đồng đại, kết hợp với phương pháp tiếp cận xã hội học để nghiên cứu
giới phụ nữ trong lịch sử cận đại Việt Nam, từ đó rút ra được những nhận xét
khách quan sát với thực tế lịch sử.
Để làm rõ nội dung của vấn đề phụ nữ được nêu trên báo chí, chúng tơi cũng
sử dụng phương pháp phân tích, mơ tả và so sánh các quan điểm phản ánh nội dung
của vấn đề phụ nữ dưới các dạng thông tin khác nhau trong cùng một tờ báo như xã
luận, tin tức, các mục như tạp trở, văn uyển, chuyện cười... hàm chứa quan điểm của
tác giả hay của chính bản thân tờ báo. Việc phân tích, so sánh nội dung được phản
ánh trong cùng một chủ đề trên các tờ báo khác nhau hoặc ở các giai đoạn khác
nhau cũng giúp chúng tôi thấy rõ khuynh hướng tư tưởng của một tờ báo, một dịng
báo và sự phát triển trong q trình nhận thức vấn đề phụ nữ gắn với các giai đoạn

12


lịch sử quan trọng, cũng như tác động của các sự kiện chính trị đối với nhận thức về

vấn đề phụ nữ.
Trong trường hợp các báo còn được lưu giữ đầy đủ trong một khoảng thời
gian nhất định, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để nhận diện khuynh
hướng tư tưởng của tờ báo qua nội dung của các bài báo như trường hợp các tờ
Đăng cổ tùng báo, Đơng Dương tạp chí, Nam phong...
Vì báo chí phản ánh thông tin nhiều chiều và thể hiện nhận thức chủ quan của
tác giả, nên bên cạnh việc khai thác nội dung thơng tin phản ánh trên mặt báo, chúng
tơi cịn chú ý đến những thông tin đằng sau mặt báo là hồn cảnh của tác giả, điều kiện
chính trị, xã hội mà tờ báo chịu ảnh hưởng.
Tuy nhiên, tài liệu báo chí được khai thác tồn tại trong thời gian gần nửa thế kỷ
với những giai đoạn phát triển khác nhau trên tất cả các mặt văn hố, chính trị và xã
hội, vì vậy tùy từng giai đoạn và với những tờ báo cụ thể, chúng tôi sử dụng linh hoạt
các phương pháp trên nhằm khai thác một cách hiệu quả nhất nguồn tư liệu, từ đó có
cái nhìn tồn diện, khách quan và cụ thể, phản ánh trung thực thực chất, cũng như ý
nghĩa của vấn đề phụ nữ trên báo chí trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
5. Đóng góp của luận án
Là cơng trình đầu tiên nghiên cứu “Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt trước
Cách mạng tháng Tám năm 1945”, luận án có những đóng góp cụ thể sau:
Làm rõ q trình hình thành cũng như thực chất của vấn đề phụ nữ trong xã hội
Việt Nam dưới chế độ thuộc địa của Pháp những năm trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945; Vạch ra được q trình nhận thức của phụ nữ nói riêng và của xã hội nói
chung về vai trị và địa vị của phụ nữ trong gia đình và ngồi xã hội. Đó là q trình
nhận thức
từ thấp tới cao những khái niệm dân chủ tư sản về vấn đề phụ nữ như nữ quyền và giải
phóng phụ nữ.
- Cũng lần đầu tiên, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng giữa khuynh
hướng nữ quyền mác-xit với khuynh hướng nữ quyền tư sản được luận án khảo sát và
trình bày cụ thể, từ đó làm rõ vai trị của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc vận

13



động phụ nữ tham gia vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và vì sự tiến bộ xã hội
của nhân dân Việt Nam.
- Qua vấn đề phụ nữ trên báo chí, luận án nêu lên những thay đổi trong xã hội
Việt Nam từ gia đình tới lối sống, sinh hoạt văn hoá của tầng lớp tiểu tư sản thành thị
nói chung và của phụ nữ đơ thị nói riêng dưới tác động của chính sách cai trị của Pháp
và ảnh hưởng của sự tiếp xúc văn hố Đơng- Tây.
- Luận án cũng phản ánh những đóng góp của phụ nữ trí thức vào sự phát triển
của phong trào phụ nữ cũng như đóng góp của họ và tồn thể phụ nữ trong phong trào
giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.
- Cũng từ việc nghiên cứu vấn đề phụ nữ trên báo chí, luận án khẳng định vai
trị của báo chí trong việc định hướng nhận thức, tổ chức và hướng dẫn phụ nữ
trong công cuộc vận động giải phóng phụ nữ và giải phóng dân tộc .
- Tìm hiểu “vấn đề phụ nữ trên báo chí” cũng là góp thêm một nguồn sử liệu
phong phú, sống động phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn
nói chung và nghiên cứu phụ nữ nói riêng.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án chia làm ba chương chính gồm
175 trang.
Chương 1: Bối cảnh hình thành “Vấn đề phụ nữ” trong xã hội Việt Nam
Chương 2: Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt từ đầu thế kỷ XX đến
năm 1929
Chương 3: Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt từ năm 1929 đến năm
1945.

Phần Phụ lục: Gồm 199 trang giới thiệu 62 tờ báo từ đầu thế kỷ XX đến

năm 1945, các mục phụ nữ trên các tờ báo, những thông tin cơ bản về các tờ báo
phụ nữ, thống kê các bài xã luận trên các tờ nữ báo, một số bài báo về phụ nữ...

Chƣơng 1

BỐI CẢNH XUẤT HIỆN “VẤN ĐỀ PHỤ NỮ”
TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM

14


1.1. VAI TRÒ VÀ ĐỊA VỊ CỦA PHỤ NỮ TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM TRUYỀN
THỐNG

1.1.1. Những điều kiện tự nhiên và xã hội ảnh hƣởng đến vai trò và địa vị
của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử
Việt Nam là một nước nông nghiệp nằm trên bán đảo Đông Dương ở Đông
Nam châu Á lấy nghề trồng lúa nước làm ngành kinh tế chủ đạo. Các truyền thuyết
dân gian về “bà mẹ lúa” cùng với tín ngưỡng dân gian thờ nữ thần còn khá phổ biến
cho tới tận ngày nay đã phản ánh công lao của phụ nữ trong việc phát minh ra nghề
nơng, cũng như vai trị quan trọng của họ trong sản xuất nông nghiệp. Đặc điểm của
nền kinh tế nơng nghiệp tiểu nơng trong đó các gia đình nhỏ là đơn vị sản xuất chủ
yếu, địi hỏi sự hợp tác lao động chặt chẽ giữa phụ nữ và nam giới và cho phép phụ
nữ tham gia vào mọi khâu trong quá trình sản xuất từ cày, bừa, gieo mạ, cấy, gặt,
làm cỏ, bón phân, tát nước... Hình ảnh: “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu, chồng cày,
vợ cấy, con trâu đi bừa” là hình ảnh tiêu biểu ở nông thôn Việt Nam.
Một đặc điểm khác trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam là do địa
bàn cư trú của người Việt nằm ở lưu vực những con sơng lớn, có độ dốc cao, lũ lụt
thường xun xảy ra, nên từ hàng ngàn năm trước, để bảo vệ cuộc sống và mùa
màng, người Việt không thể không đắp đê, phòng lụt. Hơn nữa, bản thân nền kinh
tế nông nghiệp trồng lúa nước phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống tưới tiêu. Vì vậy,
đắp đê, làm thuỷ lợi là cơng việc thường xun, địi hỏi cơng sức của nhiều người,
đặc biệt là nam giới.

Ngồi ra, với vị trí là chiếc cầu nối giữa lục địa châu Á rộng lớn với vùng
Đông Nam Á hải đảo, Việt Nam thường xuyên bị đe dọa bởi nạn ngoại xâm. Có thể
nói, hiếm có một quốc gia nào trên thế giới trong lịch sử tồn tại và phát triển của
mình lại phải tiến hành chống ngoại xâm nhiều lần và trong nhiều thế kỷ như Việt
Nam. Do đó, nam giới ln ln bị huy động vào nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc.

15


Như vậy, nếu như làm thuỷ lợi và chống ngoại xâm là hai nhân tố cơ bản tạo
nên sự cố kết cộng đồng và là điều kiện thúc đẩy nhà nước hình thành sớm ở Việt
Nam, thì đó cũng chính là nguyên nhân làm cho phụ nữ Việt Nam phải gánh vác
thêm nhiều trách nhiệm đối với gia đình và làng xóm. Đó là khi nam giới thường
xuyên phải vắng nhà vì bị huy động đi làm thuỷ lợi và đi đánh giặc bảo vệ tổ quốc
thì phụ nữ phải đảm đang, gánh vác mọi việc từ lao động sản xuất ngồi đồng ruộng
cho tới ni dạy con cái, chăm sóc cha mẹ già... Ca dao xưa có nhiều câu phản ánh
thực tế này:
“Chàng ơi phải lính thì đi
Cửa nhà sau trước đã thì có em”
“Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già con thơ”.
Hay:

“Anh đi theo chúa Tây Sơn,
Em về cày cuốc mà thương mẹ già”…

Đến khi đất nước thanh bình, người đàn ơng có nhiều cơ hội được đi học, đi
thi, hướng tới cuộc sống cao sang, an nhàn, trong khi người phụ nữ phải hai sương
một nắng, gánh thêm cơng việc của chồng ngồi cánh đồng và chắt chiu cả đời nuôi

chồng con ăn học:
“ Anh thì quần áo rong chơi
Để em đi cấy bồ hơi ướt đầm”
“Tiền gạo thì của mẹ cha
Cái nghiên cái bút thật là của em”
“Sang năm lúa tốt nhiều tiền
Em đem đóng thuế đóng sưu cho chồng”…
Các thương nhân và giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam vào thế kỷ 16, 17, 18
đều có chung nhận xét là phụ nữ Việt Nam rất đảm đang. Họ tham gia vào mọi hoạt
động sản xuất cũng như hoạt động buôn bán trong xã hội. Linh mục Jean Koffler
đến Đàng Trong từ năm 1740 đến 1755 nhận xét: “Họ (phụ nữ) rất khéo léo trong

16


việc dệt vải bông và lụa. Họ cũng nhuộm những thứ này thành nhiều màu khác
nhau. Họ cũng rất khéo trong việc làm bánh và mứt kẹo… Phụ nữ trồng thuốc lá,
trồng bông, phụ nữ buôn bán ở chợ hay cửa hiệu của người ngoại quốc” [228, tr17].
Trong ca dao cũng có nhiều câu phản ánh sự đảm đang, tần tảo của phụ nữ Việt
Nam. Nhiều phụ nữ còn được tôn làm tổ nghề của nhiều nghề thủ công truyền thống
như: bà Chúa Chuốt, bà Chúa Sành trong nghề làm gốm, bà Chúa Dệt trong nghề
dệt lụa, dệt lĩnh…
Bằng cách tham gia vào nền sản xuất xã hội, phụ nữ Việt Nam trở thành
những người có đóng góp lớn cho kinh tế gia đình. Người nước ngồi đến Việt Nam
vào những thế kỷ 17-18 đều có nhận xét chung là phụ nữ Việt Nam “thường khéo
hơn nam giới trong việc làm tăng thêm tài sản gia đình,... phụ nữ khơng để mất một
nguồn lợi kinh tế nào, bất kể nguồn lợi từ đâu đến” [226, tr17].
Như vậy, do những điều kiện tự nhiên, đặc điểm về kinh tế và xã hội, phụ nữ
Việt Nam là những người có vai trị to lớn trong nền sản xuất gia đình và xã hội, và
điều này mặc nhiên đã góp phần tạo nên địa vị của họ trong xã hội. Bằng nhiều cách

tiếp cận khác nhau, gần đây khuynh hướng chung của các nhà khoa học đều cho
rằng người phụ nữ có địa vị cao trong gia đình truyền thống Việt Nam. Điều này
không những được phản ánh qua tư liệu lịch sử mà cịn được khắc hoạ trong các
truyền thuyết, ngơn ngữ và các phong tục, tập qn, tín ngưỡng, văn hố dân gian...
vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay, bất chấp ảnh hưởng khá sâu của Nho giáo vào
đời sống chính trị trong xã hội Việt Nam truyền thống. Đó cũng là lý do dẫn đến
một số ý kiến phản đối phong trào địi nữ quyền và giải phóng phụ nữ thời kì đầu
thế kỷ XX vì cho rằng ngay trong thời kì phong kiến, phụ nữ Việt Nam đã có nữ
quyền.
1.1.2. Ảnh hƣởng của Nho giáo đối với địa vị của phụ nữ Việt Nam trong lịch
sử
Nho giáo là một học thuyết chính trị xuất hiện ở Trung Quốc từ thời
Xuân Thu (722-481TCN). Tuy mỗi thời kì, mỗi triều đại, Nho giáo chia thành
nhiều khuynh hướng khác nhau, nhưng về cơ bản, Nho giáo lấy thuyết “Tam

17


cương” làm trụ cột trong việc trị nước. “Tam cương” là ba mối quan hệ cơ bản
trong xã hội: vua - tôi, cha - con và vợ - chồng. Quan hệ vua - tôi đề cao chữ trung,
nhấn mạnh vào nghĩa vụ của bề tôi đối với vua; quan hệ cha - con đề cao chữ hiếunhấn mạnh vào nghĩa vụ của con đối với cha; quan hệ vợ - chồng đặt người phụ nữ
vào địa vị phụ thuộc người đàn ơng là chủ và là chồng trong gia đình.
Theo Nho giáo, phụ nữ phải giữ đạo “tam tòng” và trau dồi “tứ đức”. “Tam
tòng” với nội dung: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử (khi chưa
lấy chồng, ở nhà thì phải theo cha, khi lấy chồng thì phải theo chồng và khi chồng
chết phải theo con trai) rõ ràng đã tước đoạt quyền tự do của người phụ nữ.
Quan niệm về “tứ đức” xuất hiện lần đầu tiên trong sách Nữ giới của bà Ban
Chiêu1- một phụ nữ trí thức am hiểu kinh điển Nho gia thời Đơng Hán (25-220). Đó
là bốn tiêu chuẩn quy định về đạo đức và hành vi của phụ nữ, trở thành chuẩn mực
về cái đẹp của người phụ nữ. Việc trau dồi “tứ đức” yêu cầu phụ nữ phải thực hiện

trong sinh hoạt thường ngày ở gia đình. Vì vậy, thoạt nhìn “tứ đức” có vẻ như là
những phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ cần phải khẳng định và phát huy, nhưng “tứ
đức” trong sách của bà Ban Chiêu lại giới hạn trong bốn cái “không cần: tài năng,
lanh lợi, xinh đẹp, khéo léo hơn người” và đặt “tứ đức” trong điều kiện “lấy chồng
làm giềng mối của vợ” và “tam tịng” làm tiền đề thì rõ ràng “tứ đức” cũng chính là
“cơng cụ nơ lệ hố tinh thần phụ nữ”, là “gơng xiềng” để trói buộc phụ nữ.
Một điểm khác trong quyển Nữ giới là quan niệm “phụ nữ lấy yếu ớt làm
đẹp”. Bà Ban Chiêu cho rằng “Âm dương khác tính, nam nữ dị hành, dương lấy
cương làm đức, âm lấy nhu làm dụng, nam lấy dương làm quý, nữ lấy nhược làm
đẹp”. “Mềm yếu là tiền đề của nhu thuận”[175, tr137-138]. Như vậy “phụ nữ lấy
yếu ớt làm đẹp” là yêu cầu tính cách phụ nữ phải nhu nhược, khoan dung, phục
tùng, đối với chồng phải tơn kính, vâng lời, nhường nhịn và khuất phục...
Trong hàng nghìn năm sau, Nữ giới của bà Ban Chiêu đã trở thành sách giáo
khoa giúp cho phụ nữ Trung Quốc thuộc tầng lớp trên tự mình tu dưỡng, tự mình
ràng buộc, tự mình “nhược hố” mình. Cùng với Nho giáo, những nguyên tắc quy
định về đạo đức của phụ nữ đó cũng được truyền bá vào Việt Nam.

18


×