Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ NHẬN XÉT VỀ TỔ CHỨC KIỂM TOÁN TẠI CÔNG TY KIỂM TOÁN VÀ TƯ VẤN A &C

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.65 KB, 19 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp 1
MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ NHẬN XÉT VỀ TỔ CHỨC KIỂM
TOÁN TẠI CÔNG TY KIỂM TOÁN VÀ TƯ VẤN A &C
3.1 Một số nhận xét về chất lượng kiểm toán tại công ty A&C
Qua hơn 17 năm hoạt động, Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn A&C ngày
càng tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, lòng tin của các khách hàng, đã và đang giành
được những thành tích đáng khích lệ. Điều đó thể hiện chủ yếu qua những điểm cơ
bản sau:
Thứ nhất, về tổ chức bộ máy quản lý
A&C có cơ cấu bộ máy của công ty khoa học và chuyên nghiệp. Công ty đã tổ
chức một hệ thống các phòng ban chức năng, bố trí nhân viên theo hướng chuyên
môn hoá khá rõ nét, đi sâu vào từng loại hình khách hàng. Điều này đã góp phần phát
huy được năng lực, kinh nghiệm của các KTV. Mô hình quản lý tập trung từ trên
xuống dưới thuận tiện cho việc phân công công việc trong từng cuộc kiểm toán cụ
thể làm tăng hiệu quả công việc cũng như chất lượng của các dịch vụ công ty cung
cấp.
Ban giám đốc: chịu trách nhiệm điều hành, chỉ đạo mọi hoạt động của chi nhánh
đồng thời chịu trách nhiệm trước khách hàng về Báo cáo kiểm toán do công ty phát
hành
Thực hiện công việc kiểm toán của chi nhánh công ty A&C tại Hà Nội do 4
phòng nghiệp vụ là phòng nghiệp vụ 1, 2, 3, 4 được tổ chức chặt chẽ thuận lợi cho
công tác kiểm toán tại các khách hàng khác nhau, phòng nghiệp vụ 3 – phòng kiểm
toán XDCB; phòng nghiệp vụ 1, 2, 4 – phòng kiểm toán BCTC. Hoạt động kiểm toán
BCTC là hoạt động chủ yếu của công ty nên số lượng kiểm toán viên trong một
phòng cũng như số phòng trong công ty chiếm phần lớn trong công ty. Có thể nói với
việc phân chia như vậy, từng phòng ban được chuyên môn hoá nên nâng cao được
chất lượng hoạt động kiểm toán mà công ty thực hiện.
Công việc tư vấn - kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán do bộ phận tư vấn
– kiểm soát chất lượng thực hiện. Phòng Kiểm soát chất lượng này được hoạt động
năm 2008, khi chi nhánh chuyển đến trụ sở mới địa chỉ mới 40 Giảng Võ. Đây là
phòng ban chuyên trách về vấn đề KSCL HĐKT.Sau mỗi cuộc kiểm toán khi báo cáo


Kiểm toán được nhóm trưởng nhóm gửi lên. Phòng KSCL sẽ có nhiệm vụ soát xét
Chuyên đề tốt nghiệp 2
kiểm tra lại Báo cáo Kiểm toán nếu không có vấn đề thì chuyển lên cho Ban giám
đốc xét duyệt. Bên cạnh đó phòng KSCL còn có chức năng tư vấn cho khách hàng về
các lĩnh vực tài chính,kế toán, kiểm toán, có thể thấy KSCL HĐKT được bảo đảm
tính chuyên môn hoá cao. Việc kiểm soát được thực hiện tập trung. Tính chuyên
nghiệp và độc lập được đảm bảo đối với tất cả các cuộc kiểm toán. Đồng thời, với
việc ban hành những văn bản, quy định của Ban giám đốc về KSCL HĐKT là những
cơ sở, quy định và tiêu chí để đánh giá chất lượng hoạt động kiểm toán của công ty
A&C.
Thứ hai, về đội ngũ nhân viên
Đội ngũ nhân viên của công ty là những người vừa có năng lực chuyên môn
nghiệp vụ vững vàng, vừa có tác phong làm việc nhiệt tình, lịch thiệp, vừa có tư cách
đạo đức tốt. Điều này có được là do quy trình tuyển dụng và đào tạo của công ty rất
tốt. Công ty đã thiết kế và thực hiện một quy trình tuyển dụng chặt chẽ để có thể lựa
chọn được các ứng cử viên sáng giá. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội
ngũ nhân viên cũng được công ty rất quan tâm. Hàng năm, công ty đều xây dựng kế
hoạch đào tạo cụ thể như đào tạo cho các nhân viên mới, đào tạo thi chứng chỉ KTV,
hay đào tạo để cập nhật thông tin…Các chương trình đào tạo của công ty được cập
nhật thường xuyên, đảm bảo tính khoa học và hệ thống. Nhân tố con người có vai trò
quan trọng trong KSCLKT. Con người mà cụ thể là các KTV không những là khách
thể, chịu tác động của KSCLKT mà còn là chủ thể thực hiện hoạt động KSCLKT. Vì
thế xây dựng một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp là biện pháp hữu hiệu nhất để
KSCLKT, cùng một lúc tác động vào khách thể và chủ thể của hoạt động KSCLKT.
Thứ ba về chương trình kiểm toán
Các chương trình kiểm toán cho từng phần hành đã được công ty thiết kế sẵn bởi
các chuyên gia có chuyên môn nghiệp vụ cao và nhiều năm kinh nghiệm. Các chương
trình kiểm toán này vừa phù hợp với quy định, chuẩn mực hành nghề kiểm toán vừa
là sự đúc rút kinh nghiệm thực tế. Đây được coi là các chương trình kiểm toán chuẩn
hướng dẫn cho các KTV và các trợ lý kiểm toán thực hiện tốt kiểm toán phần hành

được giao. Đồng thời, điều này tạo sự thống nhất trong hoạt động tác nghiệp của các
KTV toàn công ty và là cơ sở thực hiện soát xét cuộc kiểm toán.
Thứ tư, về quy trình kiểm toán
Công ty đã xây dựng được quy trình kiểm toán chung khoa học, hợp lý…Khi
thực hiện các cuộc kiểm toán cụ thể, Kiểm toán viên sẽ xây dựng các chương trình
Chuyên đề tốt nghiệp 3
kiểm toán phù hợp với đặc điểm của các khách hàng bằng cách kết hợp các khoản
mục hoặc là xây dựng riêng cho các khoản mục này các chương trình cụ thể. Nhờ
vậy, các cuộc kiểm toán sẽ được thực hiện một cách cụ thể, chi tiết…, phù hợp với
các đối tượng và đạt hiệu quả cao nhất.
Thứ năm về quy trình kiểm soát chất lượng
Công ty đã thực hiện tốt hoạt động tổ chức và kiểm soát đối với các hồ sơ kiểm
toán. Những quy định về trình bày, tham chiếu, sắp xếp các giấy tờ làm việc khoa học
và được thực hiện nghiêm túc đảm bảo tính đầy đủ, logic của một bộ hồ sơ kiểm
toán. Hoạt động soát xét giấy tờ làm việc trong một bộ hồ sơ kiểm toán được thực
hiện chặt chẽ. Trong một cuộc kiểm toán cụ thể, hoạt động soát xét được thực hiện ở
ba cấp quản lý: trưởng nhóm kiểm toán, KTV điều hành và BGĐ. Hoạt động kiểm
tra, soát xét lại các hồ sơ kiểm toán cũng được thực hiện. Hồ sơ kiểm toán là sản
phẩm của cuộc kiểm toán, là kết quả quá trình làm việc của các KTV. Vì thế, khi
kiểm soát được sản phẩm cuối cùng tất yếu kiểm soát được quá trình tạo ra sản phẩm
đó. Nghĩa là, kiểm soát tốt hồ sơ kiểm toán tức là kiểm soát tốt cuộc kiểm toán hay
chất lượng hồ sơ kiểm toán phản ánh chất lượng kiểm toán
Công ty đã thiết lập được một quy trình kiểm soát chất lượng khá chặt chẽ. Việc
thành lập bộ phận KSCL trong công ty cùng với những quy định chính sách ban hành
bằng văn bản mà trong một cuộc kiểm toán, hoạt động kiểm soát được thực hiện ở cả
ba giai đoạn. Trong giai đoạn trước kiểm toán, kiểm soát thể hiện ở sự am hiểu sâu
sắc tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng, sự thận trọng trong quyết định
kiểm toán; hay sự cẩn trọng khi đánh giá tính độc lập của các KTV; hoặc sự chuẩn
mực, khoa học trong việc xây dựng kế hoạch kiểm toán và thiết kế các chương trình
kiểm toán. Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, kiểm soát thể hiện ở sự hướng dẫn,

giám sát và soát xét công việc của các thành viên trong đoàn kiểm toán, đảm bảo rằng
cuộc kiểm toán thực hiện đúng theo các quy định, chuẩn mực hành nghề kiểm toán.
Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, hoạt động kiểm soát thể hiện ở chất lượng của
BCKT phát hành đáp ứng được lòng tin của những người sử dụng.
Chuyên đề tốt nghiệp 4
3.2 Những giải pháp hoàn thiện kiểm soát chất lượng kiểm toán tại
công ty TNHH kiểm toán và tư vấn A&C
3.2.1 Tính tất yếu khách quan hoàn thiện kiểm soát chất lượng kiểm toán
Khi xem xét, nghiên cứu bất cứ sự vật, hiện tượng nào, chúng ta phải sử dụng
phép biện chứng để phân tích, đánh giá bản chất của sự vật, hiện tượng đó. Có như
vậy mới đảm bảo tính chính xác bởi phép biện chứng duy vật là phương pháp luận
khoa học. Phép biện chứng duy vật bao gồm nội dung phong phú nhưng trong đó
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển vẫn được xem là những nguyên lý
có ý nghĩa khái quát nhất, như Ph.Angnghen đã định nghĩa: “phép biện chứng…là
môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên,
của xã hội loài người và của tư duy”. Trong đó, nguyên lý về sự phát triển cho rằng
sự vật, hiện tượng luôn không ngừng vận động và phát triển. Phát triển là quá trình
“tự thân” của mọi sự vật, hiện tượng nên đó là một quá trình khách quan, độc lập với
ý muốn chủ quan của con người. KSCLKT là một sự vật do đó muốn tồn tại phải
không ngừng vận động và phát triển. Mặt khác, sự phát triển của KSCLKT là một
quá trình khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Bên
cạnh đó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thừa nhận thế giới như một chỉnh thể
thống nhất, các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thể giới đó vừa tách biệt
nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. KSCLKT là một
bộ phận mật thiết của nền kinh tế nên nó có mối liên hệ qua lại và chịu sự tác động
của nền kinh tế. Nghĩa là, KSCLKT phải vận động và phát triển theo khuynh hướng
phát triển chung của nền kinh tế. Ngày nay, khi nền kinh tế đang phát triển như vũ
bão thì tất yếu KSCLKT cũng phải vận động và phát triển theo xu hướng chung ấy.
Mặt khác, quy luật lượng- chất trong phép biện chứng cho rằng những thay đổi về
lượng đến một mức độ nhất định sẽ dẫn đến những thay đổi về chất và khi chất mới

ra đời lại tạo ra lượng mới và lại tạo điều kiện để lượng mới phát triển. Đây là
phương thức chung của sự vận động và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong
thế giới khách quan. KSCLKT khi phát triển cũng phải tuân theo quy luật lượng- chất
nêu trên. Khi KSCLKT phát triển đến một trình độ nhất định (thay đổi về lượng) sẽ
phải nâng cao chất lượng (thay đổi về chất). Ngược lại, với chất lượng được nâng cao
KSCLKT sẽ phát triển ở một tầm mới với một trình độ mới.
Chuyên đề tốt nghiệp 5
Ph.Angghen viết: “Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem
xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua
lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong
của chúng”; còn V.I.Lênin cho rằng: “bản thân sự vật phải được xem xét trong những
quan hệ của nó và trong sự phát triển của nó”. Như vậy, để có tri thức đúng về sự vật
chúng ta phải có cái nhìn toàn diện. Vì thế, khi xem xét KSCL HĐKT với quan điểm
toàn diện chúng ta không thể không nhận thấy việc hoàn thiện KSCL HĐKT là điều
tất yếu khách quan, là hợp với xu hướng phát triển của bản thân nó.
Tại Việt Nam, lĩnh vực kiểm toán thực sự mới ra đời vào năm 1991, và sau 17
năm hoạt động, lĩnh vực kiểm toán đã có những tiến bộ rõ rệt thể hiện ở số lượng
đông đảo các công ty kiểm toán hoạt động trên cả nước, trong mọi lĩnh vực kinh tế.
Nếu năm 1991 chỉ có 2 công ty với vỏn vẹn 15 người thì đến 30/06/2008 đã có hơn
140 công ty kiểm toán lớn, nhỏ thuộc nhiều quy mô và loại hình hoạt động trên lãnh
thổ Việt Nam với hàng trăm văn phòng và chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trên cả
nước, trên 4.600 nhân viên làm việc trong đó có 1500 người đã được Bộ Tài chính
cấp chứng chỉ KTV và trên 170 KTV đạt trình độ quốc tế. Trong năm 2008 vừa qua,
ngành kiểm toán Việt Nam đã cung cấp dịch vụ cho hơn 20.000 khách hàng với tổng
doanh thu 1500 tỷ đồng. Sự cạnh tranh giữa các công ty kiểm toán trở nên gay gắt
hơn bao giờ hết. Mặt khác, việc Việt Nam gia nhập WTO không chỉ tạo cơ hội cho
ngành nghề kiểm toán mà cũng tạo những thách thức lớn. Nó sẽ tạo ra sự cạnh tranh
gay gắt từ các công ty kiểm toán nước ngoài với đội ngũ nhân viên có chất lượng và
trình độ chuyên môn cao với bằng cấp được công nhận trên toàn thế giới. Vì thế, để
tồn tại và phát triển tất yếu các công ty phải nâng cao chất lượng kiểm toán, nghĩa là

phải hoàn thiện KSCLKT.
Năm 2006, Việt Nam đã tổ chức thành công hội nghị thượng đỉnh APEC và
được công nhận là thành viên chính thức của WTO. Những sự kiện này đã chứng tỏ
sự hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới.
Điều này đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước những cơ hội và thách thức mới. Các
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển, vươn lên tầm thế giới buộc phải chấp nhận
theo luật chơi quốc tế. Một trong những luật chơi đó là phải đảm bảo tình hình tài
chính lành mạnh được thừa nhận bởi các công ty kiểm toán có uy tín. Mặc khác, các
Chuyên đề tốt nghiệp 6
nhà đầu tư nước ngoài khi góp vốn vào các doanh nghiệp cũng yêu cầu BCTC phải
được kiểm toán để đảm bảo tính chính xác và trung thực của các thông tin trình bày.
Có thể khẳng định nhu cầu kiểm toán hiện nay là vô cùng lớn, loại hình khách hàng
cũng đa dạng hơn. Đối tượng khách hàng của các công ty kiểm toán từ chỗ chỉ gồm
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã mở rộng ra là doanh nghiệp nhà nước, các
ngân hàng, tổ chức tài chính, bảo hiểm, công ty niêm yết, nhiều đơn vị hành chính sự
nghiệp, các dự án quốc tế và các loại hình doanh nghiệp khác. Đặc biệt, trong năm
2006, với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán thì đối tượng có nhu cầu
sử dụng BCKT tăng lên rất mạnh. Khi đó, bất cứ một sai sót nào trên BCKT sẽ ảnh
hưởng đến rất nhiều người, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Vì thế,
KSCLKT là yêu cầu cấp bách của thị trường và đông đảo công chúng.
Mặc khác, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế theo hướng hội nhập đã
làm hoạt động tài chính kế toán phát sinh nhiều hiện tượng mới, làm nảy sinh không
ít các vụ kiện có liên quan đến trách nhiệm pháp lý của KTV và các công ty kiểm
toán. Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có các vụ kiện lớn về kiểm toán. Tuy nhiên,
cũng đã xuất hiện những sai phạm của công ty kiểm toán trong việc kiểm toán BCTC
của các tổ chưc phát hành, niêm yết chứng khoán như các công ty kiểm toán phối hợp
chưa tốt với các cơ quan quản lý. Trong một số trường hợp, công ty kiểm toán chưa
thực hiện đúng nghĩa vụ thông báo của mình với Uỷ ban chứng khoán nhà nước.
KTV có những thông tin sai phạm về gian lận thương mại, về hoàn thuế giá trị gia
tăng nhưng thường không thông báo với nhà nước. Hơn nữa, có không ít KTV đã

không ngoại trừ những khoản mục có nghi vấn trong BCTC. Như vậy, hoàn thiện
KSCLKT là đòi hỏi của chính các công ty kiểm toán nếu không muốn gặp phải các
vụ kiện tụng lớn như vụ kiện của các cổ đông tập đoàn Worldcom, tập đoàn Enron
đối với công ty kiểm toán Arthur về tính độc lập và trung thực của KTV.
Công ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn (A&C) là một trong những công ty kiểm
toán độc lập được thành lập đầu tiên của Việt Nam. Trong những ngày đầu, CLKT
còn nhiều hạn chế. Hiện nay, qua gần 17 năm hoạt động, CLKT của công ty đã được
nâng lên một tầm cao mới, đáp ứng được lòng tin của công chúng. Những thành quả
mà công ty đạt được hôm nay chính là nhờ những cố gắng của BGĐ công ty trong
việc KSCLKT. Quy trình kiểm soát chặt chẽ, các quy định và thủ tục kiểm soát được
Chuyên đề tốt nghiệp 7
thiết kế và vận hành nghiêm túc là bà đỡ cho những bước phát triển vượt bậc của
công ty. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, hoạt động KSCLKT trong công ty vẫn
còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục. Vì thế, để tồn tại và phát triển hơn nữa,
công ty không thể không hoàn thiện KSCLKT để phát huy những mặt tích cực và
giảm thiểu những mặt còn hạn chế. Mặc khác, công ty xác định mục tiêu trong kế
hoạch từ nay đến năm 2010, sau khi chuyển đổi thành công ty TNHH nhiều thành
viên, là: “A&C vẫn giữ vững vị thế là một trong những công ty kiểm toán hàng đầu
của Việt Nam phát triển bền vững về chất lượng hoạt động; đội ngũ kiểm toán viên
chuyên nghiệp, có nghiệp vụ vững vàng, đạo đức nghề nghiệp tốt, kinh nghiệm quốc
gia sâu sắc, kiến thức quốc tế phong phú, thực hiện thắng lợi mục tiêu hội nhập, sánh
vai với bạn bè trong khu vực và quốc tế”. Như vậy, để đạt được mục tiêu này không
có con đường nào khác là hoàn thiện KSCLKT.
3.2.2 Các giải pháp hoàn thiện kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán tại
công ty A&C
Một là, về công tác tuyển dụng.
Kiểm toán viên được coi là tài sản vô giá của một công ty. Một đội ngũ KTV có
trình độ cao, đồng đều sẽ nâng cao chất lượng kiểm toán do công ty thực hiện, đồng
nghĩa với việc tăng lợi nhuận và uy tín cho công ty. Chính vì vậy công tác đào tạo
nâng cao trình độ đội ngũ KTV cần phải được chú trọng và thực hiện hết sức chu

đáo. Công ty A&C đã có đội ngũ KTV có trình độ nghiệp vụ tương đối tốt nhưng
thực sự chưa đồng đều. Hiện nay, công ty có công tác đào tạo nhân viên mới trong
vòng một tháng tại trụ sở của Công ty ở thành phố Hồ Chí Minh. Một tháng không
phải là một thời gian đủ để nhân viên mới của công ty có thể nắm bắt được hết những
công việc cần thực hiện trong một cuộc kiểm toán, những điều cần lưu ý đối với từng
loại hình kinh doanh đặc thù cũng như những quy định trong quá trình thực hiện
kiểm toán của công ty và hướng xử lý những sai sót mà kiểm toán viên có thể gây ra
Phương hướng hoàn thiện: Bên cạnh việc duy trì thường xuyên công tác đào tạo tại
công ty vào tháng 8,9,10 hàng năm theo cấp độ và theo nội dung vấn đề. Công ty cần
nâng cao yếu tố đầu vào một cách khách quan, chất lượng yếu tố đầu vào sẽ giúp quá
trình đào tạo có chất lượng cao. A&C cần xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn cụ
thể và phù hợp cho quá trình tuyển dụng. Ví dụ như trình độ tiếng Anh là một yếu tố

×