Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Phương hướng hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa tại Xí nghiệp bảo dưỡng của công ty ô tô xe máy Hà Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.84 KB, 22 trang )

Phương hướng hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá
thành dịch vụ sửa chữa tại Xí nghiệp bảo dưỡng của công ty ô tô xe máy Hà Bắc
I) Một số nhận xét về công tác kế toán nói chung và công tác kế toán tập hợp chi phí
sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa nói riêng tại Xí nghiệp bảo dưỡng của công ty
ô tô xe máy hà bắc:
1)Nhận xét chung:
Trải qua quá trình phát triển từ năm 1960 đến nay, công ty ô tô xe máy Hà Bắc đã
không ngừng trưởng thành và lớn mạnh. Từ một xí nghiệp công tư hợp doanh nay phát
triển thành công ty ô tô xe máy Hà Bắc có quy mô sản xuất rộng lớn. Có được thành quả
ngày hôm nay là cả một sự phấn đấu không ngừng của cán bộ công nhân viên trong toàn
công ty. Song song với quá trình lớn mạnh về cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ quản lý kinh
tế của công ty cũng từng bước được nâng cao và hoàn thiện. Vào thời điểm thành lập, bộ
máy quản lý của công ty được tổ chức sơ sài, nhỏ bé thiếu hiệu quả, kể cả phương tiện sản
xuất, máy móc thiết bị, và con người chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý, vận
hành. Bằng những biện pháp tích cực, công ty đã xác định được hướng đi của mình, từng
bước hoà nhập với nhịp độ phát triển của thời đại. Hiện nay, công ty đã khẳng định được
chỗ đứng và vai trò quan trọng của mình trong ngành dịch vụ vân tải. Trong cơ chế thị
trường hiện nay thì sự linh hoạt, nhạy bén trong công tác quản lý kinh tế và quản lý sản
xuất đã thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế giúp công ty tồn tại và phát triển. Điều đó thể
hiện qua các năm doanh thu của năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ tổn thất ngày càng giảm,
công ty luôn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước, ngoài ra còn thừa để
phân phối thu nhập cho cán bộ công nhân viên, do đó, mức thu nhập bình quân người/
tháng tăng lên rõ rệt. Sự lớn mạnh của công ty còn được thể hiện qua các cơ sở vật chất kỹ
thuật không ngừng được nâng cao, trình độ quản lý không ngừng được hoàn thiện và mức
độ an toàn trong công tác vận tải ngày càng được nâng cao.
Để đạt được những thành tích đáng kể trên, trong điều kiện còn nhiều khó khăn là nhờ
ở sự tiếp bước cha anh, yêu ngành, yêu nghề, hết lòng vì sự nghiệp phát triển của công ty.
Những thành tựu đã đạt được của công tác kế toán :
 Thứ nhất, về bộ máy kế toán:
Trong quá trình thực tập, với lượng thời gian tương đối ngắn nhưng em cũng thấy
được phần nào về tổng quan của công ty cũng như công tác kế toán tại công ty. Trong đó,


điều đáng nói nhất là mặc dù cơ cấu tổ chức của công ty gồm nhiều đơn vị thành viên, mỗi
đơn vị làm nhiệm vụ sản xuất kinh doanh khác nhau nhưng bộ máy kế toán của công ty tổ
chức tương đối gọn nhẹ, tương đối hoàn chỉnh, phù hợp với yêu cầu thực tế của
công ty, phù hợp với yêu cầu công việc và trình độ khả năng chuyên môn của từng người,
do đó, bộ máy kế toán của công ty đã trở thành bộ máy giúp việc đắc lực cho lãnh đạo
công ty trong các quyết định, đường lối, chính sách tổ chức sản xuất kinh doanh,... Có thể
nói, bộ máy kế toán của công ty đã đóng góp một phần quan trọng trong sự trưởng thành
và phát triển của công ty.
Chính vì nhận thức rõ tầm quan trọng của bộ máy kế toán, công ty rất chú trọng đến
khâu đào tạo, nâng cao trình độ của cán bộ kế toán, cụ thể như tổ chức cho cán bộ kế toán
tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, lớp kế toán trưởng. Vì thế đội ngũ nhân
viên kế toán của công ty là sự kết hợp giữa những nhân viên trẻ nhiệt tình, có trình độ với
những nhân viên có kinh nghiệm, nghiệp vụ vững vàng do đó luôn đáp ứng được những
yêu cầu của công ty. Việc phân công trách nhiệm giữa các nhân viên trong phòng kế toán
và giữa phòng kế toán với các bộ phận khác có liên quan khá rõ ràng, tạo điều kiện cho
việc thực hiện chuyên môn hoá lao động.
Nhìn chung, công tác hạch toán kế toán ở công ty được vận dụng phù hợp với tình hình
thực tế của công ty, công tác kế toán đã phản ánh tương đối đầy đủ, chính xác, kịp thời các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Tuy còn nhiều mặt khó khăn, song các cán bộ kế toán luôn
hoàn thành nhiệm vụ được giao, với cách bố trí công việc như hiện tại, công tác kế toán đã
đi vào nền nếp và tương đối ổn định. Các nhân viên kế toán thường xuyên nắm vững và
vận dụng các văn bản, điều lệ mới về hạch toán kế toán của Bộ tài chính. Kế toán luôn
phản ánh chính xác, kịp thời và đầy đủ mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào hệ thống sổ kế
toán theo đúng chế độ kế toán hiện hành. Tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều được
ghi sổ trên cơ sở các chứng từ hợp lệ.
Dưới sự điều hành sát sao, khoa học của kế toán trưởng, các nhân viên kế toán trong
phòng đã thực hiện tốt công việc của mình. Không khí làm việc trong phòng kế toán luôn
luôn đoàn kết, vui vẻ, chính điều này đã làm giảm bớt tính căng thẳng của công việc kế
toán do luôn phải làm việc nhiều với con số, không những vẫn đảm bảo tính nghiêm túc mà
còn tăng hiệu quả làm việc cho nhân viên kế toán.

 Thứ hai, về hình thức sổ kế toán:
Hiện nay, công ty đang áp dụng hình thức sổ Nhật ký chứng từ, các Nhật ký chứng từ
này không những được tập hợp cho toàn công ty mà để tiện cho việc theo dõi, công ty còn
mở riêng cho từng đơn vị trực thuộc. Có thể nói, đây là hệ thống sổ tương đối phức tạp,
song kế toán công ty đã bố trí toàn bộ sổ sách đơn giản, thuận tiện cho việc ghi chép. Sự
luân chuyển sổ sách, số liệu và công tác kiểm tra đối chiếu diễn ra thường xuyên và kịp
thời. Với đặc thù là một doanh nghiệp vừa sản xuất vừa kinh doanh dịch vụ vận tải, cùng
với những yêu cầu về trình độ quản lý và kế toán của công ty thì việc sử dụng hình thức sổ
Nhật ký chứng từ là hoàn toàn hợp lý. Hình thức này đảm bảo cho hệ thống kế toán của
công ty thực hiện tốt những chữa năng, nhiệm vụ trong việc quản lý hoạt động sản xuất
kinh doanh, góp phần vào sự phát triển của công ty.
Đối với việc vào sổ chi tiết, kế toán đã ghi chép sổ sách rõ ràng và chính xác để đảm
bảo tính trung thực và chính xác tình hình tài chính của công ty.
 Thứ ba, về hệ thống chứng từ và phương pháp kế toán:
Công ty sử dụng đầy đủ thủ tục chứng từ làm cơ sở cho hạch toán kế toán. Các biểu
mẫu chứng từ gần đúng với quy định 1141-TC/QĐ/CĐKT của Bộ tài chính ban hành ngày
1/1/1995, đối với từng loại chứng từ kế toán đều lập đầy đủ số liệu theo quy định đảm bảo
yêu cầu của công tác quản lý. Các chứng từ được kiểm tra luân chuyển một cách thường
xuyên, phù hợp với nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Việc tổ chức luân chuyển chứng từ giữa
phòng kế toán với các bộ phận có liên quan được phối hợp chặt chẽ với nhau góp phần tạo
điều kiện thuận lợi cho việc hạch toán được nhanh chóng, chính xác.
Phương pháp kế toán được sử dụng hiện nay ở công ty là phương pháp kê khai thường
xuyên. Phương pháp này tương đối phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty.
Nó cho phép phản ánh một cách kịp thời, thường xuyên tình hình sản xuất kinh doanh của
công ty để cung cấp cho nhà quản lý.
Bên cạnh những mặt đạt được kể trên, công tác kế toán nói chung của công ty vẫn còn
một số tồn tại chủ yếu sau:
Trước hết, trình độ của nhân viên kế toán chưa đồng đều, do đó chưa tạo được sự phối
hợp đồng bộ nhịp nhàng giữa các nhân viên trong bộ máy kế toán để nâng cao hiệu quả
công tác kế toán. Công ty chưa tổ chức triển khai thực hiện thông tư 89 của Bộ tài chính.

Công ty chưa khai thác, tận dụng các nguồn vốn đầu tư TSCĐ. Hiện nay, nguồn vốn
đầu tư TSCĐ chủ yếu dựa vào một phần nguồn vốn góp của cán bộ công nhân viên, còn lại
chủ yếu là nguồn vốn tự có của công ty. Vì thế mà TSCĐ của công ty được đầu tư liên tục
đổi mới nhưng chỉ ở những phương tiện vận tải, còn máy móc thiết bị vẫn chưa được trang
bị hiện đại để đáp ứng nhu cầu sản xuất công nghiệp ngày một tốt hơn.
Mặt khác, mặc dù đã có phần mềm kế toán (phần mềm Enter 2002) nhưng công ty vẫn
chưa áp dụng phần mềm kế toán vào việc hạch toán kế toán để giảm bớt công tác ghi sổ kế
toán và giảm bớt sức lao động, mà phần mềm kế toán trên mới chỉ được sử dụng như một
công cụ để các kế toán viên dần dần từng bước tiếp cận với công việc kế toán trên máy vi
tính.
Trên đây là những mặt tồn tại chủ yếu trong công tác hạch toán kế toán tại công ty ô tô
xe máy Hà Bắc .Việc tìm ra phương hướng giải quyết những tồn tại này một cách có hiệu
quả sẽ giúp công tác hạch toán kế toán tại công ty được hoàn thiện, đồng thời nâng cao hơn
nữa hiệu quả của công tác kế toán tại công ty.
2)Nhận xét cụ thể về công tác tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ
sửa chữa tại công ty ô tô xe máy Hà Bắc:
2.1)Những điểm đã đạt được trong công tác kế toán tập hợp chi phí sửa chữa và
tính giá thành dịch vụ sửa chữa tại công ty ô tô xe máy Hà Bắc
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, việc hạch toán kinh tế và kinh doanh
theo cơ chế quản lý mới thì vấn đề hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
đóng một vai trò quan trọng trong hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Công
tác kế toán nói chung và công tác hạch toán chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa
chữa nói riêng ở công ty ô tô xe máy Hà Bắc đã phần nào đáp ứng được những yêu cầu
quản lý của công ty. Bộ phận kế toán này đã cung cấp kịp thời những thông tin cần thiết về
chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, đáp ứng được yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm.
Tại công ty, kế toán đã hạch toán chính xác chi phí thông qua việc tổ chức ghi chép,
tính toán thường xuyên, liên tục những chi phí chi ra cho quá trình sửa chữa ô tô. Trên cơ
sở đó cung cấp những thông tin quan trọng về tình hình sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn
ở xí nghiệp bảo dưỡng - một trong số những đơn vị trực thuộc- cho lãnh đạo công ty để đề

ra các biện pháp kịp thời để quản lý chi phí sửa chữa và hạ giá thành dịch vụ sửa chữa.
Ngoài ra, kế toán còn cung cấp thông tin về chi phí sửa chữa có tiết kiệm hay không, tiết
kiệm được bao nhiêu, giá thành có hạ không, mức hạ là bao nhiêu, nguyên nhân của việc
tiết kiệm (lãng phí) chi phí sửa chữa và hạ (tăng) giá thành sửa chữa. Trên cơ sở đó để khai
thác khả năng tiềm tàng của xí nghiệp bảo dưỡng, không ngừng nâng cao năng suất và hạ
giá thành sửa chữa.
Đi sâu vào xem xét cụ thể, công tác hạch toán chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch
vụ sửa chữa ở công ty đã đạt được một số ưu điểm sau:
 Về hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Nhìn chung kế toán chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp ở công ty được thực hiện đầy đủ, công ty đã mở sổ ghi chép đúng chế độ,
hợp lý, ghi chép theo yêu cầu công tác kế toán. Công ty sử dụng phương pháp FIFO để tính
giá thực tế vật liệu xuất kho. Phương pháp này rất phù hợp với điều kiện của công ty đó là
nguyên vật liệu của công ty bị tác động cơ lý học của điều kiện thời tiết rất dễ bị hư hỏng
trong quá trình lưu cất tại kho, giá thành vật liệu biến động thường xuyên. Sử dụng
phương pháp này sẽ đơn giản hoá công việc hạch toán nguyên vật liệu hàng ngày, đồng
thời phản ánh được kịp thời lượng nguyên vật liệu nhập xuất.
 Về hạch toán chi phí nhân công trực tiếp: Việc hạch toán chi phí tiền lương hiện
nay ở công ty được thực hiện theo đúng chế độ quy định. Với hai hình thức trả lương như
hiện nay ở xí nghiệp bảo dưỡng là rất hợp lý, có tác động khuyến khích người lao động vì
nó đảm bảo quyền lợi của người lao động, đồng thời gắn chặt trách nhiệm của họ với kết
quả sản xuất kinh doanh.
 Về công tác đánh giá sản phẩm dở dang: Sản phẩm dở dang được đánh giá chủ yếu
dựa trên giá thực tế nguyên vật liệu chính xuất kho nên phương pháp tính đơn giản.
 Về công tác tính giá thành: Công ty sử dụng phương pháp tính giá trực tiếp phù hợp
với quy trình công nghệ của công ty.
Có thể nói, tại công ty ô tô xe máy Hà Bắc, công tác tập hợp chi phí sửa chữa và tính
giá thành dịch vụ sửa chữa được vận dụng thích hợp với chế độ kế toán hiện hành, phù hợp
với điều kiện thực tế của công ty do đó phần nào tạo điều kiện thuận lợi cho công ty hoạt
động có hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm kể trên thì công tác kế toán tập hợp
chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở công ty còn bộc lộ không ít những

hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện.
2.2) Những hạn chế cần khắc phục trong công tác tập hợp chi phí sửa chữa và
tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở công ty :
a)Về đối tượng tập hợp chi phí sản xuất:
Tại công ty hiện nay, việc tập hợp chi phí sản xuất theo từng đơn vị trực thuộc rồi tính
ra chi phí sản xuất cho từng đơn vị một, sau đó sẽ tổng hợp lại và tính ra chi phí sản xuất
kinh doanh chung cho toàn công ty theo hai khối: vận tải và công nghiệp. Tuy nhiên, tại
mỗi đơn vị trực thuộc lại bao gồm nhiều phân xưởng, tổ đội, do đó việc tập hợp chung chi
phí cho cả đơn vị trực thuộc mặc dù giảm bớt được công việc ghi chép, tính toán của kế
toán, nhưng nó không cung cấp số liệu một cách chi tiết, cụ thể từng địa điểm phát sinh chi
phí. Tức là chi phí sản xuất phát sinh trong tháng không theo dõi cho một đối tượng cụ thể
nào, vì thế gây khó khăn cho công tác quản lý chi phí sản xuất của công ty, đôi lúc gây
lãng phí làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
b) Về nội dung và cách tập hợp chi phí sửa chữa:
Tại công ty, việc tập hợp chi phí sửa chữa theo đối tượng hạch toán đã xác định được
thực hiện theo phương pháp tập hợp trực tiếp. Hầu hết các chi phí phát sinh trong quá trình
sản xuất được tập hợp một cách hợp lý, phù hợp với đặc trưng của ngành cơ khí sửa chữa.
Song đối với khoản chi phí về BHYT của công nhân sản xuất không được trính theo từng
tháng trên cơ sở tiền lương của công nhân sản xuất mà trích định kỳ hai lần trong một năm
và trích tháng nào sẽ tính vào chi phí của tháng đó. Việc trích BHYT như hiện nay sẽ làm
cho giá thành sản phẩm bất ổn định giữa các tháng trong năm.
Các chi phí về tiếp khách, hội họp ở các phân xưởng của đơn vị không được hạch toán
vào chi phí sản xuất chung mà hạch toán thẳng vào chi phí quản lý doanh nghiệp. Cách
hạch toán này chưa phù hợp với nguyên tắc hạch toán chung. Khi phát sinh các khoản chi
phí cho tiếp khách, hội họp ở phân xưởng kế toán ghi:
Nợ TK642
Có TK111
Một điểm nữa cần đề cập đến trong phần tập hợp chi phí sửa chữa tại công ty là xí
nghiệp bảo dưỡng có một bộ phận sản xuất kinh doanh phụ là phân xưởng cơ khí chính
xác, phân xưởng sản xuất và gia công cơ khí, trung tâm dịch vụ. Tuy nhiên, tại xí nghiệp

bảo dưỡng, chi phí cho bộ phận này vẫn được tập hợp chung với bộ phận sản xuất chính.
Việc hạch toán như vậy sẽ làm cho giá thành của dịch vụ sửa chữa tăng lên.
c) Về công tác tính giá thành dịch vụ sửa chữa:
Phương pháp tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở công ty hiện nay là phương pháp trực
tiếp. Đây là phương pháp đơn giản, thuận tiện cho kế toán tổng hợp. Tuy nhiên, cách tính
này chỉ cho biết giá thành tổng cộng của tất cả các dịch vụ sửa chữa của công ty trong
tháng mà chưa cho biết rõ về giá thành sửa chữa của từng hợp đồng cụ thể.
Bên cạnh đó, để hạch toán giá thành dịch vụ sửa chữa, công ty sử dụng tài khoản
631(6313.1) đây là tài khoản sử dụng cho phương pháp kiểm kê định kỳ. Nhưng thực tế tại
công ty lại áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên. Như vậy, việc vận dụng tài khoản
kế toán để hạch toán giá thành sản phẩm của công ty là chưa đúng với quy định của chế độ
kế toán.
II) Một số ý kiến đóng góp cho công tác tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ
sửa chữa của công ty:
Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một
trong những yêu cầu cấp bách đặt ra cho tất cả các doanh nghiệp nói chung cũng như đối
với công ty ô tô xe máy Hà Bắc nói riêng. Trước những hạn chế nêu trên, việc tìm ra
phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác hạch toán chi phí sửa
chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa ở công ty là rất cần thiết.
Qua thời gian tìm hiểu thực tế công tác kế toán tập hợp chi phí sửa chữa và tính giá
thành dịch vụ sửa chữa của xí nghiệp bảo dưỡng ở công ty em thấy rằng nhìn chung công
tác này được tiến hành có nền nếp, đảm bảo thực hiện tuân thủ chế độ kế toán hiện hành,
phù hợp đặc điểm tổ chức kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, trong quá trình hạch toán
còn tồn tại một số vấn đề cần nghiên cứu hoàn thiện thêm. Với tư cách là sinh viên thực
tập tại công ty, tuy trình độ về thực tế còn hạn chế song với những am hiểu bước đầu của
mình, em xin mạnh dạn nêu ra một vài kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện công tác hạch
toán chi phí sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa tại xí nghiệp bảo dưỡng của công
ty.
1) Hoàn thiện việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sửa chữa:
Hiện nay, đối tượng tập hợp chi phí sửa chữa của công ty là toàn bộ khối lượng công

việc hoàn thành của xí nghiệp bảo dưỡng. Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sửa
chữa như hiện nay không cho biết chi tiết cụ thể số chi phí phát sinh tong tháng của một
đối tượng cụ thể nào. ở công ty hoạt động sửa chữa chỉ tiến hành khi có khách hàng đến ký
hợp đồng sửa chữa. Sau khi phòng kế hoạch thảo ra giá để ký kết hợp đồng với khách hàng
thì các phòng ban chức năng của xí nghiệp bảo dưỡng triển khai lập kế hoạch sản xuất giao
xuống cho phân xưởng thực hiện với tínhh chất quy trình công nghệ sản xuất của xí nghiệp
bảo dưỡng là sản xuất sản phẩm có kết cấu phức tạp, các bước công nghệ tiến hành vừa
tuần tự, vừa song song, đồng thời các bộ phận khác tiến hành gia công song song. Với loại
hình sửa chữa đơn chiếc, sản phẩm chủ yếu của xí nghiệp bảo dưỡng là trung, đại tu các
loại xe ô tô. Mỗi loại xe có mức độ hư hỏng khác nhau, kỳ sản xuất ngắn hay dài là tùy
thuộc vào mức độ hư hỏng của từng chiếc. Mức độ hao phí về nguyên vật liệu, hao phí về
tiền lương đều khác nhau cho mỗi loại sản phẩm.
Từ đặc điểm quy trình công nghệ như vây, theo em công ty nên xác định đối tượng
tập hợp chi phí sửa chữa cho từng phân xưởng của Xí nghiệp bảo dưỡng và chi tiết cho
từng đơn đặt hàng. Việc làm này có thể thực hiện được vì chi phí nguyên vật liệu chính là
chi phí chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng giá thành thì trên các phiếu xuất kho nên ghi rõ
xuất cho phân xưởng nào theo hợp đồng sửa chữa nào. Như vậy, khi chi phí phát sinh, kế
toán chỉ việc tập hợp trực tiếp cho từng phân xưởng và chi tiết cho từng đơn đặt hàng.
Theo cách xác định đối tượng tập hợp chi phí đó, công ty nên mở thêm các tài khoản cấp
bốn tương ứng với từng phân xưởng của từng đơn vị trực thuộc và chi tiết cho từng đơn
đặt hàng. Như vậy sẽ tạo điều kiện cho việc giám sát, kiểm tra chi phí phát sinh dễ dàng
hơn và có thể tính ra được giá thành thực tế dịch vụ sửa chữa ở từng phân xưởng theo từng
đơn đặt hàng.
2)Hoàn thiện việc hạch toán một số khoản chi phí:
a) Cần hạch toán lại khoản trích BHYT:
Việc hạch toán khoản trích BHYT như hiện nay là chưa phù hợp với chế dộ quy định.
Việc hạch toán như vậy sẽ làm cho giá thành sản phẩm nói chung và giá thành dịch vụ sửa
chữa nói riêng bất ổn định giữa các tháng. Mỗi năm sẽ có hai tháng giá thành bị tăng vọt
do có khoản trích BHYT được tính vào chi phí sản xuất trong tháng. Nếu có thể, công ty
nên nghiên cứu xem xét để trích BHYT theo từng tháng nhằm ổn định giá thành giữa các

tháng. Còn nếu vẫn trích như hiện nay thì công ty nên hạch toán bổ sung thêm các khoản
chi phí theo dự toán (Chi phí trả trước và chi phí phải trả), có như vậy mới đảm bảo cho
công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất nói chung, hạch toán chi phí
sửa chữa và tính giá thành dịch vụ sửa chữa nói riêng ở công ty được chính xác hơn.
Bên cạnh đó, khoản trích BHXH, BHYT của công ty chưa được hợp lý vì trên thực tế
hai khoản này, công ty trích theo tiền lương thực tế của công nhân làm như vậy là không
đúng với quy định vì hai khoản này phải được trích theo tiền lương cơ bản của công nhân.
Đây cũng là vấn đề công ty cần quan tâm để thực hiện trích BHXH, BHYT cho phù hợp
với quy định chung.
b)Đối với các khoản chi phí tiếp khách, hội họp ở phân xưởng:
Khi phát sinh các khoản chi phí tiếp khách, hội họp ở các phân xưởng của xí nghiệp
bảo dưỡng, kế toán không tập hợp vào TK627 "chi phí sản xuất chung" mà tập hợp thẳng
vào TK642"chi phí quản lý doanh nghiệp", kế toán ghi:
Nợ TK642
Có TK111
Thực tế, các khoản chi phí này phát sinh ở tại các phân xưởng của xí nghiệp bảo
dưỡng. Như vậy phải được trích vào chi phí sản xuất chung trong tháng, tức là trong giá
thành sẽ có thêm khoản chi phí này. Mặc dù trong tháng, khoản chi phí này không nhiều
lắm, song theo em, công ty nên hạch toán vào bên Nợ TK627 nhằm đảm bảo cho việc tính
giá thành sản phẩm được chính xác và đảm bảo nguyên tắc hạch toán. Khi đó, kế toán ghi:
Nợ TK627
Có TK111

×