Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Luận văn thạc sĩ tội hủy hoại rừng theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện nông sơn,tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN DUY CÔNG

TỘI HỦY HOẠI RỪNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NƠNG SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020

1


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN DUY CÔNG

TỘI HỦY HOẠI RỪNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NƠNG SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số : 8 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. NGUYỄN NGỌC HÀ

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các số liệu sử dụng trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên
cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và
phù hợp với thực tiễn. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên
cứu nào khác.

Tác giả luận văn

Phan Duy Công


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ..........................................................9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc quy định tội hủy hoại rừng.................9
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp của tội hủy hoại rừng trong pháp luật hình sự
Việt Nam ...................................................................................................................15
1.3. Phân biệt tội hủy hoại rừng với một số tội phạm khác ......................................22
1.4. Pháp luật hình sự về tội hủy hoại rừng của một số nước trên thế giới ..............26
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỘI HỦY
HOẠI RỪNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM .......................................................................32
2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về tội hủy hoại rừng ....................................32

2.2. Thực tiễn áp dụng trên địa bàn Huyện Nông Sơn, Tỉnh Quảng Nam....................37
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG VÀ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG .54
3.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng về tội hủy hoại rừng ...............................54
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội
hủy hoại rừng ............................................................................................................59
KẾT LUẬN ..............................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Nghĩa đầy đủ

Từ viết tắt

Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

1

BLHS năm 2015

2

BLHS năm 1999

BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)


3

BLHS

BLHS

4

CTTP

Cấu thành tội phạm

5

TAND

Tịa án nhân dân

6

TNHS

Trách nhiệm hình sự

7

TTHS

Tố tụng hình sự


8

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

2017)


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Rừng được xem là lá phổi xanh của thế giới giúp điều hoà khí hậu, cân
bằng sinh thái cho mơi trường. Việc bảo vệ và phát triển rừng đã trở thành một yêu
cầu, nhiệm vụ tất yếu trongsựpháttriển của các quốc gia trước thực trạng môi trường
sống của con người đang bị suy giảm nghiêm trọng. Đối với Việt Nam - một nước
đang phát triển và đang trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề
bảo vệ và phát triển rừng thực sự cấp bách.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương,
chính sách quan trọng, trong đó Đảng ta đã ban hành nhiều Nghị quyết làm nền tảng
cho việc bảo vệ rừng, trong đó Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 03 tháng 6 năm
2013 của Bộ Chính trị về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản
lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã quy định: “Chú trọng xây dựng và hồn thiện
pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ mơi trường và
các lĩnh vực có liên quan…”. Trên tinh thần của nghị quyết trên, Nhà nước ta đã
xây dựng hệ thống pháp luật quản lý và bảo vệ rừng. Đồng thời, Nhà nước ta ban
hành Bộ luật hình sự quy định tội hủy hoại rằng, qua đó góp phần bảo vệ trật tự, an
toàn xã hội cũng như góp phần vào cơng tác đấu tranh phịng, chống loại tội phạm
này.
Theo thống kê, số vụ việc vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng
trên phạm vi cả nước ngày càng tăng, chỉ tính từ năm 2013 đến năm 2017, cả nước

đã có hơn 35.000 ha rừng bị chặt phá, hủy hoại trái phép, trung bình mỗi năm từ
năm 2013 đến 2017 có hơn 32.500 vụ vi phạm pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
[89, tr.01]. Vì vậy, việc xây dựng và hồn thiện quy định pháp luật hình sự về tội
phạm hủy hoại rừng đồng thời, đảm bảo thực hiện việc xử lý tội phạm và nâng cao
công tác thi hành pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng đang được sự quan tâm rất
lớn ở Việt Nam. Đáp ứng nhu cầu đó, BLHS năm 2015 về tội hủy hoại rừng có một
số quy định mới, thể hiện sự tiến bộ trong trình độ lập pháp của nước ta, cũng như
thể hiện tính phù hợp với đòi hỏi, yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội
1


phạm hủy hoại rừng nói riêng và đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung. Tuy
nhiên, BLHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành được 02 năm, do đó việc áp dụng
các quy định của pháp luật trong thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử của các
cơ quan tiến hành tố tụng chưa mang lại hiệu quả, đồng thời, các quy định của pháp
luật hình sự còn tồn tại sự bất cập, thiếu đồng bộ, và rõ ràng.
Những năm gần đây, mặc dù các cơ quan chức năng ở địa phương đã có
nhiều nỗ lực, tuy nhiên cơng tác bảo vệ rừng vẫn cịn gặp nhiều khó khăn.Với diễn
biến ngày càng phức tạp, hành vi phạm tội ngày càng tinh vi thì hậu quả của việc
hủy hoại rừng đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội cũng
như đời sống của người dân trên địa bàn Huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Hiện
nay, hiểu biết của người dân về tội hủy hoại rừng và tác động của việc hủy hoại
rừng đến tình hình kinh tế - xã hội vẫn cịn hạn chế, đồng thời các giải pháp phịng
ngừa tình hình tội hủy hoại rừng trên địa bàn Huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
vẫn chưa đạt hiệu quả mong muốn. Xuất phát từ những vấn đề cấp thiết nêu trên,
tác giả đã chọn đề tài “Tội hủy hoại rừng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn Huyện Nơng Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi

Có một số cơng trình khoa học của các tác giả nước ngồi đề cập đến tội
hủy hoại rừng, có thể kể đến như:
- Sách chuyên khảo “Community forestry in the united states - Learning
from the Past, Crafting the Future” của các tác giả Mark Baker và Jonathan Kusel,
Nxb. Island Press năm 2003. Cuốn sách này đề cập chính sách phát triển tài nguyên
rừng của Hoa Kỳ; những biện pháp cho việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng
đặc biệt là chính sách pháp luật hình sự trong việc bảo vệ tài nguyên rừng. Cuốn
sách đã chỉ ra thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng phân tích những
nguyên nhân và đề xuất một số kiến nghị cho các nhà lập pháp;
- Bài viết “Problems of Chinese Environmental Criminal Law and Its
2


Developing Trend Cong” của tác giả Cong Ma, Law School Zhejiang University of
Finance & Economics đăng tải trên “International Conference on Global Economy,
Commerce and Service Science (GECSS 2014)”. Bài viết đã phân tích, bình luận
đánh giá các quy định của pháp luật hình sự Trung Quốc về tội phạm hủy hoại rừng,
tội hủy hoại tài nguyên rừng và một số hạn chế trong quá trình áp dụng quy định về
tội phạm môi trường, đồng thời dựa báo về xu hướng hồn thiện pháp luật hình sự
Trung Quốc về tội hủy hoại rừng trong thời gian tới.
Nhìn chung, các cơng trình trên đã giúp Luận văn thông qua việc nghiên
cứu so sánh pháp luật hình sự các quốc gia phát triển về tội phạm hủy hoại rừng, từ
đó để rút ra một số kinh nghiệm cho hoạt động lập pháp của nước ta trong q trình
hồn thiện pháp luật hình sự về tội hủy hoại rừng.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Đến nay đã có cơng trình nghiên cứu về lý luận và các quy định pháp luật
hình sự Việt Nam về tội hủy hoại rừng. Có thể kể đến các cơng trình tiêu biểu như:
- Luận văn thạc sĩ luật học “Tội hủy hoại rừng theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định” của học viên cao học Trần Quốc Việt thực hiện tại
Học viện Khoa học Xã hội năm 2018. Qua nghiên cứu về mặt lý luận trong quy

định của pháp luật hình sự về tội hủy hoại rừng cũng như qua nghiên cứu, đánh giá
thực trạng diễn biến rừng qua các năm; nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các
quy định này qua các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trên địa bàn tỉnh Bình Định
trong thời gian từ năm 2013 đến năm 2017, Luận văn đã làm sáng tỏ được thực tiễn
áp dụng quy định của pháp luật hình sự thông qua hoạt động định tội danh và quyết
định hình phạt đối với tội hủy hoại rừng đã được các cơ quan tiến hành tố tụng tại
Bình Định áp dụng cơ bản chính xác, đảm bảo tương xứng với tính chất và mức độ
nguy hiểm của các hành vi phạm tội. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số điểm bất
cập, thiếu sót và hiểu sai các quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người phạm tội trong quá trình áp dụng pháp luật.
- Luận văn thạc sĩ luật học “Tội hủy hoại rừng trong Luật hình sự Việt
Nam” của học viên cao học Lê Thị Minh Phương thực hiện tại Khoa Luật Đại học
3


Quốc gia Hà Nội năm 2013. Theo đó, Luận văn đã phân tích một cách có hệ thống
và tồn diện những vấn đề lý luận về tội hủy hoại rừng như: Khái niệm, các dấu
hiệu pháp lý cơ bản trong cấu thành tội phạm của tội hủy hoại rừng, phân biệt tội
phạm này với các tội phạm khác có liên quan, đường lối xử lý đối với người phạm
tội. Thông qua việc phân tích các vấn đề tồn tại xung quanh việc quy định trên
phương diện lý luận tội hủy hoại rừng thông qua việc nghiên cứu các vấn đề thực
tiễn. Từ đó, Luận văn đã đề xuất kiến nghị hồn thiện quy định của pháp luật hình
sự và xây dựng mơ hình lý luận của BLHS về tội hủy hoại rừng.
- Luận văn thạc sĩ luật học “ Tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn Đắk Lắk ) ” của học viên cao học Hoàng Văn Vân
thực hiện tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015. Theo đó, Luận văn đã
nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tội hủy hoại rừng trong
luật hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; rút ra những hạn chế, thiếu sót và
nguyên nhân, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định về tội hủy hoại rừng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hủy

hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk;
- Luận án tiến sĩ luật học “ Đấu tranh phòng, chống tội hủy hoại rừng trên
địa bàn các tỉnh Tây Nguyên ” của NCS. Nguyễn Văn Nghiệp thực hiện tại Học
viện Khoa học Xã hội năm 2016.
Có thể nói, các cơng trình trên đã nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực
trạng áp dụng các quy định của BLHS về tội hủy hoại rừng. Đồng thời, đưa ra một
số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về tội hủy hoại
rừng trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLHS. Tuy nhiên, hiện nay chưa có cơng
trình khoa học dưới cấp độ Luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu một cách tổng thể
và toàn diện thực tiễn áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử về tội hủy hoại rừng
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nói chung và huyện Nơng Sơn nói riêng, đặc biệt kể từ
thời điểm BLHS năm 2015 được ban hành và chính thức có hiệu lực thi hành trên
thực tiễn.
Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu dưới góc độ lý luận về tội hủy hoại rừng
4


của các cơng trình nghiên cứu trong thời gian qua, Luận văn tiếp tục nghiên cứu
thực tiễn áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử về tội hủy hoại rừng trên địa bàn
huyện Nông Sơn; đồng thời đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật;
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về tội hủy hoại
rừng cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng
Nam;
- Đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật và góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hủy hoại rừng trên địa bàn huyện
Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới;
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được những mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết những
nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về tội hủy hoại rừng theo
pháp luật hình sự Việt Nam;
- Nghiên cứu, khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự
về tội hủy hoại rừng trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam giai đoạn năm
2015 đến năm 2019;
- Chỉ ra được những kết quả đạt được; những tồn tại, hạn chế và nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội hủy
hoại rừng;
- Đưa ra dự báo và đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật cũng
như góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội hủy
hoại rừng trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hủy
5


hoại rừng từ thực tiễn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
Việt Nam về tội hủy hoại rừng trong giai đoạn xét xử
- Về địa bàn: Đề tài được thực hiện trong phạm vi huyện Nông Sơn, tỉnh
Quảng Nam.
- Về thời gian: Từ năm 2015 đến 2019.
- Về chủ thể: Tòa án nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –

Lê Nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm của Đảng về đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung;
tội hủy hoại rừng nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu và hồn thiện luận văn, tác giả cịn sử
dụng một số phương pháp khác như:
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để đưa ra các định nghĩa; đặc điểm,
ý nghĩa và các dấu hiệu pháp lý (CTTP) của tội hủy hoại rừng. Đồng thời, đưa ra
các đánh giá về thực tiễn áp dụng PLHS trong hoạt động xét xử tội hủy hoại rừng
thông qua định tội danh và quyết định hình phạt để đưa ra các vướng mắc, tồn tại,
và đề xuất các giải pháp hoàn thiện PLHS.
- Phương pháp thống kê được sử dụng để tổng hợp các số liệu về thực trạng
áp dụng của tội hủy hoại rừng nhằm đánh giá tình hình xét xử tội phạm hủy hoại
rừng trên địa bàn Huyện Nông Sơn giai đoạn năm 2015-2019.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng để phân biệt các quy định
về tội hủy hoại rừng với các loại tội phạm khác trong BLHS năm 2015 và các quy
định về tội hủy hoại rừng được quy định trong các BLHS qua các thời kỳ;
- Phương pháp nghiên cứu điển hình để đưa ra một số vụ án điển hình,
6


nhằm đánh giá làm rõ thực tiễn áp dụng các quy định củaphápluật hình sự về tội
hủy hoại rừng qua giai đoạn xét xử trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam
giai đoạn từ 2015 - 2019.
- Phương pháp tiếp cận tài liệu để nghiên cứu các vấn đề lý luận về tội hủy
hoại rừng trong các Luận văn thạc sĩ, Luận án tiến sĩ, các bài viết đăng tải trên tạp
chí khoa học chuyên ngành Luật, các chuyên khảo về LHS. Đồng thời, tiếp cận tài
liệu để thu thập các số liệu về công tác kiểm sát VKSND Huyện Nơng Sơn trong
các phiên tồn xét xử hình sự, và các bản án xét xử các vụ án hình sự của TAND
Huyện Nông Sơn, TAND Tỉnh Quảng Nam về tội hủy hoại rừng giai đoạn từ năm

2015 đến năm 2019 để chứng minh cho các đánh giá, phân tích bình luận về thực
tiễn áp dụng PLHS.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung, phát triển lý luận của
khoa học pháp lý hình sự nói chung; lý luận về tội phạm và cấu thành tội phạm nói
riêng. Đồng thời, hồn thiện các quy định của pháp luật hình sự hiện hành đối với
tội hủy hoại rừng.
Ngồi ra, luận văn cịn có ý nghĩa như là một tài liệu tham khảo về mặt lý
luận và có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, học tập cho các sinh viên, học
viên chuyên ngành luật hình sự trên các cơ sở đào tạo luật trên cả nước.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là
Tịa án trong q trình giải quyết vụ án hình sự về tội hủy hoại rừng được khách
quan, cơng bằng và có căn cứ pháp luật.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần Mục lục, Danh mục các chữ viết tắt, Danh mục các bảng biểu,
Mở đầu, Danh mục tài liệu tham khảo, Kết luận, nội dung Luận văn được cấu trúc
thành ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về tội hủy hoại rừng trong pháp luật hình
7


sự Việt Nam.
Chương 2. Quy định của pháp luật Việt Nam về tội hủy hoại rừng và thực
tiễn áp dụng trên địa bàn Huyện Nông Sơn, Tỉnh Quảng Nam
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng và kiến nghị hồn thiện
pháp luật hình sự về tội hủy hoại rừng.

8



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc quy định tội hủy hoại
rừng
1.1.1. Khái niệm tội hủy hoại rừng
Theo Phùng Ngọc Lan, Hoàng Kim Ngũ: Rừng là một bộ phận của cảnh
quan địa lý, trong đó bao gồm một tổng thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và
vi sinh vật. GS.TS Morozov (Liên Bang Nga) đưa ra khái niệm: Rừng là một tổng
thể cây gỗ, có mối liên hệ lẫn nhau, nó chiếm một phạm vi khơng gian nhất định ở
mặt đất và trong khi quyển. Rừng chiếm phần lớn bề mặt Trái Đất và là một bộ
phận của cảnh quan địa lý [46, tr. 459-520].
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, rừng tự nhiên và rừng trồng được
phân thành 03 loại: Rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Trong đó: Rừng
sản xuất được sử dụng chủ yếu để cung cấp lâm sản; sản xuất, kinh doanh lâm,
nông, ngư nghiệp kết hợp du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí; cung ứng dịch vụ
mơi trường rừng [50] .
Rừng là nguồn cung lương thực, nhiên liệu, nơi trú ẩn, quần áo và thuốc
men cho rất nhiều người. Từ thời xa xưa, con người đã phụ thuộc rất nhiều vào rừng
và vai trò của rừng trong việc giữ gìn khơng khí, đất và nước sạch sẽ là khơng thể
chối bỏ. Để ghi nhận vai trò sinh thái, văn hóa và kinh tế độc đáo của rừng, Tổ chức
Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) đã chọn ngày 21/3 hằng năm
làm Ngày quốc tế về rừng [60]. Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp
Quốc (FAO) thì rừng giữ vai trị chủ đạo trong mối quan hệ tương tác giữa mơi
trường, sinh vật và có vai trị đặc trưng sau:
Thứ nhất, Rừng được ví như lá phổi xanh của trái đất bởi chúng có nhiều
cây xanh.Cây xanh trong q trình quang hợp hấp thụ khí cacbonic và nhả ra khí
oxi, đây là nguồn cung cấp phần lớn oxi để đảm bảo sự sống của con người và các

loại sinh vật khác trên Trái đất.
9


Thứ hai, Rừng có tác dụng lọc sạch khơng khí, giữ lại bụi bẩn và tiêu diệt
các vi trùng gây hại trong khơng khí. Mang đến một khơng khí trong lành hơn cho
con người và các loài sinh vật khác.
Thứ ba, Rừng nơi sinh sống của rất nhiều các loại động thực vật khác nhau,
trong đó có rất nhiều lồi quý hiếm. Đây là nơi cung cấp nguồn thực phẩm, nguyên
liệu quý hiến cho con người, và đặc biệt cũng là nơi lưu trữ của nhiều nguồn gen
quý hiếm
Thứ tư, Rừng bảo vệ và ngăn chặn hiện tượng xói mịn đất nguy hiểm.
Bảo vệ rừng là thực hiện việc bảo vệ và kiểm sốt một cách có hiệu quả
tình trạng suy thối rừng trên phạm vi cả nuớc, trong đó quy định cụ thể nghĩa vụ
của tổ chức, cá nhân khi khai thác sử dụng từng loại rừng [32, tr.05].
Trong nhiều thập kỷ qua, với những nỗ lực không ngừng của Chính phủ
Việt Nam và sự hỗ trợ có hiệu quả của cộng đồng Quốc tế, công tác bảo vệ rừng
trong các khu rừng phòng hộ, đặc dụng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
nhận thức về rừng của toàn xã hội được nâng cao, quan điểm đổi mới xã hội hố
được triển khai thực hiện có hiệu quả; hệ thống pháp luật về bảo vệ và phát triển
rừng ngày càng hồn thiện; chế độ chính sách lâm nghiệp, nhất là chính sách về đa
dạng hố các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế và tổ
chức xã hội tham gia vào các hoạt động lâm nghiệp, bảo vệ sinh thái môi trường;
cung cấp các dịch vụ mơi trường rừng; góp phần vào việc thích ứng và giảm thiểu
tác động của biến đổi khí hậu.
Vai trò, trách nhiệm quản lý Nhà nước về rừng của các ngành, chính quyền
các cấp, các tổ chức xã hội ngày càng được làm rõ và nâng cao. Nhà nước đã tăng
cường đầu tư thơng qua nhiều chương trình, dự án đã làm cho công tác bảo vệ rừng,
bảo tồn thiên nhiên, ngày càng chuyển biến tích cực.
Như vậy, chúng ta cần phải có những biện pháp cụ thể trong việc quản lý và

bảo vệ rừng. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều hành vi hủy hoại rừng đã xảy ra hết sức
phức tạp với những thủ đoạn tinh vi, hậu quả của tội phạm gây ra hết sức nặng nề,
trực tiếp ảnh hưởng đến môi trường và đời sống của nhân dân, làm môi trường sống
10


của chúng ta đang ở mức báo động. Do tính nguy hiểm của hành vi này, cho nên
trong pháp luật hình sự của các quốc gia trên thế giới đều ban hành quy định pháp
luật nhằm nghiêm trị hành vi hủy hoại rừng và áp dụng hình phạt đối với chủ thể
thực hiện hành vi đó. Nếu hành vi hủy hoại rừng dù nguy hiểm đến đâu cũng chỉ
dừng lại ở việc xử lý kỉ luật, xử phạt hành chính hay trách nhiệm dân sự… mà
không truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ khơng đủ sức răn đe, khơng tương xứng
với tính nguy hiểm của hành vi dẫn đến khơng phịng ngừa và dần loại bỏ được
những hành vi này trong thực tế.
Pháp luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho
tiến trình đổi mới và sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh [65, tr.07]. Do vậy, việc quy định
tội hủy hoại rừng trong pháp luật hình sự để đấu tranh phòng ngừa và chống hành vi
nguy hiểm này là thực sự đúng đắn và cần thiết đáp ứng đòi hỏi cả về mặt lý luận và
thực tiễn [47, tr.15].
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì “hủy hoại” có nghĩa là
làm cho hư hỏng đi, phá đi, cho tan nát [91, tr. 416]. Theo quy định của pháp luật
nước ta thì rừng là một loại tài sản. BLDS năm 2015 định nghĩa tài sản bao gồm
vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản [52].Vật là một bộ phận quan trọng của thế
giới vật chất, được tồn tại ở mọi trạng thái vật chất khác nhau như rắn; lỏng; khí.
Vật được coi tài sản phải là vật hữu hình cảm nhận được bởi giác quan của con
người. Vật hữu hình được coi là tài sản khi nó đó đáp ứng được một phần hoặc toàn
bộ nhu cầu của con người dưới dạng nhu cầu về tinh thần; hoặc các nhu cầu về vật
chất [43, tr.121]. Do đó, để hiểu được hành vi hủy hoại rừng thì cần hiểu thế nào là
hành vi hủy hoại tài sản.

Trong khoa học pháp lý, khái niệm tội hủy hoại rừng được các luật gia nhìn
nhận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Tác giả Lê Thị Phương Minh định nghĩa Tội hủy hoại rừng là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS Việt Nam do người có năng
lực TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm các quan hệ xã hội về bảo vệ rừng
11


của Nhà nước, gây những thiệt hại cho môi trường sinh thái [47, tr.23].
Tác giả Hoàng Văn Vân nhận định tội phạm hủy hoại rừng là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện có lỗi, xâm hại tài nguyên rừng làm cho rừng mất hoàn
toàn giá trị hoặc làm suy giảm đáng kể giá trị của rừng [87, tr.8].
Dựa vào các định nghĩa trên, có thể đưa ra khái niệm huỷ hoại rừng là hành
vi đốt, phá rừng trái phép rừng hoặc có hành vi khác làm cho rừng mất hoàn toàn
giá trị hoặc làm cho rừng giảm giá trị đáng kể [66, tr.196].
Tội phạm hủy hoại rừng có thể hiểu: “là những hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện có lỗi, xâm hại tài nguyên rừng làm cho rừng mất
hoàn toàn giá trị hoặc làm suy giảm đáng kể giá trị của rừng”.
1.1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của việc quy định tội hủy hoại rừng
1.1.2.1. Đặc điểm của tội hủy hoại rừng
Từ định nghĩa trên cho thấy tội hủy hoại rừng có các đặc trưng của tội phạm
theo quy định của pháp luật hình sự như sau:
Thứ nhất, Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, đây là dấu hiệu cơ bản,
quan trọng nhất, quyết định, bởi nó là thuộc tính và nội dung của tội phạm. Một
hành vi sở dĩ bị quy định là tội phạm bởi bản thân nó có tính nguy hiểm [72, tr. 6264]. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi hủy hoại rừng đó là những hành vi cố ý
đốt, phá rừng trái phép hoặc có những hành vi khác làm cho rừng bị hủy hoại, bị hư
hỏng. Từ đó dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về mặt môi trường sinh thái, ảnh hưởng
đến sự phát triển bình thường của rừng, đây là quan hệ xã hội được pháp luật hình

sự bảo vệ. Tuy nhiên, không phải hành vi hủy hoại rừng nào cũng được xem là tội
phạm, mà hành vi đó phải gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại “đáng kể” cho
xã hội thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, Tính trái pháp luật hình sự, là hành vi phạm tội trái với quy định
của BLHS. Nghĩa là, khi BLHS quy định một hành vi nào đó bị cấm thì người phạm
tội thực hiện hành vi đó. Quy định tính trái pháp luật của tội phạm là dấu hiệu về
12


mặt hình thức pháp lý có tính độc lập tương đối và có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo
cho đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm được thống nhất [4, tr.119].
Hành vi hủy hoại rừng là hành vi trái pháp luật hình sự (cịn gọi là hành vi
“bị luật hình sự cấm”). Chỉ có hành vi nguy hiểm cho xã hội đáng kể bị luật hình sự
cấm - bị nhà làm luật coi là tội phạm và quy định hình phạt đối với việc thực hiện
hành vi đó trong pháp luậthình sự thì việc thực hiện một cách có lỗi nó (hành vi)
mới bị coi là phạm tội. Có thể hiểu, khi thực hiện hành vi hủy hoại rừng tuy rằng có
ảnh hưởng xã hội nhưng chưa quy định trong BLHS thì hành vi này khơng phải là
tội phạm, đồng thời, nếu hành vi hủy hoại rừng được quy định trong BLHS nhưng
không phải là hành vi nguy hiểm đáng kểthì cũng khơng phải là tội phạm.
Thứ ba, Hành vi bị coi là tội phạm bởi vì về nội dung của nó có tính nguy
hiểm cho xã hội và nó là tội phạm nên mới chịu hình phạt. Hình phạt là biện pháp
xử lý nghiêm khắc của nhà nước, được pháp luật quy định do các cơ quan nhà nước
áp dụng đối với người bị xử lý và được thể hiện ở việc tước bỏ, hoặc hạn chế quyền
và lợi ích của họ nhằm giáo dục, cải tạo họ và phịng ngừa tội phạm, bảo đảm cho
luật hình sự thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm [75, tr. 155].
Hình phạt là dấu hiệu biểu hiện hệ quả tất yếu của tội phạm, và chỉ có tội
phạm mới có thể chịu hình phạt, một hành vi dù là nguy hiểm cho xã hội nhưng
không phải là tội phạm thì khơng có đặc điểm này. Thực tế có những trường hợp có
hành vi phạm tội nhưng khơng bị áp dụng hình phạt bởi được miễn TNHS hoặc
miễn hình phạt, chứ khơng phải tội phạm đó khơng có kèm theo hình phạt được quy

định trong BLHS. Do đó, phải nhìn nhận rằng giữa tội phạm và hình phạt có mối
liên hệ, hình phạt ln gắn liền với tội phạm và chỉ có thể áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội [4, tr. 124-125].
Thứ tư, Tội hủy hoại rừng có thể được thực hiện bởi bất cứ chủ thể nào vi
phạm các quy định của pháp luật về bảo vệ rừng ngay trong khu vực do họ trồng
hoặc được giao quản lý rừng.
Chủ thể của tội phạm bao giờ cũng phải có năng lực TNHS và chứa đựng
yếu tố lỗi là thái độ tâm lý đối với hành vi phạm tội hủy hoại rừng do người có năng
13


lực TNHS thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó, được thực hiện dưới hình
thức cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp [47, tr.22].
Đối với cá nhân có năng lực TNHS là người ở một độ tuổi nhất định và là
người có khả năng nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội và tính chất
trái pháp luật của hành vi do mình thực hiện (về lý trí) cũng như điều khiển được
hành vi đó (về ý chí) [72, tr. 65-66].
Hành vi phạm tội của pháp nhân do người quản lý, điều hành pháp nhân
pháp nhân đó thực hiện. Người quản lý, điều hành của pháp nhân được hiểu thơng
thường đó là những người đại điện theo pháp luật của pháp nhân như giám đốc,
tổng giám đốc [79, tr. 25 – 34]. Quan điểm này xuất phát từ việc áp dụng lý thuyết
về đại diện (agency theory). Lý thuyết đại diện đã khẳng định:” công ty với tư cách
là một pháp nhân – một thực thể pháp lý độc lập tự bản thân nó khơng thể hành
động cho chính mình mà chỉ có thể hành động thơng qua con người cụ thể - những
người quản lý công ty. Vì vậy, cơng ty ln cần có người đại diện trong giao dịch
để xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình” [29, tr.21-27].
1.1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định tội hủy hoại rừng
Thứ nhất, Hủy hoại rừng được hiểu là việc một người đã có hành vi đốt,
phá rừng trái pháp luật hoặc có các hành vi khác gây thiệt hại cho rừng và thiệt hại
về mơi trường đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các quy định đó có thể là

các quy định cụ thể của các cơ quan pháp luật Nhà nước hay của các cơ quan tổ
chức được Nhà nước trao quyền và thông qua công tác tuyên truyền phổ biến đến
mọi người dân và buộc phải tuân thủ và thực hiện các quy định đó.
Trên thực tế có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau song một bộ
phận người dân đã có những hành vi đốt, chặt phá rừng hoặc có những hành vi khác
hủy hoại rừng gây ra những hậu quả ở nhiều mức độ khác nhau từ bị xử phạt hành
chính đến bị truy cứu trách nhiệm hình sự [87, tr.13].Nhằm kịp thời ngăn chặn, xử
lý cũng như đáp ứng nhu cầu đấu tranh phòng,chống các loại tội phạm hủy hoại
rừng thì pháp luật hình sự đã hình sự hóa các hành vi đủ yếu tố cấu thành tội phạm
và quy định một điều luật riêng biệt tại Điều 243 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa
14


đổi, bổsung năm 2017) là công cụ pháp lý hữu hiệu nhất trong việc đấu tranh
phòng, chống tội phạm hủy hoại rừng [55, tr.82];
Thứ hai, Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ nguồn tài nguyên rừng, cần có sự
trừng trịnghiêm minh theo quy định của pháp luật đối với những tội phạm hủy hoại
rừng, cũng chính vì ngun do như trên mà chính sách hình sự của nước ta đã hình
sự hóa hành vi hủy hoại rừng quy định tại Điều 243 của BLHS năm 2015. Việc quy
định tội phạm này có ý nghĩa rất to lớn đối với việc duy trì và bảo vệ nguồn tài
nguyên rừng, và là căn cứ để xử lý, trừng trị nghiêm minh những kẻhủy hoại rừng,
cũng là hồi chuông cảnh tỉnh đối với những kẻ vi phạm rằng mọihành vi hủy hoại
rừng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật và bị xử lý bằng chếtài nặng nhất trong
hệ thống pháp luật Việt Nam là chế tài hình sự, chính vì lẽ đó,nó cũng mang ý nghĩa
giáo dục, tuyên truyền, ngăn ngừa các hành vi vi phạm gópphần vào cơng cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm hủy hoại rừng.
Xuất phát từ cơ sở lý luận đó, Nhà nước ta đã quy định các hành vi xâm
hạiđến tài nguyên rừng là tội phạm hình sự được quy định trong BLHS, để răn đe
trấn ápcác hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời góp phần phổ biến, tuyên truyền,
giáo dục, nâng cao ý thức đấu tranh phịng, chống tội phạm [61]. Thơng qua đó

nhằm duy trì trật tự quản lý và bảo vệ tài ngun rừng, góp phần cải thiện mơi
trường sống, bảo vệ nguồntài nguyên rừng, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế
phát triển toàn diện, bền vững.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp của tội hủy hoại rừng trong pháp luật
hình sự Việt Nam
1.2.1. Quy định về tội hủy hoại rừng giai đoạn trước khi ban hành Bộ
luật hình sự năm 2015
Nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội hủy hoại
rừng từ khi thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến khi BLHS đầu
tiên được chính thức thơng qua ngày 27/6/1985, có hiệu lực từ 01/01/1986. Trong
BLHS năm 1985 chưa thể hiện rõ tính cấp bách và tầm quan trọng đặc biệt của việc
đấu tranh với các hành vi xâm hại môi trường. Điều này không chỉ thể hiện qua việc
15


BLHS 1985 chưa dành riêng một chương cho các tội phạm về môi trường, mà chỉ
quy định tại một Điều 195 “Tội vi phạm các quy định về bảo vệ và phát triển rừng
gây hậu quả nghiêm trọng” trong Chương VIII - Các tội xâm phạm an tồn, trật tự
cơng cộng và trật tự quản lý hành chính. Một số tội phạm về môi trường được gộp
lại với những tội phạm khác và được hiểu không phải với tư cách là những tội phạm
về mơi trường [47, tr.17].
Do đó, ngày 21 tháng 12 năm 1999, tại kỳ họp thứ 6 của Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X đã thơng qua BLHS năm 1999 và
được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây gọi là BLHS năm 1999). Đến BLHS năm
1999 chính sách hình sự của Việt Nam trong việc bảo vệ và phát triển rừng có sự
đột phá quan trọng với việc xây dựng một chương riêng cho các tội phạm về môi
trường (Chương XVII) với 10 tội độc lập. Theo Điều 189 BLHS năm 1999 thì tội
hủy hoại rừng được hiểu là hành vi đốt, phá rừng trái phép hoặc có hành vi khác gây
hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà cịn vi
phạm [44, tr.141].

Theo Chánh án Tịa hình sự TANDTC Đinh Văn Quế thì tội huỷ hoại rừng
là tội phạm được tách từ tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng quy
định tại Điều 181 Bộ luật hình sự năm 1985. Do tính chất của hành vi và thiệt hại
do hành vi huỷ hoại rừng gây ra nên nhà làm luật quy định hành vi huỷ hoại rừng là
tội phạm về môi trường [66, tr.196]. Tội hủy hoại rừng được quy định tại Điều 189
của BLHS năm 1999 là tội xâm phạm đến chế độ quản lý rừng của Nhà nước, xâm
phạm nghiêm trọng đến môi trường sinh thái, gây ra những hậu quả nghiêm trọng
khác cho đời sống xã hội. Đối tượng tác động của tội phạm này chính là rừng bao
gồm: rừng phịng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất. Người phạm tội huỷ hoại
rừng có thể thực hiện một hoặc một số hành vi khách quan sau: (i) Đốt rừng; (ii)
Phá rừng là chặt phá cây trong rừng hoặc khai thác tài nguyên của rừng khơng được
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép như: khai thác gỗ, khai thác các
lâm sản trái phép; (iii) Hành vi khác hủy hoại rừng khác như: dùng hoá chất độc
phun hoặc rải xuống đất làm cho cây rừng bị chết khô, thả gia súc vào rừng mới
16


trồng để gia súc phá hoại cây rừng,
Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này; nếu người phạm
tội chưa bị xử phạt hành chính về hành vi huỷ hoại rừng thì phải gây hậu quả
nghiêm trọng thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Gây hậu quả nghiêm trọng ở
đây được hiểu là hủy hoại từ 2 ha đến dưới 05 ha đối với rừng sản xuất; từ 01 ha
đến 5 ha đối với rừng phòng hộ, từ 0,8 ha đến dưới 1,5 ha đối với rừng đặc dụng
hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng. Dấu hiệu đã
bị xử phạt vi phạm hành chính về mộ trong các hành vi nói trên mà cịn vi phạm
được hiểu tương tự như các Điều luật nói trên [44, tr.143].
Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 của điều
luật; người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này không
phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật. Người có hành vi

huỷ hoại rừng nếu chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự nếu trước đó họ đã bị xử phạt hành chính về hành vi huỷ hoại rừng mà còn
vi phạm. Khi xác định chủ thể của tội phạm này cần chú ý: người được giao trồng
rừng, quan lý và chăm sóc rừng (chủ rừng) mà có hành vi huỷ hoại rừng do chính
mình trồng, được giao quản lý, chăm sóc thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
đối với người đã bị kết án về tội huỷ hoại rừng chưa được xố án tích mà còn vi
phạm và chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì cũng khơng bị truy cứu trách nhiệm
hình sự vì điều luật không quy định trường hợp “đã bị kết án về tội huỷ hoại rừng
chưa được xố án tích mà cịn vi phạm”. Có lẽ đây cũng là vấn đề cần xem xét khi
sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự, vì khơng có lý do gì mà một người chỉ bị xâm
phạm hành chính về hành vi huỷ hoại rừng mà cịn vi phạm thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, cịn người đã bị kết án về tội huỷ hoại rừng chưa được xố án tích
mà cịn vi phạm lại khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự [78, tr.34-35].
Tội phạm hủy hoại rừng được thực hiện với lỗi cố ý, có nghĩa là người
phạm tội nhận thức rõ hành vi hủy hoại rừng của mình, nhận thấy trước hậu quả của
hành vi đó hoặc thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra và mong muốn
17


hoặc khơng mong muốn những vẫn có ý thức để cho hậu quả xảy ra.
Điều 189 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung 2009) quy định ba khung hình
phạt, Khung hình phạt cơ bản ở khoản 1 có mức phạt tiền từ mười hai triệu đồng
đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu
tháng đến năm năm
Khung 2 có mức phạt tù từ 03 năm đến 10 năm đối với mội các trường hợp
sau: Có tổ chức; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dung danh nghĩa của cơ
quan tổ chức; Hủy hoại diện tích rừng rất lớn. Diện tích rừng rất lớn được hiểu là từ
05 đến dưới 10 ha đối với rừng sản xuất; từ 3 ha đến dưới 5 ha đối với rừng phòng
hộ; từ 1.5 ha đến dưới 3 ha đối với rừng đặc dụng; Chặt phá các loại thực vật quý
hiếm thuộc danh mục quy định của Chính phủ; Gây hậu quả rất nghiêm trọng được

hiểu là gây thiệt hại về tài sản từ 200 đến dưới 500 triệu đồng.
Khung 3 có mức phạt từ từ 07 năm đến 15 năm đối với các trường hợp
phạm tội sau đây: Hủy hoại diện tích rừng đặc biệt lớn được hiểu là diện tích rừng
từ 10 ha trở lên đối với rừng sản xuất, từ 5ha trở lên đới với rừng phòng hộ, và từ 03
ha trở lên đới với rừng đặc dụng; Hủy hoại rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; Gây hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng được hiểu là gây thiệt hại tài sản từ 500 triệu đồng trở lên
Theo khoản 04 đối với người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 05 đến 50
triệu đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ; cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
từ 01 đến 05 năm.
1.2.2. Quy định về tội hủy hoại rừng trong Bộ luật hình sự năm 2015.
Trong những năm qua, mặc dù BLHS năm 1999 đã phát huy tác dụng tích
cực trong đấu tranh phịng, chống tội phạm, góp phần quan trọnggiữ vững an ninh
chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp phápcủa cơng dân.
Tuy nhiên, sau gần 14 năm thi hành BLHS năm 1999, tình hình đất nước ta
đã có những thay đổi lớn về mọi mặt nên BLHS đã bộc lộ nhiều hạn chế bất cập[7].
Theo số liệu thống kê cho thấy, tình hình tội hủy hoại rừng ở Tây Nguyên so với cả
nước là đáng báo động. Chỉ riêng các tỉnh Tây Nguyên, tình hình tội hủy hoại rừng
đã chiếm 28,8% so với tổng số vụ hủy hoại rừng của cả nước, số người phạm tội
18


chiếm tới 48,1% so với tổng số người phạm tội hủy hoại rừng của cả nước[55,
tr.27].
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thơng qua ngày 27 tháng 11 năm 2015.
Tuy nhiên, do phát hiện một số vấn đề lỗi kỹ thuật cho nên được tiến hành nghiên
cứu sửa đổi, bổ sung; đến ngày 20/6/2017 tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV ban
hành Luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật Hình sự năm 2015 và sẽ chính thức có hiệu lực vào ngày 01/01/2018 (sau
đây gọi là BLHS năm 2015).

So với Bộ luật Hình sự 1999 thì Bộ luật Hình sự năm 2015 đã xây dựng
một số điểm mới thể hiện sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp của nước ta trong tội hủy
hoại rừng, cụ thể như:
Thứ nhất, Định khung cơ bản. Khoản 1 Điều 189 BLHS năm 1999 quy định
cấu thành cơ bản của tội hủy hoại rừng thuộc hai trường hợp: “gây hậu quả nghiêm
trọng” và tuy chưa gây hậu quả nghiêm trọng nhưng “đã bị xử phạt hành chính về
hành vi này mà còn vi phạm”. BLHS 1999 chưa quy định như thế nào là tình
tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, tại tiểu mục 3.4, mục 3, Phần IV Thơng tư
19/2007 có giải thích cho tình tiết này. Tuy nhiên, việc quy định trong hai văn bản
khác nhau và việc quy định giải thích chưa rõ ràng, gây khó khăn cho công tác điều
tra – truy tố - xét xử loại tội này. Khắc phục bất cập này, BLHS năm 2015 đã sửa
đổi, bổ sung và xây dựng mới dấu hiệu phạm tội theo định khung cơ bản tại Khoản
1 Điều 243 khác biệt hoàn toàn so với quy định tại Khoản 1 Điều 189 BLHS 1999.
Điểm đáng chú ý, BLHS năm 2015đã bổ sung mới tình tiết định khung cơ bản tại
điểm e Khoản 1 Điều 243 BLHS năm 2015 về các loài thực vật rừng thuộc danh
mục lồi nhóm IA, nhóm IIA với giá trị thiệt hại cụ thể, tương ứng theo nhóm IA
hoặc IIA. Đồng thời, xây dựng điểm g Khoản 1 Điều 243 quy định tình tiết “bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội
này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm”, so với Khoản 1 Điều 189 BLHS 1999
thì điểm g Khoản 1 Điều BLHS năm 2015 bổ sung mới tình tiết “…hoặc đã bị kết
19


án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm” bên cạnh tình tiết “bị xử phạt
vi phạm hành chính về hành vi này mà cịn vi phạm”, đây là quy định mới phù hợp
với thực tiễn, và đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp.
Thứ hai, Định khung tăng nặng ở Khoản 2. Khoản2Điều 189 Bộ luật Hình
sự 1999 quy định 05 tình tiết định khung tăng nặng, trong đó có 03 tình tiết định
khung tăng nặng Bộ luật Hình sự 1999 như “ Huỷ hoại diện tích rừng rất lớn ”, “
Chặt phá các loại thực vật quý hiếm thuộc danh mục quy định của Chính phủ ”, “

Gây hậu quả rất nghiêm trọng ” chưa có giải thích cụ thể, mà phải nghiên cứu tại
tiểu mục 3.4, tiểu mục 3.5, mục 3, phần IV Thông tư 19 /2007, nhưng cũng chưa rõ
ràng nên gây khó khăn cho hoạt động tiến hành tố tụng trong thực tế. Khoản 2 Điều
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung mới hoàn toàn so với BLHS 1999,
theo đó đã xây dựng thêm các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng tại các điểm
c, d, đ, e, g, h, i; đây chính là các tình tiết thuộc các tình tiết “Huỷ hoại diện tích
rừng rất lớn”, “Chặt phá các loại thực vật quý hiếm thuộc danh mục quy định của
Chính phủ”, “Gây hậu quả rất nghiêm trọng” quy định tại Khoản 2 Điều 189 BLHS
1999 nhưng BLHS năm 2015 đã quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn, phù hợp hơn,
khơng cịn phụ thuộc vào Thông tư 19/2007theo các căn cứ định tội định khung:
“tái phạm nguy hiểm” – lần đầu tiên quy định trong tội hủy hoại rừng; diện tích
rừng bị thiệt hại; giá trị lâm sản bị thiệt hại.
Thứ ba, Định khung tăng nặng cao nhất. Khoản 3, Điều 243 Bộ luật Hình
sự năm 2015 căn cứ vào diện tích rừng bị thiệt hại,giá trị lâm sản bị thiệt hại và thực
vật thuộc danh mục quy định để làm căn cứ định tội theo khung tăng nặng, đây là
sửa đổi, bổ sung thể hiện kỹ thuật lập pháp cao của Bộ luật Hình sự 2015, tạo sự
thuận lợi trong quá trình áp dụng luật vào thực tiễn.
Thứ tư, Hình phạt chính. Có thể thấy, khung dao động hình phạt tại Điều
189 BLHS 1999 là rất lớn, gây khó khăn cho q trình áp dụng hình phạt của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong nhiều trường hợp dẫn đến
thiếu công bằng cho những người thực hiện hành vi hủy hoại rừng như nhau, nhưng
mức hình phạt áp dụng lại khác nhau ở nhiều địa phương.
20


×