Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Luận văn thạc sĩ định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (956.29 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VŨ MINH TRANG

ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC
TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VŨ MINH TRANG

ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC
TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI, 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các ví dụ
và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn là kết quả q trình tìm tịi nghiên cứu!
Người cam đoan

Phạm Vũ Minh Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI
XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM .............................................................8
1.1. Khái niệm và đặc điểm định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em.8
1.2. Phân loại, ý nghĩa định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em 12
1.3. Cơ sở và các giai đoạn định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em. 14
1.4. Định tội danh các tội phạm cụ thể trong nhóm tội xâm phạm tình dục
trẻ em ...................................................................................................... 17
Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI XÂM PHẠM
TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH .................... 31
2.1. Khái quát thực tiễn xét xử các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh ................................................................................... 31
2.2. Những kết quả đạt được trong định tội danh các tội xâm phạm tình
dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh .................................................... 35
2.3. Những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn định tội danh các tội xâm
phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và nguyên nhân .................... 39
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH
ĐÚNG CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC NINH ........................................................................................ 50

3.1. Một số yêu cầu của định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ...................................................................... 50
3.2. Một số giải pháp bảo đảm định tội danh đúng các tội xâm phạm tình
dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh .................................................... 54
KẾT LUẬN .................................................................................................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 78


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

ĐTD

Định tội danh

CTTP

Cấu thành tội phạm

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC


Tòa án nhân dân tối cao

VKS

Viện kiểm sát



Nghị định

NQ

Nghị quyết

TNHS

Trách nhiệm hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Nhóm tội phạm xâm hại tình dục trẻ em đưa ra xét xử từ năm 2015
đến năm 2019 ........................................................................................ 31
Bảng 2.2: Các tội phạm cụ thể trong nhóm tội xâm hại tình dục trẻ em được TAND
hai cấp tỉnh Bắc Ninh thụ lý, giải quyết từ năm 2015 đến năm 2019 ........ 32


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian qua, bên cạnh những kết quả tích cực trong cơng tác bảo vệ, chăm

sóc trẻ em thì tình hình trẻ em bị bạo lực, xâm hại, nhất là xâm hại tình dục tiếp
tục diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng. Đây là việc“dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến
tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng
trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức” [Khoản 8, Điều 4,
27]. Trong đó, có nhiều hành vi xâm hại xảy ra trong gia đình, nhà trường, cơ sở
trợ giúp xã hội và cộng đồng, mà đối tượng xâm hại thường là người thân, người
quen, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Trong đó tỉnh Bắc Ninh cũng khơng phải
là ngoại lệ. Theo số liệu thống kê từ Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, trong giai
đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 đã giải quyết 112 vụ án với 120 bị cáo về các tội
xâm hại tình dục trẻ em, chiếm tỉ lệ cao trong nhóm các tội xâm hại tình dục trên
địa bàn tỉnh. Các vụ án có diễn biến rất phức tạp, một số vụ án nổi cộm như: Vụ
án Bùi Văn T phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo khoản 3 Điều 142 BLHS
2015 mà nạn nhân là con riêng của vợ T; Kiều Tuấn L phạm tội tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi theo khoản 1 Điều 142 mà nạn nhân là người quen biết của L; vụ án
Nguyễn Văn A phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi theo khoản 1 Điều 146
BLHS năm 2015 mà nạn nhân là hàng xóm của đối tượng; hay gần đây nhất là vụ
việc cháu nhỏ 13 tuổi ở huyện T bị người đàn ông hơn 50 tuổi xâm hại tình dục...
đã thể hiện sự phức tạp và yêu cầu bức thiết của việc đấu tranh phòng chống tội
phạm này trong thời gian sắp tới, bởi trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước.
Khác với nhiều đối tượng khác, trẻ em là đối tượng được hưởng sự quan tâm
đặc biệt.“Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ,
ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm
quyền trẻ em” [Điều 37, 23], “Trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức
để khơng bị xâm hại tình dục” [Điều 25, 27]. Trên tinh thần của Hiến pháp năm
2013, có nhiều văn bản luật đã được ban hành mới, là hành lang pháp lý quan

1



trọng trong việc bảo vệ quyền trẻ em như Luật Trẻ em năm 2016, Luật Hơn nhân
và Gia đình năm 2014 và đặc biệt là Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017).
BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2018 đã có những bổ sung quan trọng, phù hợp với thực tiễn về nhóm các
tội xâm hại tình dục trẻ em, thể hiện rõ nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc cá thể hóa hình phạt như: Tăng thêm một điều
(Điều 147) quy định về tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm,
bổ sung hành vi “quan hệ tình dục khác...” trong một số tội xâm hại tình dục trẻ
em. Khái niệm “cưỡng dâm trẻ em”, “giao cấu với trẻ em”, “dâm ô với trẻ em”
cũng được quy định cụ thể để bảo đảm tính thống nhất trong cách hiểu và q trình
áp dụng của các cơ quan có thẩm quyền... Tuy nhiên, một số quy định của BLHS
năm 2015 vẫn cịn chưa rõ ràng, chưa có hướng dẫn cụ thể, gây khó khăn trong
định tội danh của cơ quan có thẩm quyền. Thực tiễn định tội danh vẫn cịn sai sót
trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ; cơng tác giám định pháp y tình dục vẫn
cịn chậm trễ, trong khi năng lực và phẩm chất của một bộ phận cán bộ làm công
tác định tội danh ở Bắc Ninh vẫn cịn hạn chế, khơng đồng đều, nhiều vụ việc vì
lý do khác nhau mà gia đình nạn nhân không hợp tác, không muốn đưa ra công
luận, tố giác tội phạm... dẫn tới việc định tội danh trong một số trường hợp khơng
chính xác, khơng phù hợp với sự thật khách quan của vụ án. Tính thời đến thời
điểm sau khi BLHS năm 2015 có hiệu lực, chưa có nhiều cơng trình khoa học
nghiên cứu chun sâu về định tội danh các tội xâm hại tình dục trẻ em trên phạm
vi một tỉnh là tỉnh Bắc Ninh và trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách khoa học, toàn diện, có hệ thống các vấn
đề lý luận và thực tiễn về định tội danh các tội xâm hại tình dục trẻ em từ thực tiễn
tỉnh Bắc Ninh, từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật, bảo
đảm định tội danh đúng các tội xâm hại tình dục trẻ em của cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng nói chung và trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng có ý nghĩa
quan trọng, cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ nhận thức trên, tác


2


giả đã chọn đề tài: “Định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn
tỉnh Bắc Ninh” để làm để tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan tới đề tài trên, cũng đã có những cơng trình khoa học được các tác
giả đề cập ở các phạm vi, góc độ khác nhau, mà tiêu biểu là:
(i) Về giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo:
GS.TS Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam
- Phần Các tội phạm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội
(2018), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần Các tội phạm), Nxb. CAND, Hà
Nội; Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự – Phần Các tội
phạm, Tập I, Nxb thành phố Hồ Chí Minh; TS. Trần Văn Biên, TS. Đinh Thế
Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung
năm 2017), Nxb Thế giới, Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Ngọc Điệp (2017),
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb
Thế giới, Thành phố Hồ Chí Minh...
(ii) Luận văn thạc sĩ: Hồ Thị Nhung (2015), Các tội xâm hại tình dục trẻ em
- Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và nghiên cứu so sánh với một số
nước, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nguyễn
Thị Minh Hương (2014), Các tội xâm hại tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Trịnh Văn
Toàn (2015), Các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số
liệu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk), Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Tuấn Thiện (2015), Các tội xâm phạm tình dục trẻ
em trong luật hình sự Việt Nam, từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Lê Thị Diễm Hằng (2016), Các tội xâm phạm tình
dục trẻ em - So sánh pháp luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình sự một số

quốc gia trên thế giới, Trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Vũ Hải Anh (2017),
Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người theo pháp luật hình sự Việt
Nam, Luận án tiến sỹ, 2017. Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội; Cao Hữu Sáng
(2015), Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật

3


– Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Trần Thúy Huỳnh Trang (2014), Tội hiếp
dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh,
Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM...
(iii) Tạp chí, báo và các cơng trình nghiên cứu khác: Phạm Mạnh Hùng
(2002), “Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tình
dục trẻ em”, Tạp chí Tồ án nhân dân, số 12/2002, Hà Nội; Trần Văn Luyện
(2001), “Những điểm mới cơ bản về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân
phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật Hình sự năm 1999”, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 3, Hà Nội; Hoàng Quảng Lực (2014), “Truy cứu trách nhiệm
hình sự tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em – Khó khăn, vướng mắc và kiến nghị”, Tạp
chí Tồ án nhân dân, số 13/2014, Hà Nội; Vũ Hải Anh (2015), “Một số vướng mắc
trong xét xử trường hợp phạm tội hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13 tuổi có tính chất
loạn luân”, Tạp chí Nghề Luật, số 01/2015, Hà Nội; Trần Hà Bảo Khuyên (2015),
“Về quy định đối với các tội hiếp dâm - hiếp dâm trẻ em”, Tạp chí Toà án nhân
dân, số 11/2015, Hà Nội; Dương Tuyết Miên (2015), “Bình luận về các tội phạm
về tình dục trong chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự con người trong dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật, số chuyên sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự 2015, Hà Nội; Phạm Minh Tuyên
– “Một số vấn đề về xâm hại tình dục đối với trẻ em nhìn từ góc độ xã hội và
những quy định của Bộ luật hình sự 2015”, Tạp chí Tịa án số 9, tháng 5/2019;
Phạm Minh Tuyên - “Một số vấn đề cần chú ý trong việc giải quyết các vụ án hình
sự về xâm hại tình dục có người dưới 18 tuổi tham gia tại Tịa án”. Tạp chí Tịa

án điện tử ngày 11/6/2019; Phạm Minh Tuyên – “Một số vấn đề về hành vi quấy
rối tình dục và xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”.
Tạp chí khoa học Kiểm sát, số chuyên đề 01/2019…
Nhận xét chung: Các cơng trình khoa học nêu trên ở các mức độ khác nhau
đã làm rõ một số vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các tội xâm hại tình
dục trẻ em. Tuy nhiên, các cơng trình trên chủ yếu nghiên cứu trước khi BLHS
năm 2015 có hiệu lực pháp luật, hoặc nghiên cứu dưới phạm vi không gian và thời
gian khác nhau, cùng với các nhóm tội danh xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh

4


dự, nhân phẩm khác hoặc dưới góc độ rộng hơn (bao gồm cả hoạt động quyết định
hình phạt). Tính đến nay, chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cập đến định tội
danh các tội xâm hại tình dục trẻ em một cách cụ thể, chuyên sâu tại địa bàn một
tỉnh là tỉnh Bắc Ninh, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2019. Do vậy
việc tiếp tục nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện vấn đề định tội danh các tội
xâm hại tình dục trẻ em có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
và thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em, cũng như đánh giá
thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Đồng thời chỉ ra các điểm tồn tại,
hạn chế trong thực tiễn áp dụng, trong quy định của pháp luật hiện hành, từ đó
luận văn đưa ra một số giải pháp để hồn thiện pháp luật hình sự cũng như bảo
đảm định tội danh đúng các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề chung về định tội danh các tội xâm phạm tình
dục trẻ em ở tỉnh Bắc Ninh.
- Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ

em trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, từ đó rút ra được những vướng mắc, hạn chế và
những nguyên nhân của vướng mắc, hạn chế đó.
- Phân tích một số yêu cầu và đưa ra một số giải pháp đảm bảo định tội danh
đúng các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động định tội danh các tội xâm
phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trong phạm vi chuyên ngành Luật hình sự và Tố
tụng hình sự; nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh định tội danh
các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, kết hợp với việc

5


nghiên cứu đánh giá hoạt động này trong thực tiễn tại tỉnh, phân tích những tồn
tại, hạn chế, từ đó kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện luật thực định nâng
cao hiệu quả định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh.
Giới hạn về tội danh: Nghiên cứu về định tội danh các tội xâm phạm tình dục
trẻ em (Điều 142,144, 145, 146 hoặc 147 của BLHS năm 2015).
Giới hạn về không gian: Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Giới hạn về thời gian: Các số liệu, bản án được thu thập trong giai đoạn 05
năm từ năm 2015 – 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, đường lối, chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và Pháp quyền trong sự
nghiệp đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường và thực tiễn áp dụng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng phương pháp
như phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn
dịch, quy nạp và phương pháp thống kê... và một số phương pháp khác của khoa
học luật hình sự để đạt được mục đích nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao nhận thức
về lý luận về định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Từ một số giải pháp
đưa ra, luận văn sẽ góp phần hồn thiện những quy định của pháp luật hình sự về
nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người, quyền trẻ em.
Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
công tác thực tiễn của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nói chung
và của tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể

6


là tài liệu tham khảo chuyên ngành đối với cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng
dạy.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1. Những vấn đề lý luận về định tội danh các tội xâm phạm tình dục
trẻ em.
Chương 2. Thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh đúng đối với các tội
xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

7



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
ĐỊNH TỘI DANH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM
1.1. Khái niệm và đặc điểm định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ
em
1.1.1. Khái niệm định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Định tội danh là khái niệm được nhiều học giả nghiên cứu với nhiều cách
tiếp cận và đưa ra các định nghĩa khác nhau. Có thể kể đến một số cơng trình tiêu
biểu như:
GS.TS. Võ Khánh Vinh có quan điểm: Định tội danh là một dạng hoạt động
nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lí khách quan
trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được
thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu
thành tội phạm tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp
và thông qua các giai đoạn nhất định [50, tr.22].
GS.TSKH. Lê Cảm cho rằng: “Định tội danh là q trình nhận thức lý luận
có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như
pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu
thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp
giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu
hiệu của CTTP tương ứng do luật hình sự quy định nhằm đạt được sự thật khách
quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm
tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa TNHS một cách cơng minh, có căn cứ và
đúng pháp luật” [6, tr.716].
Trong khi đó, TS. Phạm Văn Beo có quan điểm: “Định tội danh là việc xác
nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã
hội cụ thể đã được thực hiện với các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng
được quy định trong Bộ luật hình sự” [3, tr.5].


8


Có thể thấy, các quan điểm trên đều có những điểm hợp lý và thống nhất ở
việc: Nội dung định tội danh về bản chất là đối chiếu, so sánh và xác định sự phù
hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các
dấu hiệu của CTTP tương ứng quy định trong BLHS.
Trong BLHS năm 2015 hiện hành thì nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em
được quy định tại Chương XIV thuộc nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Trong đó, “Trẻ em là người dưới 16
tuổi” [27, Điều 1]. Những tội này có thể chia làm 03 nhóm: Nhóm các tội xâm
phạm tính mạng; Nhóm các tội xâm phạm sức khỏe; Nhóm các tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự [35, tr.371, 372]. Nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em thuộc các
tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người, bao gồm: Tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi (Điều 142), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều
144), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145), tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều
146) và tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147) (bên
cạnh nhóm các tội khác xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người bao gồm:
tội mua bán người; tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em; tội làm nhục
người khác và tội vu khống). Đây là “những hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho nhân phẩm, danh dự của con người” [1,
tr.38] và có bản chất là hành vi xâm hại tình dục trẻ em, “dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình
dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em
vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức” [27]. Hay cụ thể hơn theo
khoản 1 Điều 2, Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ

luật hình sự (Nghị quyết 06/2019): “Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi là việc
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham
gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao
cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích

9


mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức (ví dụ: Hoạt động xâm hại tình dục được
thực hiện do đồng thuận với người dưới 13 tuổi); do cưỡng bức, do hứa hẹn các
lợi ích vật chất (tiền, tài sản) hay các lợi ích phi vật chất (ví dụ: Cho điểm cao,
đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến bộ...)”.
Từ những phân tích trên và tiếp thu những yếu tố hợp lý trong các quan
điểm của các học giả, tác giả đưa ra khái niệm định tội danh các tội xâm phạm tình
dục trẻ em như sau: Định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em là một dạng
hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật
tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng và một số cơ quan khác có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập
được và các tình tiết thực tế của vụ án nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi
thực tế đã thực hiện với cấu thành tội phạm cụ thể quy định tại một trong các Điều
142,144, 145, 146 hoặc 147 của BLHS năm 2015, từ đó xác định một người có
phạm tội về xâm phạm tình dục trẻ em hay khơng, nếu phạm tội thì theo điểm,
khoản, điều luật nào của Chương XIV của BLHS năm 2015.
1.1.2. Đặc điểm định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Từ khái niệm định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em, có thể rút ra
các đặc điểm cơ bản của hoạt động này như sau:
- Định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em là một quá trình nhận thức
lý luận, dạng hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự,
của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một
số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật (theo BLTTHS năm

2015 là những Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
gồm: a) Các cơ quan của Bộ đội biên phòng; b) Các cơ quan của Hải quan; c) Các
cơ quan của Kiểm lâm; d) Các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển; đ) Các cơ
quan của Kiểm ngư; e) Các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra; g) Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
- Định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em là định tội danh đối với
một loại tội phạm cụ thể trong nhóm tội này gồm: Tội hiếp dâm người dưới 16

10


tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích
khiêu dâm. Ngồi những đặc điểm chung của định tội danh với tư cách là hoạt
động nhận thức có tính logic của con người, thì định tội danh đối với nhóm tội này
có đặc điểm riêng liên quan đến đặc điểm của hành vi xâm phạm tình dục trẻ em
(dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham
gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao
cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích
mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức (ví dụ: Hoạt động xâm hại tình dục được
thực hiện do đồng thuận với người dưới 13 tuổi); do cưỡng bức, do hứa hẹn các
lợi ích vật chất (tiền, tài sản) hay các lợi ích phi vật chất (ví dụ: Cho điểm cao,
đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến bộ...) xảy ra trong thực tế khách quan và quy định của
BLHS về tội phạm này.
- Chủ thể định tội danh phải đối chiếu, so sánh và đưa ra kết luận, về việc có
hay khơng có sự phù hợp giữa hành vi xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra trong thực
tế với quy định pháp luật quy định tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ

tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội dâm ô đối với người
dưới 16 tuổi hoặc tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm trong
BLHS hiện hành. Việc này đòi hỏi các chủ thể định tội danh phải có năng lực,
phẩm chất, kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm. Sau khi đã xác định một hành vi
cụ thể là hành vi phạm tội thì tiếp đến việc định tội danh cần xác định hành vi đó
được quy định trong điều luật nào của BLHS. Trong quá trình định tội danh, các
chủ thể phải sử dụng các biện pháp kỹ thuật pháp lý và phát triển theo những quy
luật logic nhất định.
- Định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em (định tội danh chính thức)
phải tuân theo những thủ tục chặt chẽ về mặt tố tụng theo quy định của BLTTHS
hiện hành.

11


- Định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em là một q trình phức tạp,
địi hỏi phải tiến hành một cách tuần tự từ cái chung đến cái riêng, theo từng bước
và giai đoạn nhất định. Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự bao
gồm việc tiến hành đồng thời ba quá trình:
1. Xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế của vụ án;
2. Nhận thức đúng nội dung của các quy định trong Bộ luật Hình sự;
3. Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự tương ứng để đối chiếu chính
xác, đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm đó
với các tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế [50, tr.12].
Đồng thời, đây là hoạt động được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của tố tụng
hình sự, từ khi khởi tố vụ án, điều tra, truy tố, xét xử cho tới khi xét xử giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm vụ án hình sự.
1.2. Phân loại, ý nghĩa định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em
1.2.1. Phân loại
- Căn cứ theo phân loại cấu thành tội phạm, thì định tội danh được chia thành

Định tội danh theo CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng và CTTP giảm nhẹ.Trong đó:
[50, tr.72]
+ Cấu thành tội phạm cơ bản là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội.
Cấu thành này bao gồm: Những dấu hiệu mô tả tội phạm và cho phép phân biệt
tội này với tội khác.
+ Cấu thành tội phạm tăng nặng là cấu thành tội phạm ngồi dấu hiệu định
tội cịn có thêm dấu hiệu định khung tăng nặng, tức dấu hiệu phản ánh tội phạm
có mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể (đa số đó là các khoản
2, 3, 4 của các điều luật của phần các tội phạm Bộ luật Hình sự nước ta).
+ Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cấu thành tội phạm ngoài dấu hiệu định
tội cịn có thêm dấu hiệu định khung giảm nhẹ, tức dấu hiệu phản ánh tội phạm có
mức độ nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể.
- Căn cứ vào chủ thể tiến hành định tội danh và hậu quả của việc định tội
danh, có thể phân chia định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em làm hai
dạng tương ứng là: Định tội danh chính thức và định tội danh khơng chính thức.

12


Định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước, tính chất pháp lý
hình sự về một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước ủy quyền
thực hiện: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân [50,
tr.23].
Do đó, định tội danh chính thức các tội xâm phạm tình dục trẻ em là hoạt
động áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án, và Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra,
trong hoạt động đấu tranh với nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Định tội danh khơng chính thức là sự đánh giá pháp lý về hành vi phạm tội
do các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý, tác giả bài báo, tạp chí, cơng trình khoa
học, sinh viên, học viên hoặc bất kỳ một người nào đó quan tâm nghiên cứu cụ thể

vụ án này hay vụ án khác đưa ra. Định tội khơng chính thức khơng sinh ra quyền
và nghĩa vụ mà là sự thể hiện quan điểm, ý kiến cá nhân. Đây là loại định tội có ý
nghĩa quan trọng trong quá trình nghiên cứu pháp luật, như một phương pháp nhận
thức luật pháp. Định tội không chính thức góp phần tạo thành dư luận xã hội về
pháp luật [50, tr.23].
1.2.2. Ý nghĩa
Định tội danh là một giai đoạn cơ bản của việc áp dụng các quy phạm pháp
luật hình sự. Định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội, đạo đức và pháp luật
rất lớn [50, tr.24]:
- Định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em đúng nhằm mục đích bảo
vệ quyền bất khả xâm phạm về tình dục của trẻ em, bảo đảm an ninh chính trị và
trật tự an tồn xã hội, góp phần đưa các quy định của pháp luật hình sự vào cuộc
sống, đây cũng là “một biểu hiện của việc thực hiện đúng biện pháp chính trị, thực
thi đúng chính trị, thực thi đúng ý chí của nhân dân đã được thể hiện trong luật,
bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của công dân” [50,
tr.24].
- Định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em đúng góp phần bảo đảm
hình phạt được thực thi một cách hiệu quả, nghiêm chỉnh, bởi đây chính là tiền đề
cho việc quyết định hình phạt cơng bằng đối với những người phạm tội. Đồng thời

13


thể hiện việc thực hiện nghiêm những cam kết quốc tế về quyền con người, quyền
trẻ em thông qua việc bảo đảm về an toàn và an ninh, trật tự xã hội đấu tranh phòng
chống lại hành vi phạm tội. Định tội danh sai không những xâm phạm quyền con
người, phải tiến hành các biện pháp khắc phục hậu quả, mà cịn làm giảm hiệu quả
của cơng tác đấu tranh với tình hình tội phạm và cùng lúc gây ra sự công phẫn hợp
pháp, công bằng của nhân dân, làm nảy sinh những quan niệm không đúng về thực
trạng và các biện pháp đấu tranh với tội phạm, làm giảm uy tín của các cơ quan tư

pháp.
* Về mặt pháp lý: Định tội danh đúng là cơ sở, tiền đề đầu tiên cho việc quyết
định hình phạt được đúng, là cơ sở để xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét
xử đúng, xác định thời hạn điều tra, truy tố, xét xử cũng như thời hạn áp dụng các
biện pháp ngăn chặn phù hợp với quy định của BLTTHS hiện hành đối với người
phạm tội nói chung.
1.3. Cơ sở và các giai đoạn định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em
1.3.1. Cơ sở định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Cơ sở pháp lý của định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em là toàn bộ
các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề định tội danh đối với
các tội phạm này. Theo quan điểm của các nhà khoa học pháp lý hình sự Việt Nam
hiện nay, có thể có hai cách tiếp cận đối với vấn đề cơ sở pháp lý của định tội
danh: - Trên bình diện rộng (hay hiểu theo nghĩa cả về nội dung và hình thức) và
Trên bình diện hẹp (chỉ hiểu theo nghĩa về nội dung).
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả phân tích trên bình diện hẹp
(theo nghĩa về nội dung).
Khi quy định tội phạm trong luật, nhà làm luật phải sử dụng các dấu hiệu
chung có tính chất đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật
hình sự, trong khoa học luật hình sự. Sự mơ tả này được gọi là CTTP. Đó là những
dấu hiệu điển hình và có tính lặp đi lặp lại ở tất cả những hành vi tội phạm thuộc
loại đó. Đây là những dấu hiệu thuộc khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan,
chủ thể của tội phạm, có những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả CTTP, có
những dấu hiệu có thể có trong CTTP này nhưng lại khơng có trong CTTP khác.

14


* Khách thể: Khách thể của các tội xâm phạm tình dục trẻ em là quyền bất
khả xâm phạm về tình dục của người dưới 16 tuổi.
* Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan các tội xâm phạm tình

dục trẻ em được thực hiện dưới dạng hành động phạm tội, đó là việc dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào các
hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô
với người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm,
khiêu dâm dưới mọi hình thức (ví dụ: Hoạt động xâm hại tình dục được thực hiện
do đồng thuận với người dưới 13 tuổi); do cưỡng bức, do hứa hẹn các lợi ích vật
chất (tiền, tài sản) hay các lợi ích phi vật chất (ví dụ: Cho điểm cao, đánh giá tốt,
tạo cơ hội tiến bộ...).
* Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS,
đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Đối với chủ thể của một số tội xâm hại tình dục như: Tội hiếp dâm trẻ em,
tội cưỡng dâm trẻ em, trong lý luận từ trước tới nay đều xác định đây là những tội
có chủ thể đặc biệt về giới tính: Nam giới là chủ thể của những tội phạm này cịn
nữ giới chỉ có thể tham gia với vai trò đồng phạm (người tổ chức, người xúi giục
hoặc người giúp sức). Tuy nhiên, với việc BLHS năm 2015 mở rộng phạm vi hành
vi khách quan thì chủ thể của các tội này và tội xâm phạm tình dục trẻ em khác là
chủ thể thường, có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định.
* Mặt chủ quan của tội phạm:Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý
bên trong của người phạm tội bao gồm: Lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.
Lỗi của người phạm tội trong nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em đều là lỗi
cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là hành vi nguy
hiểm cho xã hội nhưng vì những động cơ và mục đích khác nhau mà đều mong
muốn thực hiện hành vi đó. Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy
người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý. Tuy nhiên, khi truy cứu TNHS
đối với những người phạm các tội xâm phạm tình dục trẻ em thì động cơ phạm tội
khơng phải là dấu hiệu bắt buộc để định tội. Mục đích phạm tội là kết quả trong ý
thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm

15



tội. Mục đích phạm tội của những người phạm tội xâm phạm tình dục trẻ em là
muốn thỏa mãn nhu cầu tình dục của bản thân.
1.3.2. Các giai đoạn định tội danh các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Quá trình định tội danh bao gồm ba giai đoạn: [49, tr.88, 89]
- Trong giai đoạn đầu tiên, các dấu hiệu chung nhất của hành vi được xác
định, hay nói cách khác, xác định loại quan hệ pháp luật. Trong giai đoạn này, chủ
thể cần xác định hành vi được thực hiện trên thực tế có các dấu hiệu của tội phạm
hay khơng, hay hành vi đó chỉ được coi như một vi phạm pháp luật khác. Trong
trường hợp tìm thấy quan hệ pháp luật hình sự, nghĩa là trong hành vi của người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có các dấu hiệu phạm tội, lúc này q
trình định tội danh chuyển sang giai đoạn thứ hai.
Ví dụ: Trên cơ sở đơn trình báo của A về việc con gái là B (14-15 tuổi) bị
đối tượng C xâm hại tình dục (giao cấu nhiều lần). Chủ thể có thẩm quyền cần xác
định có việc cháu B bị xâm hại tình dục khơng, thời gian, địa điểm…để xác định
đây là quan hệ pháp luật hình sự hay là quan hệ yêu đương bình thường hoặc việc
trình báo sai sự thật của A.
- Trong giai đoạn thứ hai, nảy sinh quá trình xác định các dấu hiệu cùng loại
của hành vi phạm tội, hay nói cách khác, xác định tội phạm trên được nêu trong
chương nào của Bộ luật Hình sự, có thuộc Chương XIV các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người hay khơng, nếu có thì có
thuộc nhóm các tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi khơng.
Ví dụ: Cũng trong ví dụ trên, sau khi xác định có sự việc cháu B bị xâm hại
tình dục, chủ thể có thẩm quyền cần xác định (thông qua các lời khai, kết luận
giám định pháp ý tình dục…) hành vi trên có thuộc Chương XIV các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người hay không (cháu B có
dưới 16 tuổi khơng, có bị xâm hại tình dục khơng...).
- Giai đoạn thứ ba của q trình định tội danh là đối chiếu và so sánh các loại
dấu hiệu tội phạm. Cụ thể: Sau khi xác định rằng hành vi tội phạm này có liên
quan đến các tội xâm phạm tình dục trẻ em (người dưới 16 tuổi), Chương XIV Bộ

luật Hình sự, thì chủ thể cần làm sáng tỏ đó là tội gì: Tội hiếp dâm người dưới 16

16


tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội
dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích
khiêu dâm.Chính trong giai đoạn này việc so sánh được tiếp tục trong phạm vi của
một điều luật thuộc một chương cụ thể của Bộ luật Hình sự: Cấu thành cơ bản hay
cấu thành tội phạm với các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Mặt khác, giai đoạn
này chủ thể cần xác định: Vụ án có yếu tố đồng phạm không, là đồng phạm giản
đơn hay phạm tội có tổ chức, gồm những ai và vai trị của từng người là gì; hành
vi được thực hiện đã hoàn thành hay thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn
bị phạm tội, kiểm tra các vấn đề khác có liên quan… Kết thúc giai đoạn này đã có
căn cứ để xác định đối tượng đã thực hiện hành vi nào và hành vi này đã cấu thành
tội nào trong nhóm tội xâm phạm về tình dục trẻ em quy định tại BLHS, xác định
được các điều luật khác trong phần chung của BLHS được áp dụng để giải quyết
vụ án.
Ví dụ: Tiếp nối ví dụ trên, sau khi xác định hành vi xâm hại cháu B của C
thuộc nhóm các tội xâm phạm tình dục, chủ thể có thẩm quyền cần xác định hành
vi của B thuộc tội gì: Là tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ
đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi…giai đoạn nào, thuộc CTTP cơ
bản, tăng nặng hay giảm nhẹ…thông qua các chứng cứ thu thập như lời khai của
A, B, C; kết luận giám định pháp y tình dục, khám nghiệm hiện trường, trưng cầu
giám định dấu vết, độ tuổi của B, năng lực TNHS và độ tuổi của C…để xác định
điều, khoản, điểm áp dụng đối với hành vi của C.
1.4. Định tội danh các tội phạm cụ thể trong nhóm tội xâm phạm tình
dục trẻ em

1.4.1. Định tội danh tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định là hành vi dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của người dưới 16
tuổi hoặc dùng thủ đoạn khác thực hiện hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục

17


khác trái ý muốn của họ hoặc mọi trường hợp giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.
* Định tội danh theo CTTP cơ bản:
Tội này gồm 02 trường hợp. Đó là trường hợp nạn nhân từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi và trường hợp nạn nhân chưa đủ 13 tuổi.
Định tội danh theo CTTP cơ bản khi hành vi thỏa mãn các dấu hiệu sau:
- Dấu hiệu chủ thể của tội phạm
Theo quan niệm truyền thống và thực tiễn xét xử trước khi BLHS năm 2015
có hiệu lực thi hành thì chủ thể của tội này được xác định là chủ thể đặc biệt. Chủ
thể của tội hiếp dâm (người thực hành) là nam giới, nữ giới chỉ có thể tham gia
trong vụ án đồng phạm với vai trò là người xúi giục, người giúp sức, người tổ
chức. Với việc mở rộng phạm vi hành vi khách quan của tội hiếp dâm bao gồm
“hành vi quan hệ tình dục khác” và việc hướng dẫn của Nghị quyết 06/2019, thì
chủ thể của tội hiếp dâm bao gồm cả nữ giới với vai trò là người thực hành.
- Dấu hiệu mặt khách quan của tội phạm
+ Trong trường hợp nạn nhân từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, hành vi phạm
tội của tội này là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
khơng thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác để giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của nạn nhân.
Trái với ý muốn của nạn nhân “là người bị hại không đồng ý, phó mặc hoặc
khơng có khả năng biểu lộ ý chí của mình đối với hành vi quan hệ tình dục cố ý
của người phạm tội”[13, khoản 9, Điều 3].

Các hành vi trên đây được thực hiện bằng một trong những thủ đoạn sau:
+ Thủ đoạn dùng vũ lực: Đây là thủ đoạn dùng sức mạnh vật chất đè bẹp sự
kháng cự của nạn nhân chống lại hành vi của người phạm tội như xơ ngã, vật, giữ,
bóp cổ nạn nhân...
+ Thủ đoạn đe dọa dùng vũ lực: Đây là thủ đoạn làm ý chí của nạn nhân bị
tê liệt không chống lại hành vi của người phạm tội như dọa giết, dọa gây thương
tích cho nạn nhân.

18


+ Thủ đoạn lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của nạn nhân là việc
người phạm tội lợi dụng tình trạng người bị hại lâm vào một trong những hoàn
cảnh sau đây để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác [13, khoản
7, Điều 3].
a) Người bị hại khơng thể chống cự được (ví dụ: Người bị hại bị tai nạn, bị
ngất, bị trói, bị khuyết tật... dẫn đến không thể chống cự được);
b) Người bị hại bị hạn chế hoặc bị mất khả năng nhận thức, khả năng điều
khiển hành vi (ví dụ: Người bị hại bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc gây mê, ma
túy, thuốc an thần, thuốc kích thích, các chất kích thích khác, bị bệnh tâm thần
hoặc bị bệnh khác... dẫn đến hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức, khả năng điều
khiển hành vi).
+ Thủ đoạn khác bao gồm các thủ đoạn như đầu độc nạn nhân; cho nạn nhân
uống thuốc ngủ, thuốc gây mê, uống rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác
làm nạn nhân lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển
hành vi để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác; hứa hẹn cho tốt
nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài để giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác [13, khoản 8, Điều 3].
Trong trường hợp nạn nhân chưa đủ 13 tuổi, hành vi phạm tội của tội này
được quy định chỉ là hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác mà

khơng địi hỏi có đoạn phạm tội như trên.
- Dấu hiệu mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết hành vi giao
cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục của mình là trái ý muốn nạn nhân nhưng vẫn
mong muốn thực hiện hành vi đó bằng một trong những thủ đoạn nói trên.
* Định tội danh theo CTTP tăng nặng:
- Định tội danh theo CTTP tăng nặng thứ nhất khi hành vi thoả mãn CTTP
cơ bản và có các dấu hiệu định khung sau:
+ Có tính chất loạn luân: Là một trong các trường hợp sau đây [13, khoản 1,
Điều 4]:

19


×