Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG THANH HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.84 KB, 21 trang )

1

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN
XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CÔNG TY
CỔ PHẦN CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG THANH HOÁ
I. Những kết quả đã đạt được trong công tác tổ chức hoạt động kinh
doanh nói chung và công tác kế toán nói riêng ở Công ty.
Công ty cổ phần công trình giao thông Thanh Hoá từ khi thành lập
đến nay đã trải qua nhiều khó khăn thử thách và đạt được nhiều thành tựu
đóng góp đáng kể vào sự phát triển của đất nước trong công cuộc đổi mới.
Bằng chứng thể hiện rõ nhất là sau hơn 40 năm hoạt động trong ngành xây
lắp công ty đã không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, tạo điều kiện việc
làm cho nhiều lao động trong và ngoài tỉnh. Với cơ cấu hoạt động và chính
sách hoạt động hợp lý, có hiệu quả đã giúp công ty trở thành đơn vị xuất sắc
trong tỉnh. Có thể nói qua những mặt ưu điểm đã tạo nên hiệu quả trong hoạt
động của công ty như sau :
* Về tổ chức quản lý
Công ty đã xây dựng được bộ máy quản lý phù hợp với hệ thống
phòng ban được bố trí khoa học rõ ràng, phân chia nhiệm vụ cụ thể đảm
nhiệm những công việc cụ thể đáp ứng được tình hình hoạt động trong công
ty. Việc phân cấp giữa phòng ban tạo điều kiện cho việc kiểm soát chất
lượng thi công các công trình, hạng mục công trình. Mặt khác, các phòng
ban có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, phối kết hợp với nhau trong hoạt động,
luôn duy trì thường xuyên việc cung cấp, trao đổi thông tin, đáp ứng được
vai trò tham mưu cho lãnh đạo trong công tác quản lý.
* Về tổ chức sản xuất:
1
2

Bộ máy tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty được bố trí gọn nhẹ
khoa học, giúp việc thi công các công trình được thực hiện hiệu quả, công


tác giám sát tiến độ thi công và chất lượng công trình, hạng mục công trình,
nhanh chóng tìm ra nguyên nhân và đưa ra các phương pháp giải quyết
nhanh chóng và chính xác.
*Về tổ chức công tác kế toán:
Hiện tại, Công ty tổ chức công tác kế toán theo mô hình kết hợp giữa
tập trung và phân tán tương đối hoàn chỉnh, chặt chẽ, quy trình làm việc
khoa học với đội ngũ kế toán trẻ năng động có năng lực, ý thức trách nhiệm
cao và nhiệt tình trong công việc. Thêm vào đó là các điều kiện làm việc tốt
giúp kế toán viên phát huy được khả năng của mình. Công tác kế toán giữa
các xí nghiệp và Công ty được phân cấp một cách hợp lý theo từng phần
hành kế toán đã đảm bảo được sự không chồng chéo, thống nhất trong quản
lý kế toán tài chính. Nhờ đó đã đảm bảo được tính chính xác kịp thời trong
việc cung cấp thông tin cho nhà quản trị Công ty
* Về chứng từ và sổ sách kế toán :
Hệ thống chứng từ, sổ sách được tổ chức khá đầy đủ. Chứng từ được
phân loại tương đối rõ ràng và được sử dụng, lưu giữ một cách khoa học,
tuân thủ các quy định luật kế toán về sử dụng, luân chuyển và bảo quản
chứng từ. Các nghiệp vụ ghi trên sổ sách kế toán của Công ty phản ánh đúng
các khoản chi phí thực tế phát sinh tại công trưòng.
Về hình thức ghi sổ kế toán, hiện tại Công ty áp dụng hình thức chứng
từ ghi sổ cho cả phòng kế toán Công ty và các kế toán xí nghiệp trực thức.
Đây là hình thức sổ đơn giản, dễ ghi chép, thuận tiện trong việc phân công
lao động và cho việc áp dụng máy vi tính vào công tác kế toán.
2
3

* Về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành
Nhìn chung công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm xây lắp tại Công ty Cổ phần công trình giao thông Thanh Hóa tương
đối chặt chẽ và hợp lý, phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh donh

của Công ty. Công ty xác định đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính
giá thành là công trình, hạng mục công trình cho phép cung cấp thông tin
tổng hợp và chi tiết về chi phí sản xuất của từng công trình trong mỗi kỳ
hạch toán đáp ứng được yêu cầu quản lý. Mỗi công trình đều có giá trị dự
toán riêng do đó giúp Công ty có thể thường xuyên đối chiếu kịp thời phát
hiện ra những điểm sai sót để có biện pháp kịp thời. Ngoài ra, Công ty có hệ
thống sổ sách hợp lý gồm các Bảng kê, Bảng tổng hợp chi phí giúp cho công
tác tập hợp chi phí và tính giá thành được thực hiện nhanh và chính xác.
Công tác đánh giá kiểm kê khối lượng sản phẩm dở dang cũng được tổ chức
một cách khoa học, đúng theo quy định.
II. Nhận xét, đánh giá mặt tồn tại và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ
phần công trình giao thông Thanh Hoá.
Với xu thế phát triển hội nhập mạnh mẽ như ngày nay, đòi hỏi các
doanh nghiệp trong nền kinh tế cần phải liên tục đổi mới cơ chế hoạt động
khắc phục những tồn tại trong bộ máy quản lý, có những chính sách kinh tế
phù hợp, nhạy bén với sự biến động của nền kinh tế. Bên cạnh những thành
tựu đạt được, trong hoạt động của Công ty cổ phần công trình giao thông
Thanh Hoá vẫn tồn tại những mặt hạn chế cần hoàn thiện, đặc biệt là trong
công tác kế toán tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần công trình giao thông
Thanh Hoá, đựơc sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú, anh chị trong Công ty
3
4

nói chung và trong phòng tài chính kế toán nói riêng, em đã được nghiên
cứu, tìm hiểu thực tế hoạt động kinh doanh và công tác tài chính kế toán của
Công ty. Với góc độ nhìn nhận của một sinh viên em xin được đưa ra một số
ý kiến về những tồn tại trong công tác quản lý và hạch toán chi phí sản xuất
tính giá thành sản phẩm xây lắp.

1. Trong công tác quản lý
Hiện tại Công ty cổ phần công trình giao thông Thanh Hoá đang sử
dụng phương thức khoán gọn. Phương thức này phù hợp với các doanh
nghiệp xây lắp, có sản phẩm đơn chiếc, phạm vi địa bàn thi công rộng. Tuy
nhiên, phương thức khoán gọn mang nhược điểm thường thấy là việc tập
hợp chứng từ dễ tạo ra khe hở trong quản lý tài chính, có thể dẫn đến tình
trạng chiếm dụng vốn. Ngoài ra, chi phí phát sinh ở công trình khá nhiều do
vậy cần đáp ứng vốn thường xuyên đảm bảo cho tiến độ thi công các công
trình. Vì vậy, cần phải tiến hành cấp vốn theo tiến độ thi công công trình.
Theo mô hình phân cấp quản lý ở Công ty thì các xí nghiệp đều có
chức năng và thẩm quyền ngang nhau và đều đặt dưới sự quản trực tiếp của
lãnh đạo công ty. Với việc phân quyền như vậy sẽ tạo ra sự cồng kềnh trong
việc quản lý các đơn vị trực thuộc cũng như tạo ra gánh nặng khá lớn đối với
phòng tài chính kế toán trong việc tổng hợp số liệu.
2. Trong công tác kế toán.
* Về hệ thống tài khoản áp dụng
Hiện tại, Công ty vẫn đang áp dụng chế độ kế toán trong các doanh
nghiệp xây lắp ban hành theo Quyết định số 1864/1998/QĐ-BTC của Bộ Tài
chính ngày 16/12/1998 là quá cũ, vì vậy, theo em Công ty nên áp dụng quyết
định số 15/2006/QĐ – BTC ban hành ngày 20/3/2006 để thống nhất các tài
khoản sử dung trong các doanh nghiệp tạo điều kiên cho việc kiểm tra đối
soát. Mặt khác, hầu hết các tài khoản công ty sử dụng đều ở dạng tài khoản
4
5

tổng hợp cấp một. Một số tài khoản được chi tiết thành tài khoản cấp 2 lại
được chi tiết theo yêu cầu quản lý của công ty chứ chưa có tài khoản được
mở theo quy định của bộ Tài chính đối với ngành xây lắp. Khi hạch toán các
nghiệp vụ thanh toán liên quan đến nội bộ giữa xí nghiệp và Công ty, kế
toán sử dụng TK 136 và TK 336 chưa thực sự hợp lý. Do các xí nghiệp

không mang tư cách pháp nhân và có con dấu riêng nên khi hạch toán tạm
ứng nội bộ Công ty nên sử dụng TK 141 thì chính xác hơn. Đặc biệt chi phí
sử dụng máy thi công là khoản mục chi phí riêng có của ngành và được hạch
toán trên tài khoản 623, song công ty lại sử dụng TK 627 để hạch toán, do
đó Công ty cần có sự điều chỉnh sử dụng tài khoản hợp lý với chế độ kế toán
quy định.
* Về hệ thống chứng từ, sổ kế toán
Hiện tại hệ thống chứng từ, sổ kế toán tại Công ty sử dụng chưa nhất
quán theo chế độ kế toán mới theo quyết định số 15/2006/QĐ – BTC, mà sử
dụng theo chế độ kế toán trong các doanh nghiệp xây lắp ban hành theo
Quyết định số 1864 / 1998/QĐ – BTC hoặc 1 số mẫu chứng từ của Công ty
lại theo Quyết định số 1141/1995/QĐ-BTC ngày 1/1/1995 như Thẻ kho,
Phiếu xuất kho, Phiếu nhập kho... Theo em Công ty nên sử dụng nhất quán
mẫu biểu chứng từ và sổ sách kế toán theo quyết định số 15/2006/QĐ – BTC
ban hành ngày 20/3/2006.
Bên cạnh đó, trên thực tế khi ghi sổ các nghiệp vụ phát sinh Công ty
không lưu chứng từ đầy đủ chứng minh cho nghiệp vụ phát sinh. Điều này
sai với quy định về ghi sổ kế toán và Công ty phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm với sự sai sót này. Do đó, theo em Công ty nên có quy định chặt chẽ
hơn nữa việc ghi sổ các nghiệp vụ phát sinh tránh được rủi ro xảy ra và làm
cho tình hình tài chính được thêm minh bạch.
5
6

Trong hạch toán tổng hợp Công ty sử dụng hình thức ghi sổ là chứng từ
ghi sổ, song lại không có Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ, thay vào đó Công ty
sử dụng Bảng kê phát sinh bên có TK để tổng hợp số liệu trước khi chuyển
sang sổ cái. Như vậy, sẽ không theo dõi được chứng từ ghi sổ gây khó khăn
cho việc kiểm tra đối chiếu và sai với quy định của chế độ. Do đó, theo em
Công ty nên mở sổ đăng ký chứng từ ghi sổ để ghi chép các nghiệp vụ kinh

tế phát sinh.
Trình tự ghi sổ : Sau khi vào chứng từ ghi sổ, kế toán căn cứ vào số
tổng cộng trên chứng từ ghi sổ ghi vào cột số tiền và ghi số hiệu chứng từ
ghi sổ vào cột số hiệu trên Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ. Sổ đăng ký chứng từ
ghi sổ có mẫu như sau :
SỔ ĐĂNG KÝ CHỨNG TỪ GHI SỔ
Chứng từ ghi sổ
Số tiền
Chứng từ ghi sổ
Số tiền
Số hiệu Ngày tháng Số hiệu Ngày tháng
A B 1 A B 1
Cộng tháng
Cộng luỹ kế từ đầu quý
Cộng tháng
Cộng luỹ kế từ đầu quý
* Về quá trình luân chuyển chứng từ
Hiện tại Công ty áp dụng phương thức khoán gọn trong thi công, theo
đó các xí nghịêp chủ động trong việc cung ứng các yếu tố phục vụ cho thi
công, do đó, các chứng từ chi phí đều do kế toán xí nghiệp lập và ghi chép.
Sự yếu kém của kế toán tại các xí nghiệp và đặc điểm của tổ chức sản xuất
kinh doanh xây lắp đã làm trở ngại cho quá trình luân chuyển chứng từ.
Ngoài ra, Công ty áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên để hạch toán
tổng hợp hàng tồn kho, tức là Công ty phải tiến hành cập nhật chứng từ vào
6
7

sổ sách khi có nghiệp vụ phát sinh để có thể tính được ngay số lượng nhập
xuất tồn. Tuy nhiên, công tác này ở Công ty lại được cập nhật vào cuối
tháng sẽ làm chậm công tác tính giá thành và lên sổ sách.

Do đó, theo em Công ty nên rút ngắn thời gian cập nhật chứng từ khi
có nghiệp vụ phát sinh có thể là định kỳ một tuần khi kế toán nhận được các
chứng từ gốc, làm giảm khối lượng công việc của kế toán vào cuối tháng.
Ngoài ra, Công ty nên có những khoá tập huấn ngắn hạn cho đội ngũ kế toán
xí nghiệp giúp nâng cao năng lực chuyên môn và tăng sự phối kết hợp giữa
kế toán Công ty và kế toán tại xí nghiệp.
* Về chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Hiện tại có những chi phí không thuộc khoản mục chi phí này nhưng
vẫn được hạch toán vào chi phí phát sinh trong kỳ, ví dụ như các loại công
cụ dụng cụ như giàn giáo,cốp pha, ván…Vì những công cụ dụng cụ này
được sử dụng cho nhiều kỳ hoạt động, luân chuyển cho nhiều công trình sử
dụng. Việc hạch toán nhầm vào khoản mục chi phí NVLTT những chi phí
công cụ dụng cụ này sẽ phản ánh không chính xác tổng chi phí khi so sánh
với dự toán chi phí của khoản mục chi phí NVLTT.
Ngoài ra, để tiết kiệm được chi phí NVLTT hạ thấp giá thành sản
phẩm xây lắp, Công ty phải có biện pháp bảo quản tốt nguyên vật liệu tập
kết ở các công trình thi công như có lán trại đủ tốt để tránh thời tiết mưa
nắng cũng như mất mát. Các xí nghiệp khi mua NVL sử dụng cho thi công
công trình cần lưu ý lựa chọn những nhà cung cấp uy tín, đảm bảo chất
lượng NVL và giá thành hợp lý. Đối với những công trình hoặc phần công
việc phá đi làm lại, Công ty nên tận dụng phế liệu thu hồi và làm thủ tục
nhập lại đưa vào sử dụng cho các công trình khác.
* Về hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
7
8

Hiện tại, Công ty hạch toán vào khoản mục chi phí này có cả phần
trích theo lương của lao động trực tiếp có trong danh sách của công ty
( trong hợp đồng giao khoán, đơn giá khoán tiền lương của công nhân đã bao
gồm cả khoản trích theo lương ). Do đó trong chi phí nhân công trực tiếp sẽ

bao gồm cả khoản trích theo lương, mà theo cách phân loại chi phí trong
doanh nghiệp xây lắp thì khoản trích này được hạch toán vào chi phí sản
xuất chung. Việc làm như vậy đã làm tăng một phần chi phí nhân công trực
tiếp so với dự toán và tạo ra sai số trong phân tích khoản mục chi phí này
cũng như đánh giá hiệu quả sử dụng lao động.
Để khoản mục chi phí nhân công trực tiếp được chính xác hơn, Công
ty nên tách riêng các khoản trích theo lương ra khỏi khoản mục này. Bằng
cách căn cứ vào bảng thanh toán BHXH Công ty báo xuống, kế toán lấy
tổng số tiền lương phải trả trừ đi tổng số BHXH phải nộp của công nhân trực
tiếp để tính chi phí nhân công trực tiếp.
* Về hạch toán chi phí sử dụng máy thi công
Thứ nhất: Công ty sử dụng TK 627 để hạch toán toàn bộ chi phí máy
thi công thuê ngoài và trong công ty, chi phí nhiên liệu sử dụng để chạy
máy. Như vậy, khoản mục chi phí máy thi công không được tách biệt với
khoản mục chi phí sản xuất chung, không thực hiện đúng theo quy định của
chế độ kế toán trong doanh nghiệp xây lắp.
Thứ hai: Ở các xí nghiệp có những máy thi công có giá trị nhỏ không
được xem là TSCĐ mà được phân loại là công cụ dụng cụ để phân bổ dần
vào chi phí phát sinh trong kỳ. Tuy nhiên hiện tại, Công ty sử dụng tiêu thức
phân bổ không chính xác và phụ thuộc nhiều hơn vào chủ quan của người
làm kế toán. Trên thực tế có rất nhiều máy thi công đã phân bổ hết giá trị
nhưng đến kỳ sau vẫn đang sử dụng được. Mặt khác, khi hạch toán số chi
8

×