Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người lao động trong doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (897.32 KB, 81 trang )

THÂN VĂN THẾ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG ĐỐI
VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG

THÂN VĂN THẾ

2017 - 2019
HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO
ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG DOANH
NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG


THÂN VĂN THẾ

CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ

: 8380107

Người hướng dẫn khoa học: TS.VŨ MINH TIẾN

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Đào tạo sau Đại học – Trường đại học Mở Hà
Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Đào tạo sau đại học - Trường
đại học Mở Hà Nội xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả luận văn


Thân Văn Thế


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hồn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh
sự nỗ lực, cố gắng của bản thân cịn có sự hướng dẫn nhiệt tình của q thầy cơ,
cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp trong suốt thời
gian học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến thầy TS.Vũ Minh Tiến, người đã hết
lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tơi hồn thành luận văn này. Xin
chân thành bày tỏ lịng biết ơn đến tồn thể q thầy cơ khoa Đào tạo sau Đại học
–Trường đại học Mở Hà Nội đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng
như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên
cứu cho đến khi thực hiện đề tài luận văn.

Hà Nội, ngày

tháng

Học viên thực hiện

Thân Văn Thế

năm 2019


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO

ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP
LUẬT.......................................................................................................................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối
với người lao động trong doanh nghiệp................................................................6
1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người
lao động trong doanh nghiệp.....................................................................................6
1.1.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người
lao động trong doanh nghiệp.....................................................................................7
1.2. Điều chỉnh của pháp về bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động
đối với người lao động trong doanh nghiệp..........................................................8
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động..........................8
1.2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao
động...........................................................................................................................9
1.3. Vai trò của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động....................18
Kết luận chương 1.................................................................................................20
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC GIANG..........................................................................................21
2.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người sử
dụng lao động trong doanh nghiệp..................................................................21
2.1.1. Các trường hợp bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động trong
doanh nghiệp .....................................................................................................21
2.1.2. Giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối
với người lao động trong doanh nghiệp .................................................................42


2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
người sử dụng lao động đối với người lao động trong doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang...............................................................................................43

2.2.1. Những kết quả đạt được................................................................................44
2.2.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân..................................................................50
Kết luận chương 2.................................................................................................58
Chương 3: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA NGƯỜI SỬ DỤNG
LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP TỪ
THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG.......................................................................59
3.1. Những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao
động đối với người lao động.................................................................................59
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
người sử dụng lao động đối với người lao động trogn doanh nghiệp...............63
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người lao động trong
doanh nghiệp từ thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Bắc Giang....................67
Kết luận chương 3.................................................................................................70
KẾT LUẬN............................................................................................................71
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................72


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Nghĩa của từ viết tắt

BLLĐ

Bộ luật lao động

LLĐ


Luật lao động

BTTH

Bồi thường thiệt hại

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, quan hệ pháp luật lao động
giữa người sử dụng lao động với người lao động trong các doanh nghiệp được coi là
một trong những quan hệ pháp luật phổ biến và quan trọng. Khi tham gia vào quan
hệ lao động, các chủ thể có khả năng gặp rủi ro gây thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, tinh thần... mà nguyên nhân có thể là do chủ quan hoặc khách quan gây ra.
Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị thiệt hại, Bộ luật lao động
(BLLĐ) năm 2012 đã quy định cụ thể các trường hợp về Bồi thường thiệt hại
(BTTH) trong quan hệ lao động, ví dụ như: BTTH do đơn phương chấm dứt Hợp

đồng lao động (HĐLĐ) trái pháp luật; BTTH về tiền lương; BTTH về sức khỏe,
tính mạng; BTTH về tài sản của Người sử dụng lao động (NSDLĐ)...
BLLĐ năm 2012 và các văn bản hướng dẫn đã từng bước hoàn thiện chế
định về BTTH trong lao động. Trong bối cảnh thị trường lao động thường có biến
động theo cung cầu, việc phát sinh những mâu thuẫn về quyền và lợi ích giữa các
bên là khó tránh khỏi. Thực tế, tình hình tranh chấp về lao động đang diễn ra ngày
càng phức tạp và có chiều hướng gia tăng về số lượng gây ảnh hưởng đến đời sống
của người lao động, danh dự, uy tín của người sử dụng lao động. Để xây dựng quan
hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên trong quan hệ lao động thì việc xây dựng chế định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người lao động có ý nghĩa hết sức quan
trọng. BLLĐ năm 2012 đã ghi nhận một số thay đổi về nguyên tắc xử lý BTTH, quy
định trách nhiệm BTTH cho người lao động theo tỷ lệ thương tật, thay đổi mức tính
BTTH theo lương tối thiểu vùng... Tuy nhiên, các quy định pháp luật về BTTH
trong lao động hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc, việc áp dụng các quy định về
BTTH trong lao động vào thực tiễn còn nhiều bất cập. Hiện nay, do tính chất phức
tạp của quan hệ lao động nên các tranh chấp lao động về BTTH phát sinh ngày càng
nhiều, gây ảnh hưởng đến đời sống của người lao động, danh dự, uy tín của
NSDLĐ. Do đó, u cầu đặt ra là cần phải hệ thống hóa được các trường hợp BTTH

1


hiện nay theo Luật lao động (LLĐ), quy định chặt chẽ về cơ sở bồi thường; mức bồi
thường; giải quyết các tranh chấp về bồi thường, đảm bảo sự tuân thủ của các chủ
thể. Tác giả chọn đề tài “Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
người sử dụng lao động đối với người lao động trong doanh nghiệp từ thực tiễn
tỉnh Bắc Giang” sẽ góp phần nâng cao nhận thức pháp luật về các trường hợp
BTTH của người sử dụng lao động đối với người lao động trong doanh nghiệp, thực
tiễn áp dụng các quy định về BTTH của người sử dụng lao động đối với người lao

động trong doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang và đưa ra một số kiến nghị,
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các chế định này trong thực tế.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Pháp luật về BTTH trong lĩnh vực lao động là một vấn đề có ý nghĩa quan
trọng trong việc đảm bảo quan hệ lao động được hài hòa, ổn định, tiến bộ. Đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ lao động. Từ khi BLLĐ năm
2012 ra đời, các cơng trình nghiên cứu trước đây thường chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu một số khía cạnh của BTTH trong lao động, ví dụ như:
- Nghiên cứu “Chế độ bồi thường trong Luật Lao động Việt Nam” (2006),
tác giả PGS.TS Nguyễn Hữu Chí – chủ biên. Tác giả đề cập đến vấn đề bồi thường
thiệt hại trong LLĐ theo quy định hiện hành. Từ đó, chỉ rõ những khó khăn, vướng
mắc trong q trình thực hiện và phương hướng hoàn thiện đối với vấn đề này.
- Luận văn “Bồi thường thiệt trong pháp luật lao động Việt Nam và thực
tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” (2014) của tác giả Nguyễn Thị Bích
Nga – Đại học quốc gia Hà Nội. Tác giả đã tập trung nêu rõ một số vấn đề lý luận
về BTTH và điều chỉnh của pháp luật lao động. Đi sâu nghiên cứu về lịch sử hình
thành và phát triển pháp luật về BTTH trong pháp luật lao động. Thực trạng thi
hành các quy định về BTTH trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả BTTH trong pháp luật lao động Việt Nam.
- Luận văn “Trách nhiệm vật chất trong Luật lao động Việt Nam – thực
trạng và phương hướng hoàn thiện” (2010) của tác giả Nguyễn Thị Hường – Đại
học Quốc gia Hà Nội. Trong đó, luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy

2


đủ các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến trách nhiệm vật chất, vấn đề
trách nhiệm vật chất trong kỷ luật lao động và vai trò quan trọng của trách nhiệm
vật chất đối với doanh nghiệp, so sánh với pháp luật lao động về trách nhiệm vật
chất của một số nước trên thế giới. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng để đưa

ra các đánh giá tổng quan về thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm vật chất
và nêu lên các kiến nghị có thể áp dụng cho Việt Nam trong việc hồn thiện về vấn
đề này và xây dựng cơ chế cho việc áp dụng chúng một cách phù hợp với pháp luật
và tập qn quốc tế.
Ngồi ra, cũng có thể kể đến một số nghiên cứu liên quan khác như: Luận
văn “Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động – những vấn đề lý luận
và thực tiễn” (2013) của tác giả Nguyễn Thị Hoa Tâm – Đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh; Luận văn “Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án theo pháp luật Việt
Nam” (2013) của tác giả Lê Thị Hường – Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận văn “An
toàn lao động và vệ sinh lao động theo pháp luật lao động Việt Nam” (2013) của tác
giả Cấn Thị Thùy Dung – Đại học Quốc gia Hà Nội...
Tuy nhiên, các cơng trình trên chủ yếu nghiên cứu dưới một góc độ của
pháp luật về BTTH trong lao động chứ chưa có cái nhìn toàn diện, bao quát về bồi
thường thiệt hại trên thực tế cũng nhưng trong giải quyết tranh chấp về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người lao động trong doanh
nghiệp. Do vậy luận văn này đã nghiên cứu, đưa ra một góc nhìn tổng quát, chuyên
sâu về hệ thống các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của người sử dụng lao động đối với người lao động trong doanh nghiệp, đánh
giá thực trạng thực hiện chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người sử
dụng lao động đối với người lao động trong doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang. Từ những bất cập, vướng mắc và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao
động đối với người lao động trong doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay.

3


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là góp phần đánh giá thực trạng các quy
định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối

với người lao động trong doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Từ đó kiến
nghị hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người lao động trong doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có
nhiệm vụ:
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam về vấn đề trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người lao động trong doanh
nghiệp
- Nghiên cứu tình hình vi phạm pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của người sử dụng lao động đối với người lao động trong doanh nghiệp từ thực
tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
- Nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối
với người lao động từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với
người lao động trong doanh nghiệp; thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người lao động trong doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào nội dung: Các trường hợp về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người lao động
trong doanh nghiệp; Giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại của người sử dụng
lao động đối với người lao động trong doanh nghiệp; Thực tiễn thực hiện pháp luật
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người lao
động trong doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.

4



5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng phép biện chứng duy vật
của Triết học Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm phương pháp luận cho việc
nghiên cứu. Ngồi ra luận văn cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp so sánh, chứng minh... để nghiên cứu các vấn đề thuộc phạm vi
nghiên cứu của đề tài theo nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn góp phần củng cố, hồn thiện cơ sở lý luận về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người lao động trong doanh
nghiệp, cũng đóng góp một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về bồi

thường thiệt hại trong quan hệ lao động trên cơ sở khoa học. Đồng thời, ở
mức độ nhất định luận văn cũng cung cấp những kiến thức hữu ích cho những
người làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực lao động để áp dụng pháp luật bồi
thường thiệt hại một cách hiệu quả.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
người sử dụng lao động đối với người lao động trong doanh nghiệp và sự điều chỉnh
của pháp luật
Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
người sử dụng lao động và thực tiễn thực hiện tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang
Chương 3: Giải pháp, kiến nghị nâng cao thực hiện về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của người sử dụng lao động trong doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh
Bắc Giang.

5



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA
NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO
ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP VÀ SỰ ĐIỀU
CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm, đặc điểm bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối
với người lao động trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người
lao động trong doanh nghiệp
Quá trình tồn tại và phát triển các mối quan hệ xã hội của từng cá nhân đều
có khả năng gặp phải những rủi ro, thiệt hại về vật chất, tinh thần, nặng hơn có thể
là thiệt hại về sức khỏe, tính mạng. Ngun nhân có thể do lỗi chủ quan hoặc khách
quan. Thiệt hại có thể phân làm hai loại là thiệt hại về vật chất (gồm những tài sản
bị mất, bị hủy hoại, bị hư hỏng, chi phí phải bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn thiệt hại
cùng hoa lợi, lợi tức không thu được mà đáng lẽ phải thu được) và những tổn thất
về tinh thần như danh dự, uy tín, tên tuổi, nhân thân là những yếu tố có vai trị trong
việc tạo lập, duy trì và phát triển các mối quan hệ cá nhân và cộng đồng của chủ thể
bị xâm hại.
Bồi thường là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó khi một người vi
phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho chủ thể khác nhằm khơi phục tình
trạng tài sản, bù đắp, khắc phục tổn thất về vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại
[12; tr.10]
Vấn đề bồi thường thiệt hại được quy định khá chi tiết trong các ngành luật
khác nhau như: Luật dân sự, luật Hình sự, luật Lao động, luật Thương mại… thơng
qua đó, Nhà nước đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể khi tham gia các quan
hệ pháp luật khác nhau.


6


Với quan điểm phân hệ thống pháp luật thành các ngành luật thì vấn đề bồi
thường thiệt hại thường được xem như lĩnh vực đặc trưng của luật dân sự. Tuy
nhiên, đây là loại chế định có phạm vi rộng, liên quan đến nhiều loại quan hệ pháp
luật khác nhau. Nếu quan hệ bồi thường phát sinh do một trong các bên của quan hệ
lao động gây thiệt hại cho bên kia khi thực hiện quyền và nghĩa vụ lao động thì do
LLĐ điều chỉnh.
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Chí thì “Bồi thường thiệt hại trong LLĐ là một
loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi một bên trong quan hệ lao động có hành vi vi
phạm nghĩa vụ, gây thiệt hại cho bên kia nhằm khơi phục tình trạng tài sản, bù đắp
tổn thất về tinh thần, sức khỏe cho người bị thiệt hại” [11, tr.45].
Từ những nghiên cứu về bồi thường thiệt hại ở những góc độ pháp luật
khác nhau, có thể đưa khái niệm chung về bồi thường thiệt hại của người sử dụng
lao động đối với người lao động như sau: Bồi thường thiệt hại của người sử dụng
lao động đối với người lao động là một loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi người
sử dụng lao động hoặc quan hệ liên quan đến quan hệ lao động, có hành vi trực tiếp
hay gián tiếp gây thiệt hại cho người lao động, nhằm bù đắp những tổn thất về vật
chất, sức khỏe, tinh thần cho người lao động.
1.1.2. Đặc điểm bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người
lao động trong doanh nghiệp
Bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người lao động là
một loại trách nhiệm pháp lý phát sinh từ quan hệ lao động nên ngoài những đặc
điểm của trách nhiệm pháp lý như: Do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng;
áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật; luôn mang đến hậu quả bất
lợi cho chủ thể bị áp dụng và được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế
Nhà nước… thì bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người lao
động còn mang những đặc điểm riêng sau đây:
Về cơ sở pháp lý

Bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người lao động là
một loại trách nhiệm pháp lý chịu sự điều chỉnh của pháp luật lao động. Quan hệ

7


bồi thường phát sinh khi người sử dụng lao động trong quan hệ lao động gây thiệt
hại cho người lao động và người lao động có yêu cầu bồi thường.
Về điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường
Bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động đối với người lao động chỉ
được đặt ra khi thỏa mãn các điều kiện nhất định như: Có thiệt hại xảy ra; có hành
vi vi phạm pháp luật lao động gây thiệt hại; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
gây thiệt hại và sự thiệt hại xảy ra; có lỗi của người sử dụng lao động. Đây là những
điều kiện phải chứng minh khi áp dụng trách nhiệm Bồi thường thiệt hại của người
sử dụng lao động đối với người lao động.
Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm:

Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là người sử dụng lao
động. Trong quan hệ lao động, khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trên
cơ sở hợp đồng lao động, người sử dụng lao động vì mục tiêu của mình hoặc
do điều kiện nào đó khơng thuận lợi mà khơng đảm bảo an tồn, vệ sinh lao
động gây thiệt hại cho người lao động về tính mạng, sức khoẻ, nhân cách...
1.2. Điều chỉnh của pháp luật về bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao
động đối với người lao động trong doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động
đối với người lao động trong doanh nghiệp
Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động là một bộ phận của pháp
luật lao động. Nó bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội phát sinh về bồi
thường thiệt hại và giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại trong lao động.

Về phương diện pháp lý, trong quan hệ lao động, khi NLĐ và NSDLĐ xác
lập một quan hệ lao động thì giữa họ xuất hiện quan hệ nghĩa vụ. Nghĩa vụ này có
thể do pháp luật quy định hoặc do các bên tự thỏa thuận với nhau trong hợp đồng
lao động. Do đó, khi một bên vi phạm nghĩa vụ (không thực hiện, hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ) gây thiệt hại cho bên kia về tính mạng, sức khỏe, tài
sản… thì phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi mà pháp luật đã dự liệu trước đó,

8


đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Như vậy, pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động là cơ sở pháp lý
để mọi cá nhân, tổ chức, thành phần kinh tế đều được bình đẳng trong quan hệ lao
động. Đối với NLĐ, bồi thường thiệt hại giúp bảo đảm về quyền và lợi ích cho bản
thân NLĐ và gia đình họ khi tham gia vào quan hệ lao động. Nội dung của pháp
luật về BTTH trong lao động bao gồm tổng thể các quy định của pháp luật có liên
quan như: Các trường hợp BTTH trong lao động; căn cứ áp dụng trách nhiệm
BTTH trong lao động…
1.2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động
1.2.2.1. Nguyên tắc thực hiện bồi thường thiệt hại trong lao động
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại theo Luật lao động được hiểu là những tư
tưởng chỉ đạo có tính chất bắt buộc, xun suốt các quy phạm pháp luật lao động về
bồi thường thiệt hại trong các quan hệ pháp luật lao động. Những nguyên tắc này
cũng là những tư tưởng có tính chất định hướng đối với hoạt động giải quyết tranh
chấp về bồi thường thiệt hại trong thực tế. Cụ thể là những nguyên tắc sau đây:
- Bồi thường thiệt hại thực tế và kịp thời
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết vấn đề bồi
thường thiệt hai nói chung, vấn đề bồi thường thiệt hại theo LLĐ nói riêng bởi căn
cứ đầu tiên để xác định trách nhiệm bồi thường là phải có thiệt hại về tài sản hoặc
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe… về mặt thực tế, để xác định chính xác mức độ bồi

thường nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên.
Trong quan hệ pháp luật lao động, khi một bên gây thiệt hại cho bên kia về
tài sản, tính mạng, sức khỏe, bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu được bồi thường theo
đúng những thiệt hại thực tế mà họ phải gánh chịu. Nghĩa là bên gây thiệt hại làm
tổn hại, mất mát, hư hỏng hoặc giảm sút về giá trị vật chất ở mức nào thì phải bồi
thường theo thời giá thị trường những thiệt hại thực tế mà tại thời điểm xảy ra thiệt
hại đã xác định. Việc xác định ngun tắc bồi thường này nhằm đảm bảo tính cơng
bằng của pháp luật, tạo niềm tin cho mọi công dân về công lý và công bằng xã hội.
Tuy nhiên, trong trường hợp NLĐ bị thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, việc xác định

9


mức thiệt hại thực tế rất khó chính xác. Do đó, việc bồi thường của NSDLĐ trong
trường hợp này chỉ là một biện pháp nhằm bảo vệ NLĐ trong quan hệ lao động như:
Bố trí việc làm phù hợp; trả lương trong thời gian điều trị tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp; bồi thường theo mức luật định…
Cũng theo nguyên tắc này, việc giải quyết bồi thường theo pháp luật lao
động cần được thực hiện nhanh chóng, kịp thời. Có như vậy mới kịp thời khơi phục
các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của bên bị thiệt hại. Bồi thường kịp thời
có ý nghĩa to lớn trong việc giúp người bị thiệt hại nhanh chóng khắc phục khó
khăn, ổn định cuộc sống hay sản xuất, đặc biệt đối với những trường hợp bồi
thường thiệt hại về sức khỏe đối với người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp – là những người gặp khó khăn do mất thu nhập và phải điều trị thương tật.
Nguyên tắc bồi thường nhanh chóng, kịp thời đối với các thiệt hại cịn thể hiện tính
chất dân chủ và cơng bằng. Trên cơ sở đó tạo cho bên gây thiệt hại ý thức trách
nhiệm và tơn trọng quyền lợi của phía bên kia [12; tr.15]
- Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải căn cứ vào lỗi của người
gây thiệt hại
Lỗi được xem là thước đo của trách nhiệm pháp lý, nó là kết quả của sự tự

lựa chọn và quyết định của một chủ thể trong khi chủ thể đó có đủ điều kiện khách
quan và chủ quan để lựa chọn một xử sự khác phù hợp hơn với yêu cầu của xã hội.
Nhưng vì chủ thể đã lựa chọn và thực hiện hành vi gây thiệt hại nên chủ thể đó sẽ bị
coi là có lỗi trong hành vi trái pháp luật gây thiệt hại của mình. Lỗi trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của pháp luật lao động cũng như trong Luật dân sự được
chia làm hai loại là lỗi vô ý và lỗi cố ý. Lỗi cố ý là lỗi của một bên nhận thức rõ
hành vi của mình vi phạm pháp luật lao động và sẽ gây thiệt hại cho phía bên kia
mà vẫn thực hiện dù mong muốn hoặc khơng mong muốn nhưng có ý thức để mặc
cho thiệt hại xảy ra. Lỗi vô ý là lỗi của một bên không thấy trước được hành vi của
mình có khả năng gây ra thiệt hại cho bên kia dù phải biết hoặc có thể biết trước
thiệt hại sẽ xảy ra nhưng cho rằng thiệt hại sẽ khơng xảy ra hoặc có thể ngăn chặn
được.

10


Tuy nhiên pháp luật lao động với điểm đặc thù là bảo vệ NLĐ nên những
quy định về chế độ bồi thường thiệt hại trong sẽ có nhiều điểm khác biệt so với các
ngành luật khác. Trong một số trường hợp NSDLĐ dù khơng có lỗi nhưng về
ngun tắc vẫn phải bồi thường cho NLĐ hoặc có trường hợp NLĐ vi phạm kỷ luật
lao động gây thiệt hại nhưng NSDLĐ không thể áp dụng trách nhiệm vật chất đối
với họ.
- Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải căn cứ vào khả năng kinh
tế, ý thức, thái độ của người gây thiệt hại
Thông thường, khi xác định trách nhiệm bồi thường theo Bộ Luật lao động
cần dựa trên các căn cứ luật định để xác định mức bồi thường của bên gây thiệt hại.
Tuy nhiên, không phải bao giờ bên gây thiệt hại cũng phải bồi thường toàn bộ
những thiệt hại do mình gây ra. Trong thực tế, trách nhiệm bồi thường cịn được xác
định dựa vào hồn cảnh kinh tế của bên gây thiệt hại. Nguyên tắc này được khuyến
khích áp dụng đối với trách nhiệm bồi thường theo Bộ Luật lao động do xuất phát

từ tính chất xã hội của quan hệ lao động. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong trường
hợp người phải bồi thường là NLĐ, bởi họ là người khơng có khả năng về tiền bạc,
là người làm thuê, bán sức lao động để có thu nhập ni sống bản thân và gia đình...
Mặt khác, nếu người gây thiệt hại đã thấy được lỗi của mình và tỏ ra ăn
năn, hối lỗi thì trách nhiệm bồi thường cũng không nên xác định quá nghiêm khắc
nhằm tạo cho họ cơ hội để tự ý thức được trách nhiệm, điều chỉnh hành vi khi tham
gia quan hệ pháp luật lao động. Điều này cịn có tác dụng làm dịu đi những bất đồng
giữa các bên trong quan hệ lao động, giúp cho các bên thiện chí hơn nếu tiếp tục
hợp tác với nhau.
- Bồi thường toàn bộ, ngang giá và hoặc bồi thường một phần thiệt hại gây
ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại vừa theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ,
ngang giá những thiệt hại xảy ra, vừa theo nguyên tắc bồi thường một phần thiệt hại
xảy ra. Thông thường, nếu bên bồi thường là NSDLĐ thì thường áp dụng theo
ngun tắc bồi thường tồn bộ thiệt hại theo thời giá thị trường; ngược lại, bên bồi

11


thường là NLĐ thì mức bồi thường có thể là một phần hoặc toàn bộ thiệt hại tùy
từng trường hợp cụ thể. Hơn nữa, trong quan hệ lao động, pháp luật chỉ quy định
trường hợp bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho NLĐ, cịn vấn đề bồi
thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho NSDLĐ khơng được đặt ra. Điều này
vừa phù hợp với đặc điểm của quan hệ lao động, vừa phù hợp với điều kiện và khả
năng thực tế của mỗi bên trong quan hệ lao động. [12; tr.15]
1.2.2.2. Căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lao động
Thông thường, các căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
lao động cũng giống như căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường dân sự, bao gồm:
- Có hành vi vi phạm của bên gây thiệt hại
Hành vi vi phạm pháp luật thường được biểu hiện ở hành động vi phạm

những quy định của pháp luật hoặc cũng có thể được biểu hiện dưới dạng không
hành động (không thực hiện nghĩa vụ mà pháp luật quy định phải thực hiện, hoặc
thực hiện không đúng với yêu cầu của pháp luật) nên gây thiệt hại cho xã hội.
Hành vi vi phạm pháp luật lao động là hành vi trái pháp luật lao động do
chủ thể có năng lực hành vi lao động thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm
tới quan hệ lao động và các quan hệ liên quan đến quan hệ lao động được pháp luật
bảo vệ và phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm của mình. Đối với
NLĐ thì hành vi vi phạm được thể hiện bằng hành vi vi phạm kỷ luật lao động,
khơng hồn thành nghĩa vụ lao động được giao hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ
đó, vi phạm hợp đồng lao động. Đối với NSDLĐ là hành vi vi phạm các quy định
về an toàn vệ sinh lao động, vi phạm hợp đồng lao động và các vi phạm khác xảy ra
trong quan hệ lao động.
Vi phạm pháp luật lao động có thể chia thành hai loại là vi phạm trực tiếp
và vi phạm gián tiếp. Vi phạm trực tiếp pháp luật lao động là những hành vi trái với
quy định của Nhà nước về quan hệ lao động, về an toàn, vệ sinh lao động và những
quy định trong lĩnh vực quản lý lao động.
Vi phạm gián tiếp các quy định của pháp luật lao động là những hành vi vi

12


phạm các quy định khác có tính chất thỏa thuận trong quan hệ lao động như vi
phạm thỏa ước lao động tập thể, vi phạm hợp đồng lao động, vi phạm nội quy, quy
chế lao động.
- Có thiệt hại xảy ra
Là yếu tố cấu thành cơ bản của trách nhiệm bồi thường thiệt hại, đây là điều
kiện được coi là bắt buộc và quyết định việc có phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại hay không. Thiệt hại xảy ra trong quan hệ pháp luật lao động khác với thiệt
hại trong quan hệ pháp luật hình sự vì trách nhiệm hình sự được đặt ra do tính chất
nguy hiểm của hành vi gây ra hoặc có khả năng gây ra hậu quả mà phải chịu trách

nhiệm hình sự, cịn đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động
phải phát sinh thiệt hại thì người gây thiệt hại mới phải bồi thường. Thông thường,
thiệt hại được hiểu là sự suy giảm lợi ích vật chất hoặc tinh thần của một người khi
có sự kiện gây thiệt hại của người khác được xác định mức độ, giá trị bằng một
khoản tiền cụ thể. Dưới góc độ xã hội, thiệt hại động chạm và làm ảnh hưởng đến
những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Còn dưới góc độ pháp luật lao động
thì thiệt hại tự nó đã nói lên một điều rằng hành vi vi phạm đã xâm phạm đến những
quyền, lợi ích hợp pháp khác của các bên trong quan hệ lao động. NLĐ khi tham gia
vào quan hệ lao động cần được bảo đảm về tính mạng, sức khỏe, cần được bảo đảm
nguồn thu nhập ổn định do bán sức lao động. Còn NSDLĐ chính là sự giảm sút về
số lượng cũng như chất lượng của hàng hóa sức lao động, là thiệt hại về tài sản và
thu nhập đáng lẽ ra các bên có được hoặc là những thiệt hại về danh dự, uy tín của
các bên.
Tuy nhiên, tính chất của thiệt hại phải như thế nào mới đặt ra vấn đề bồi
thường thiệt hại. Yêu cầu đối với những nhà làm luật và những người áp dụng pháp
luật khi đánh giá một thiệt hại làm cơ sở cho việc quy trách nhiệm bồi thường thiệt
hại là phải nhìn nhận thiệt hại một cách khách quan. Có thiệt hại xảy ra và thiệt hại
đó phải được định giá bằng tiền, được thể hiện bằng sự giảm sút thu nhập của người
lao động, sự mất mát về tư liệu sản xuất của người sử dụng lao động (nếu thiệt hại
về tài sản), về tính mạng, sức khỏe, danh dự bị xâm phạm của người lao động (nếu

13


là thiệt hại tinh thần) thì mới đặt ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và sự thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phải phát sinh khi thiệt hại là kết quả
trực tiếp tất yếu của hành vi vi phạm. Đó là mối liên hệ của sự vận động nội tại mà
về nguyên tắc, nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả và hành vi trái pháp luật phải
là nguyên nhân trực tiếp hoặc là nguyên nhân quan trọng có ý nghĩa quyết định với

việc xảy ra thiệt hại. Đây là mối quan hệ biểu hiện luôn nội dung của cặp phạm trù
nguyên nhân - kết quả trong phép duy vật biện chứng.
Một thiệt hại có thể xảy ra do một hoặc nhiều hành vi vi phạm và ngược
lại, một hành vi vi phạm có thể gây ra nhiều thiệt hại khác nhau. Điều quan trọng
là phải xác định hành vi vi phạm gây thiệt hại là hành vi độc lập hay ở trong mối
quan hệ tổng hợp và có sự tác động qua lại của nhiều hiện trường chứa đựng khả
năng thực tế làm phát sinh thiệt hại, phải xem xét trường hợp thiệt hại có thể do
một hành vi trái pháp luật khác xen vào gây ra chứ khơng phải do hành vi có chứa
đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại gây ra. Hành vi trái pháp luật (với
vai trò là nguyên nhân) có ý nghĩa quyết định làm phát sinh thiệt hại, nhưng diễn
biến của thiệt hại xảy ra theo chiều hướng nào thì lại phụ thuộc vào các yếu tố
khách quan khác tác động vào. Hành vi trái pháp luật tự nó mới chỉ có khả năng
gây ra thiệt hại chứ chưa xác định hoàn toàn. Thiệt hại trên thực tế thì tùy từng
hồn cảnh, điều kiện khác nhau sẽ có hậu quả khác nhau. Xem xét mối quan hệ
này, ngoài ý nghĩa làm căn cứ cho việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thệt hại
cịn có ý nghĩa xác định mức bồi thường thiệt hại. Vì vậy, ta phải đánh giá tất cả
các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan, toàn diện và đầy đủ, từ đó
mới có thể rút ra kết luận đúng đắn. Nói tóm lại, để đánh giá chính xác mối quan hệ
nhân quả cần phải chú ý đến nhiều vấn đề, trong đó cần xác định chính xác những
vấn đề chủ yếu sau:
Hành vi vi phạm phải xảy ra trước hậu quả thiệt hại;
Hành vi vi phạm xảy ra độc lập hoặc trong mối liên hệ với các sự kiện hiện
tượng khác, phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả;

14


Đối với hậu quả thiệt hại xảy ra phải là sự hiện thực hóa khả năng thực tế
làm phát sinh thiệt hại của hành vi vi phạm.
Hành vi là biểu hiện bên ngoài, là yếu tố vật chất thực tế của lỗi. Một hành

vi gây thiệt hại cho xã hội sẽ bị coi là yếu tố lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự
lựa chọn và quyết định của một chủ thể trong khi chủ thể đó có đủ điều kiện khách
quan và chủ quan để lựa chọn một cách xử xự khác phù hợp hơn với yêu cầu của xã
hội. Nhưng vì chủ thể đã lựa chọn và thực hiện hành vi gây thiệt hại nên chủ thể đó
sẽ bị coi là có lỗi trong hành vi trái pháp luật gây thiệt hại của mình. Lỗi được xem
như là thước đo của trách nhiệm pháp lý và suy cho cùng, mọi trách nhiệm pháp lý
do lỗi đều gắn liền với một hành vi, tức là sự biểu lộ ra ngồi ý chí của một người
thơng qua cách hành xử cụ thể. Lỗi được chia làm hai loại, lỗi vô ý và lỗi cố ý. Lỗi
cố ý là lỗi của một bên nhận thức rõ hành vi của mình vi phạm pháp luật lao động,
vi phạm hợp đồng lao động và sẽ gây thiệt hại cho phía bên kia mà vẫn thực hiện dù
mong muốn hoặc không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho thiệt hải xảy ra.
Lỗi vô ý là lỗi của một bên khơng thấy trước được hành vi của mình có khả năng
gây ra thiệt hại cho bên kia dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra
hoặc thấy được thiệt hại nhưng cho rằng thiệt hại sẽ khơng xảy ra hoặc có thể ngăn
chặn được.
1.2.2.3. Các trường hợp bồi thường thiệt hại của người sử dụng lao động
- Bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật của người sử dụng lao động
Người sử dụng khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, khác với nghĩa vụ bồi
thường của người lao động, người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động trái pháp luật vừa phải thực hiện bồi thường cho người lao động
khoản tiền lương trong thời gian nghỉ việc, vừa phải nhận người lao động quay trở
lại làm việc trong đơn vị. Thực tế, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và
xử lí hậu quả của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động rất phức tạp, do có
những rủi ro, khó khăn trong việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, thông

15



thường người sử dụng lao động sẽ cố gắng đưa ra một thỏa thuận chấm dứt hợp
đồng lao động với người lao động như: tiền bồi thường, lí do, thủ tục chấm dứt...
trước khi cho người lao động nghỉ việc. Có thể nói, so với quy định về chấm dứt
hợp đồng của người lao động thì quy định về nghĩa vụ chấm dứt hợp đồng của
người sử dụng lao động là tương đối rõ ràng, cụ thể, chi tiết và đầy đủ hơn xuất phát
từ bản chất của quan hệ lao động, người sử dụng lao động luôn là người có những
điều kiện thuận lợi hơn so với người lao động và ngược lại, người lao động luôn vị
thế yếu hơn cần phải được bảo vệ.
- Bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng cho người lao động
Trong quá trình khai thác sức lao động, khi mơi trường lao động, điều kiện
lao động chưa đảm bảo hay có sự vi phạm quy định trong q trình thực hiện an
tồn, vệ sinh lao động thì người lao động dễ gặp phải những vấn đề về tính mạng,
sức khỏe như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Đối với trường hợp bồi thường
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe trong quan hệ lao động thì đối tượng được bồi
thường là người lao động, vì họ là người trực tiếp thực hiện các hoạt động lao động,
thực hiện các thao tác nghiệp vụ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, vận chuyển
và sự cố tai nạn lao động hay bệnh tật sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức
khỏe của họ. Người sử dụng lao động với vai trò là người có quyền tổ chức, quản lý
việc sản xuất, kinh doanh; đồng thời cũng là chủ thể chịu trách nhiệm về an tồn, vệ
sinh lao động; có nghĩa vụ thực hiện tốt những biện pháp đảm bảo an toàn cho
người lao động, phịng ngừa tai nạn và các ảnh hưởng có hại đến sức khỏe, tính
mạng của người lao động; thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức
khoẻ cho người lao động khi xảy ra sự cố lao động.
- Bồi thường thiệt hại về tài sản
Bồi thường thiệt hại về tài sản phát sinh do một trong hai bên chủ thể của
quan hệ lao động có hành vi vi phạm gây thiệt hại về tài sản cho bên kia trong quá
trình thực hiện quyền, nghĩa vụ lao động nhằm khôi phục lại giá trị tài sản ban đầu
đã bị tổn thất do hành vi vi phạm của một trong hai bên chủ thể. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại có thể phát sinh khi người sử dụng lao động làm hư hỏng, mất mát


16


tài sản gây thiệt hại cho người lao động.
Ví dụ: Trường hợp người lao động đi phương tiện xe máy đến nơi làm việc,
để đúng nơi quy định nhưng bị mất.
1.2.2.4. Giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại trong lao động
Giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại trong lao động là việc các tổ
chức, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành những thủ tục theo luật định
nhằm giải quyết những tranh chấp phát sinh giữa cá nhân, tập thể NLĐ với NSDLĐ
về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của các bên trong quan hệ lao
động. Khôi phục các quyền lợi ích hợp pháp đã bị xâm hại, xóa bỏ tình trạng bất
bình, mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động. Duy trì, củng cố
quan hệ lao động, đảm bảo sự ổn định trong sản xuất.
Các tranh chấp về BTTH trong lao động chủ yếu là tranh chấp lao động cá
nhân, giữa người lao động với người sử dụng lao động về quyền lợi và nghĩa vụ của
từng cá nhân, trong q trình tranh chấp khơng có sự liên kết giữa những người lao
động tham gia tranh chấp và tổ chức Cơng đồn chỉ tham gia với tư cách là người
đại diện bảo về người lao động.
Tranh chấp về BTTH trong lao động có thể được giải quyết bằng các
phương thức: Giải quyết thơng qua Hịa giải viên lao động hoặc khởi kiện tại Tòa
án. Mỗi phương thức giải quyết đều có những ưu nhược điểm khác nhau.
- Giải quyết tranh chấp lao động thơng qua Hịa giải viên lao động
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp lao động được tiến hành trên
cơ sở bàn bạc, thỏa thuận giữa NLĐ với NSDLĐ, có sự tham gia của bên thứ ba là
hòa giải viên lao động nhằm tìm ra hướng giải quyết tốt nhất cho quyền, lợi ích
đang tranh chấp trong quan hệ lao động.
Hịa giải giúp hai bên tranh chấp hiểu nhau hơn, từ đó đưa ra giải pháp giải
quyết tranh chấp một cách hòa bình. Nếu hịa giải thành sẽ giúp rút ngắn thời gian,
tiết kiệm chi phí, bảo đảm bí mật, uy tín cho cả hai bên tranh chấp, góp phần khơi

phục mối quan hệ lao động giữa các bên.
Bên cạnh những ưu điểm trên thì giải quyết tranh chấp lao động thơng qua

17


hịa giải viên lao động cũng có những hạn chế nhất định, những thỏa thuận đạt được
trong q trình hịa giải khơng có tính chất bắt buộc thi hành. Do đó, trong trường
hợp hịa giải khơng thành, hoặc hịa giải thành nhưng một trong các bên không thực
hiện thỏa thuận thì bên cịn lại có quyền khởi kiện tại Tịa án.
- Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án
Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án là phương thức giải quyết
được tiến hành theo trình tự thủ tục tố tụng chặt chẽ, được tiến hành bởi các thẩm
phán được đào tạo chun mơn, đảm bảo tính chính xác, đúng pháp luật. Giải quyết
tranh chấp lao động tại Tịa án có nhiều ưu điểm như: Giải quyết dứt điểm tranh
chấp lao động, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp. Những
phán quyết của Tòa án được đảm bảo thi hành bằng sưc mạnh cưỡng chế của Nhà
nước. Tuy nhiên, hạn chế của phương thức giải quyết tranh chấp này là thủ tục phức
tạp, tốn kém thời gian, tiền bạc và làm căng thẳng quan hệ các bên trong quan hệ
lao động.
Mỗi phương thức giải quyết tranh chấp lao động đều có những ưu điểm và
hạn chế riêng, các bên trong tranh chấp có thể tùy vào mức độ, tính chất của tranh
chấp và những quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động để lựa chọn
phương thức giải quyết phù hợp.
1.3. Vai trò của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động
Là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật về bồi
thường thiệt hại trong lao động cũng có những vai trị của pháp luật nói chung và
cũng có những vai trị mang nét đặc trưng riêng của nó, được thể hiện cụ thể như
sau:
Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động là căn cứ pháp lý để đảm

bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên trong quan hệ lao động, là cơ sở để thỏa
thuận các quyền và nghĩa vụ cụ thể cho phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế
của các bên trong quan hệ lao động, là một trong các căn cứ để giải quyết tranh
chấp lao động khi xảy ra mâu thuẫn.
Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động là cơ sở pháp lý cho việc

18


×