Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN “ một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 6 tuổi ở trường mâm non”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.39 KB, 23 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

1. Lời giới thiệu
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc
bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội và
của mỗi gia đình. Việc giáo dục trẻ ngay từ khi cịn nhỏ là vơ cùng quan trọng
trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho
trẻ sau này. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người là mục tiêu, động
lực của sự phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế hệ trẻ.
Chính vì vậy mà vào đầu thập kỉ 90, các tổ chức Liên Hiệp Quốc như WHO
(Tổ chức y tế thế giới), UNICEF ( Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên hiệp quốc),
UNESCO ( Tổ chức giáo dục , khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc) đã chung sức
xây dựng chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em. “ Bởi lẽ những thử
thách mà trẻ em và thanh niên đang phải đối mặt là rất nhiều và đòi hỏi cao hơn là
những kỹ năng đọc, viết, tính tốn tốt nhất”.
Ngoài ra, nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả
năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác
của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ
bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập
của trẻ tại trường.
Vì thế, ngày nay trên thế giới rất nhiều trường mầm non áp dụng phương
pháp học trung tính là phương pháp học tập thơng qua các giao tiếp tích cực với
những người khác, giúp cho trẻ sớm được hình thành và tơn vinh các giá trị đích
thực của mình, để trẻ có một nhân cách phát triển tồn diện,bền vững, có khả năng
thích ứng với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống .
Ở Việt nam, Bộ Giáo dục- Đào tạo đã phát động phong trào thi đua “ Xây
dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham
gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường
và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Trong các mục
tiêu của chương trình giáo dục mầm non (ban hành kèm theo thông tư số


17/2009/TT- BGD&ĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009) có mục tiêu giáo dục phát
triển tình cảm và kỹ năng xã hội. Để thực hiện mục tiêu trên, nội dung quan trọng
cần đưa vào giáo dục trẻ là giáo dục một số kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Về phía các bậc cha mẹ trẻ: cha mẹ trẻ em luôn quan tâm đến việc làm sao
để kích thích tính tích cực học tập của trẻ. Cha mẹ nào cũng muốn con mình được
1


tham gia và trải nghiệm vào các hoạt động vui chơi hay học tập tích cực để từ đó
trẻ lĩnh hội được các kinh nghiệm sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin và sẵn sàng ứng
phó với các tình huống trong cuộc sống. Đặc biệt, khi trẻ chuẩn bị vào lớp một,
các bậc phụ huynh lại luôn lo lắng liệu rằng con mình có đủ sức khỏe và khả năng
để theo học thật tốt cùng các bạn ở trường tiểu học hay không.
Đối với giáo viên mầm non: Giáo viên thường tập trung lo lắng đối với
những trẻ có một số vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những năm
tháng đầu tiên trẻ đến trường. Đơn giản là vì những trẻ này thường khơng có khả
năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này
làm cho trẻ khơng thể tập trung lĩnh hội những điều cơ giáo dạy. Vì vậy, giáo viên
phải tốn rất nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp trẻ có được những kỹ năng
sống (KNS) cơ bản ở trường mầm non giúp trẻ ổn định nề nếp nhóm lớp và có các
thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày.
Đối với trẻ mầm non: Đây là giai đoạn trẻ học, tiếp thu, lĩnh hội những giá
trị sống để phát triển nhân cách,đồng thời trẻ rất dễ bộc lộ cảm xúc, chưa có nhiều
kỹ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc, vốn hiểu biết về thế giới xung quanh
cịn nhiều hạn chế do đó nhiều trẻ cịn thụ động, khơng biết ứng phó với các tình
huống nguy cấp, khơng biết tự bảo vệ mình trước nguy hiểm hoặc tìm kiếm sự
giúp đỡ từ người khác….Do đó, việc dạy KNS cho trẻ là rất cần thiết bởi KNS
thúc đẩy sự phát triển cá nhân trẻ, giúp trẻ có nhận thức đúng và hành vi ứng xử
phù hợp ngay từ độ tuổi mầm non.
Với vai trò là cô giáo mầm non, tôi đã trăn trở rất nhiều về việc làm sao

phải giáo dục cho trẻ biết ứng xử tốt với mọi tình huống mọi hồn cảnh trong cuộc
sống đời thường một cách văn minh và hồn nhiên đúng với độ tuổi của trẻ. Một
tập thể trẻ có KNS tốt sẽ tạo nên mơi trường sống ấm áp, hồ thuận, vui vẻ và phát
triển ở nhóm lớp. Vì vậy tơi chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non”.
2: Tên sáng kiến
“ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mâm
non”.
3. Tác giả sáng kiến:
Họ và tên: Lê Thị Hường
Địa chỉ: Trường Mầm non Đại Tự - Huyện Yên lạc - Tỉnh Vĩnh Phúc.
Số điện thoại: 01639444212; Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:

2


Lê Thị Hường -Trường Mầm non Đại Tự - Yên lạc - Vĩnh Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến.
- Lĩnh vực giáo dục tình cảm xã hội.
- Giáo dục kỹ năng sống của trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non.
6. Ngày sáng kiến được áp ụng.
Sáng kiến được áp dụng từ tháng 8 năm 2017 đến tháng 2 năm 2018.
7. mô tả bản chất sáng kiến.
7.1. Cơ sở lý luận.
Xã hội ngày nay có vơ số những mối nguy hiểm, khó khăn với con người,
đặc biệt là với trẻ em. Trẻ em có thể bị xâm hại, bị bóc lột sức lao động, bị bắt cóc,
các mối đe dọa từ tai nạn thương tích và xu thế học tập tiến bộ … Với vốn kiến
thức hạn chế và sức khỏe cịn yếu của mình, nếu trẻ khơng có các KNS phù hợp sẽ
đẩy lùi sự phát triển toàn diện của trẻ.

Mặc dù phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tập
trung nhiều nội dung chung cho bậc học mầm non, tuy nhiên nhiều GV chưa hiểu
sâu về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non những KNS cơ bản nào, chưa biết
vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ
mầm non một cách linh hoạt và hiệu quả.
Trong thực tế , một số năm học trước, với yêu cầu sử dụng công nghệ thông
tin đổi mới hình thức, phương pháp dạy học, giáo viên thường lãng quên các trò
chơi dân gian, ngại đưa vào kế hoạch, thậm chí chưa dành thời gian cho trẻ
vui chơi nên chưa đáp ứng được đặc điểm “ vui chơi là hoạt động chủ đạo” và “
học mà chơi, chơi mà học” của trẻ.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ lứa tuổi mầm non là nội dung rất quan
trọng , nội dung này được thực hiện càng sớm càng tốt.Thơng qua nội dung giáo
dục giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những việc nên làm và
việc khơng nên làm. Từ đó trẻ sẽ tự tin chủ động và biết cách xử lý các tình huống
trong cuộc sống, đồng thời khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo, đặt nền tảng cho trẻ
trở thành người có trách nhiệm và người sống hài hịa trong tương lai.
Các nhóm kỹ năng có thể dạy cho trẻ mầm non như : Kỹ năng nhận thức về
bản thân, kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội,kỹ năng
học tập, kỹ năng tương tác…Từ đó, chương trình giáo dục mầm non đã đưa ra các
nội dung đơn giản và hết sức gần gũi với trẻ như: dạy trẻ có kỹ năng hợp tác với
mọi người, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ , kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng

3


kiểm sốt cảm xúc…các kỹ năng này khơng tách rời nhau mà có liên quan chặt
chẽ với nhau, được thể hiện đan xen vào nhau, có thể thực hành trong bất cứ tình
huống nào xảy ra hàng ngày. Cho nên việc giáo dục và vận dụng tốt sẽ giúp trẻ có
nhân cách tốt. Khi giáo dục kỹ năng sống cịn góp phần mở rộng nhận thức, phát
triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ... cho trẻ.

Nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non đã triển khai được một số năm
học, tuy nhiên kết quả đạt trên trẻ chưa cao và chưa đồng đều giữa các trẻ. Nếu
giáo viên thực hiện chuyên sâu và có phương pháp giáo dục phù hợp thì kết quả
trên trẻ sẽ có bước tiến bộ nhanh chóng.
7.2. Cơ sở thực tiễn:
Câu thành ngữ: “ Tiên học lễ, hậu học văn” của ông cha ta từ ngàn xưa đã
để lại đến bây giờ vẫn không thể thiếu trong các trường học. Lễ phép là nét đẹp
văn hoá được đặt lên hàng đầu khi đánh giá về một con người.
Trong thời đại hiện nay, sự phát triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra những
yêu cầu càng cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục phải đào tạo ra
những con người “ phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể lực, phong phú về tinh
thần, trong sáng về đạo đức”. Trong đó giáo dục kỹ năng sống là bộ phận hữu cơ
của q trình giáo dục, là một bộ phận có tính cốt lõi, nền tảng của cơng tác giáo
dục trẻ.
Việc hình thành kỹ năng sống cho mọi người nói chung và trẻ em nói riêng
đang trở thành nhiệm vụ quan trọng. Giáo dục kỹ năng sống phải được đo bằng sự
vận dụng những kỹ năng đó trong cuộc sống mỗi các nhân để sống tích cực, sống
hạnh phúc, sống có ý nghĩa. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm giúp trẻ phát
triển hài hoà, toàn diện về nhân cách. Cung cấp cho mỗi trẻ kiến thức cần thiết về
kỹ năng sống để các em sống sao cho lành mạnh và có ý nghĩa. Giúp các em hiểu,
biến những kiến thức về kỹ năng sống được cung cấp thành hành động cụ thể
trong quá trình hoạt động thực tiễn với bản thân, với người khác, với xã hội, ứng
phó trước nhiều tình huống, học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người, giải quyết
mâu thuẫn trong mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tích cực. Có thể nói
việc trang bị kỹ năng sống cho trẻ em là một phương pháp giáo dục cần thiết để trẻ
bớt thụ động trong việc học và giao tiếp xã hội.
Song trên thực tế việc dạy kỹ năng sống cho trẻ trong các trường mầm non
còn mới mẻ và rất nhiều giáo viên còn chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của vấn
đề hoặc thiếu kỹ năng giảng dạy để có thể truyền đạt cho trẻ hiểu và hình thành
cho trẻ những kỹ năng sống cần thiết cho trẻ.

Là giáo viên mầm non phụ trách lớp mẫu giáo lớn, nhận thức được tầm
quan trọng của kỹ năng sống đối với sự phát triển của trẻ, tôi đã luôn trăn trở suy
nghĩ làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi. Giáo dục kỹ năng

4


sống khơng phải là nói cho trẻ biết thế nào là đúng, thế nào là sai như ta thường
làm. Các phương pháp cổ điển như bài giảng đi theo những chuẩn mực, cơ hỏi trẻ
thụ động trả lời sẽ hồn tồn thất bại vì chúng chỉ cung cấp thơng tin, mà từ thông
tin và nhận thức đến thay đổi hành vi thì khoảng cách cịn rất lớn. Giáo dục kỹ
năng sống là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn những giải pháp khác
nhau. Giải quyết phải xuất phát từ trẻ.
Chính vì vậy, tơi đã nghiên cứu một vài biện pháp giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ 5 – 6 tuổi đạt hiệu quả. Qua thời gian thực hiện tơi đã tích luỹ được một
vài kinh nghiệm, đó chính là lí do tơi chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi trong trường mầm non”.
7.3. Thực trạng dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
7.3.1. Thực trạng chung.
Trong những năm gần đây Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động phong trào“
Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất
quán từ trung ương đến địa phương, Phòng giáo dục - Đào tạo cũng đã có kế
hoạch từng năm học với những biện pháp cụ thể để dạy KNS cho học sinh với
những định hướng giúp giáo viên thực hiện như: kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ
năng giao tiếp có hiệu quả, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng tự nhận thức và tự
tin của bản thân, kỹ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc...
Trường Mầm non nơi tôi công tác là ngôi trường đạt chuẩn quốc gia, các
phòng học đều mới xây dựng nên sạch đẹp và kiên cố. Ban giám hiệu nhà trường
tích cực bồi dưỡng cho GV về chuyên môn, xây dựng phương pháp đổi mới hình
thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tơi có đủ những

ngun vật liệu, tài liệu để làm đồ dùng dạy học và đồ chơi cho trẻ. PGD&ĐT
huyện thường xuyên quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất và các thiết bị đồ chơi phục
vụ việc dạy và học cho các lớp 5 tuổi.
Năm học 2017-2018 tơi được phân cơng chủ nhiệm nhóm lớp 5-6 tuổi tại
khu trung tâm của trường: Là lớp 5-6 tuổi với số cháu 30, trong đó 13 cháu nữ,17
cháu nam, tất cả đều đã qua lớp mẫu giáo nhỡ nên đã có một số kỹ năng cơ bản.
Đa số trẻ ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát triển thể chất,
phát triển nhận thức, phát triển ngơn ngữ, và tình cảm xã hội, cảm thụ cái hay cái
đẹp trong cuộc sống xung quanh trẻ.
Một số năm học trở lại đây, riêng nội dung giáo dục trẻ 5 tuổi có ban hành
bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi thông qua 4 lĩnh vực- 28 chuẩn- 120 chỉ số với yêu
cầu GV lồng ghép các chỉ số này vào mục tiêu từng chủ đề sao cho phù hợp để
qua đó dạy trẻ các kiến thức và kỹ năng cần thiết, chuẩn bị về tâm thế và thể chất
cho trẻ 5 tuổi lên lớp một. Đa số GV đã lồng ghép chỉ số vào mục tiêu phù hợp
nhưng một số chỉ số chưa đạt được ở chủ đề trước GV thường bỏ qua mà không

5


rèn tiếp trẻ hoặc đưa tiếp vào mục tiêu của chủ đề sau cho nên nhiều trẻ bị bỏ qua
các kỹ năng của chỉ số đó.
Là một giáo viên yêu nghề mến trẻ bản thân tôi xác định được mục đích, ý
nghĩa, tầm quan trọng của việc dạy KNS cho trẻ mầm non và tìm ra các giải pháp
hữu ích nhất cho hoạt động giáo dục này.
7.3.2. Thuận lợi.
Có khơng gian hoạt động an tồn cho trẻ, có đủ đồ dùng đồ chơi cần thiết
trong các hoạt động giáo dục.
Trẻ khoẻ mạnh và rất hào hứng , sôi nổi với các hoạt động do cô tổ chức,
lĩnh hội nhanh các kiến thức cô giáo truyền đạt.
Phụ huynh luôn quan tâm đến trẻ, tích cực tham gia vào các hoạt động của

nhà trường, của nhóm lớp.
GV có trình độ chun mơn nhất định, được tập huấn về nội dung dạy kỹ
năng sống cho trẻ mầm non do Phòng giáo dục tổ chức và qua các buổi bồi dưỡng
chuyên môn tại trường.
Tài liệu hướng dẫn sử dụng bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi có chỉ số, hướng
dẫn cách đánh giá trẻ rõ ràng và cụ thể nên việc dạy trẻ các kỹ năng và đánh giá
kết quả trên trẻ rất thuận lợi, chính xác, từ đó biết trẻ nào đạt được và chưa đạt
được để tiếp tục rèn trẻ vào các chủ đề tiếp theo.
7.3.3. Khó khăn.
Chưa có nhiều tài liệu sách báo về việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để
giáo viên nghiên cứu, tham khảo.
Giáo viên có nhiều hạn chế về phương pháp tổ chức giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ.
Khơng gian lớp hẹp nên cịn khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động.
Trẻ được bố mẹ nng chiều nên chưa có những kỹ năng sống cần thiết phù
hợp theo độ tuổi.
Trình độ nhận thức của trẻ khơng đồng đều, do đó cùng một thời gian và
biện pháp dạy trẻ các KNS nhưng kết quả trên trẻ đạt chưa tương đương với nhau.
Một số trẻ quá nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt
động ,một số trẻ lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào sự hướng dẫn
của cô, kỹ năng sống của trẻ còn nhiều hạn chế.
Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là khơng đồng đều, 100% phụ
huynh là nông thôn . Một số phụ huynh đi làm ăn xa để các cháu ở nhà với các anh
chị hoặc ông bà đã già, thời gian phụ huynh quan tâm đến trẻ cịn ít, khơng dành
thời gian trị chuyện để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của trẻ để giáo dục trẻ mà chỉ
biết chiều theo mọi đòi hỏi của trẻ, trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu trẻ
6


cần. Ví dụ: trẻ chỉ cần địi mua đồ dùng nào đó là được đáp ứng ngay mà khơng

biết điều đó có phù hợp với hồn cảnh kinh tế của bố mẹ hay khơng, khi được
nhận món đồ chơi đó trẻ cũng không biết cảm ơn bố mẹ….Đây cũng là một trong
những nguyên nhân làm cho trẻ thiếu KNS. Với những khó khăn như thế tơi phải
dần dần khắc phục, sửa đổi và dạy KNS cho trẻ theo mục tiêu của chương trình
giáo dục đã đề ra để chuẩn bị tốt cho trẻ trước khi bước vào trường phổ thông.
Mặc dù nhà trường đã hỗ trợ và đầu tư, tuy nhiên kinh phí trong việc tổ
chức một số các hoạt động ngoại khoá vào các ngày lễ, ngày tết nhằm dạy KNS
cho trẻ còn hạn chế và chưa thường xuyên.
7.3.4. Kết quả khảo sát ban đầu.
Trẻ có KNS khơng đồng đều. Một số trẻ ngoan ngỗn và nhanh trí thì có
nhiều kỹ năng cơ bản tốt, với sự hướng dẫn, động viên của cô giáo trẻ luôn biết
phát huy những kỹ năng tốt đó. Ngược lại , một số trẻ nhận thức còn chậm lại hay
nghịch ngợm nên kết quả dạy KNS của cơ trên trẻ đó đạt kết quả thấp.
Giáo viên đã tích cực thực hiện lồng ghép nội dung dạy KNS cho trẻ vào
các hoạt động trong ngày , đã đưa các chỉ số phát triển trẻ 5 tuổi vào mục tiêu của
chủ đề để rèn một số kỹ năng qua các chỉ số đó nhưng 1 số giáo viên tổ chức chưa
linh hoạt, chưa sáng tạo nên chưa kích thích tối đa sự hứng thú của trẻ và sự tham
gia nhiệt tình của phụ huynh.
Qua khảo sát từ phụ huynh cho thấy, có một số ít trẻ khi ở lớp thì thực hiện
các KNS tốt do trẻ rất nghe lời cô giáo nhưng khi về nhà được bố mẹ và người
thân chiều chuộng thì trẻ lại khơng thực hiện một số KNS trẻ có mà ln phụ
thuộc vào người khác( vd: trẻ không kiềm chế cảm xúc mà có thể lăn ra và khóc
bất cứ lúc nào nếu người thân không đáp ứng nhu cầu của trẻ…)
Kết quả khảo sát đầu năm của 30 trẻ tại lớp 5 tuổi:
Tên kỹ năng

Xếp loại
Tốt

Khá


Đạt

Chưa đạt

- Nhóm kỹ năng nhận thức bản
thân

9= 30%

11=37%

7=23%

- Nhóm kỹ năng hợp tác

16=53.3%

12=40%

2=6.7%

- Nhóm kỹ năng tự tin

15=50%

14=47%

1=3.3%


- Nhóm kỹ năng giao tiếp và quan
12=40%
hệ xã hội

18=60%

0

0

- Nhóm kỹ năng học tập

15=50%

1=3.3%

1=3.3%

13=43.40%

3=10%
0
0

7.4. Các biện pháp,kinh nghiệm giáo dục KNS cho trẻ mầm non.

7


*Biện pháp 1:. Công tác tự bồi dưỡng nâng cao nhận thức về việc giáo

dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Trong những năm học trước, tơi thường tự tìm hiểu các kiến thức, phương
pháp giáo dục kỹ năng cho trẻ một cách riêng lẻ nên chưa hiểu chưa sâu về sự cần
thiết phải dạy kỹ năng sống cho trẻ, chưa biết cần phải có phương pháp nào để kết
quả dạy là tốt nhất.
Do đó ,đầu năm học, tơi đề nghị với Ban giám hiệu nhà trường mua bổ xung
1 số tài liệu có nội dung giáo dục KNS cho trẻ mầm non cho tất cả giáo viên tổ 5
tuổi( Vd: tài liệu “ Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non”….).
Đồng thời, tôi đã tổ chức thảo luận với giáo viên trong tổ,trong trường về thực
trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc dạy trẻ các KNS cần thiết, qua đó giúp tơi
hiểu được rằng chương trình học thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức
trong suốt năm học, và thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một
cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội của
trẻ. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng
xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập
trung vào việc học một cách tốt nhất.
*Biện pháp 2:. Xác định những KNS cơ bản cần giáo dục trẻ ở lứa tuổi
mầm non:
Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà
trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều
nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian
đầu của năm học là chính là những KNS như:
- Nhóm kỹ năng tự tin: Nhận biết , thể hiện cảm xúc, suy nghĩ cá nhân với
mọi người.
- Nhóm kỹ năng hợp tác: Kỹ năng tổ chức hoạt động, làm việc theo
nhóm,kỹ năng ra quyết định, giải quyết vấn đề.
- Nhóm kỹ năng nhận thức về bản thân: Kỹ năng tự bảo vệ trước những tình
huống nguy hiểm, nhận biết về giá trị bản thân.
- Nhóm kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội: kỹ năng ứng xử phù hợp với
người xung quanh, kỹ năng hợp tác, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ,kỹ

năng tuân thủ các quy tắc xã hội, giao tiếp lịch sự và lễ phép, kỹ năng tự phục vụ.
- Nhóm kỹ năng học tập : Ý thức trách nhiệm, Kỹ năng thiết lập và thực
hiện mục tiêu.
Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp tôi lựa
chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ ở lớp mình phụ trách.

8


*Biện pháp 3: Cụ thể hóa những biện pháp để giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ.
3.1. Kỹ năng tự nhận thức bản thân :
- Kỹ năng tự nhận thức là trẻ tự nhận diện về bản thân, phát triển quan niệm
tích cực về bản thân. Trẻ nhận thức sự khác nhau giữa các trẻ, nhận thức mỗi cá
nhân có điểm riêng biệt cần được tôn trọng, phát triển những suy nghĩ tích cực về
bản thân trẻ. Kỹ năng tự nhận thức giúp trẻ hiểu đúng mình là ai? Trẻ yêu gì?
Điểm mạnh và sở thích của mình là gì để kết nối chúng vào những lĩnh vực liên
quan và phát huy chúng một cách tối đa. Trẻ nhận ra điểm yếu của mình cũng giúp
trẻ dự đốn được những khó khăn trong q trình hoạt động từ đó tìm ra cách khắc
phục khó khăn đó.
- Để hình thành kỹ năng tự nhận thức tôi đã thực hiện 1 số biện pháp sau:
+Trị chuyện giúp trẻ tìm hiểu về bản thân thông qua 1 số câu hỏi như: Con
là ai? Con thấy mình có những tính tốt đẹp nào?Con thích gì và khơng thích gì?
Con có mong muốn gì? Con sẽ làm gì để đạt được mong muốn đó?con có những
điểm gì khác với bạn?.....
+ Chấp nhận sự đa dạng của trẻ và giúp trẻ chấp nhận lẫn nhau: Tôi luôn tơn
trọng cá tính của từng cá nhân trẻ trong lớp, đồng thời có biện pháp giáo dục để
hạn chế điểm yếu, phát huy điểm mạnh của trẻ. Tôi nhận thấy rằng khi tơi tơn
trọng tất cả các trẻ thì trẻ trong lớp sẽ noi gương theo cô, biết tôn trọng các bạn
lớp mình.

+Đặt yêu cầu cao cho các trẻ và khích lệ trẻ hoạt động để đạt mục tiêu đó:
Tơi luôn đặt yêu cầu cao cho tất cả các trẻ trong lớp, Với sự hướng dẫn của tôi,
từng trẻ đã có khả năng tham gia hầu hết các hoạt động . Trong bất kì hoạt động
nào tơi cũng khuyến khích để kích thích tính tị mị, khám phá của trẻ chứ không
ép buộc mọi trẻ phải tham gia. Gợi ý để trẻ thử thách với chính mình.Thay vì cạnh
tranh với trẻ khác, tơi khuyễn khích trẻ cạnh tranh với chính mình (Vd: Nhảy xa
sử dụng thước dây, xếp hình bằng đồng hồ bấm giây…lần sau tốt hơn lần trước)
+ Giúp trẻ đạt được thành công nhất định trong lớp học: Thành công là một
trong những yêu tố quan trọng tác động đến sự phát triển ý thức bản thân. Trẻ ở
lứa tuổi này cần trải qua thành công( theo khả năng của trẻ) để trẻ có cảm giác tự
tin rằng mình làm được những điều tốt. Thực tế , có một số trẻ sợ thất bại đến nỗi
không dám thử 1 hoạt động nào đó, lúc này tơi sẽ giúp trẻ đạt được thành cơng
trong việc đó từng bước một đồng thời khen ngợi khả năng đó để trẻ thêm tự tin
vào mình. Trẻ sẽ tự hào về thành cơng của mình nếu cơ giáo cho trẻ thấy rằng cơ
tự hào về trẻ.
+ Tổ chức một số hoạt động, trò chơi phát triển kỹ năng tự nhận thức cho
trẻ:

9


Hoạt động “ soi gương”: Giúp trẻ tự quan sát, cảm nhận về hình dáng của
mình bằng cách cho trẻ tự ngắm mình trong gương với các động tác như làm điệu,
đội mũ, mặc quần áo…. . lúc đó tơi có thể hỏi trẻ: Con thấy ai trong gương, người
trong gương có dáng u khơng?
Hoạt động “Hái hoa dân chủ”: Trẻ chọn 1 bơng hoa theo ý thích trong đó có
nội dung “ Hãy nói cho chúng tơi về….”( có thể là gia đình, đồ chơi bạn thích,
món ăn bạn thích…) và tơi sẽ đọc to câu hỏi đó cho cả lớp nghe, trẻ hái hoa sẽ nói
về điều đó theo hiểu biết của mình.
Hoạt động “ Tơi có thể vẽ”: Tôi tạo ra 1 tờ giấy lớn và dán lên tường. Tôi cổ

vũ trẻ vẽ hay dán bất cứ thứ gì trẻ có thể làm được vào tranh. Với hoạt động này
trẻ sẽ thấy được sự phát triển tiến bộ của bản thân qua từng giai đoạn.
Hoạt động “ có điều gì trong một cái tên”: Trẻ nhỏ thường rất tự hào về cái
tên của mình, do đó tất cả hoạt động nào liên quan đến cái tên của trẻ đều làm trẻ
hứng thú. Hầu hết bố mẹ đặt tên cho con đều có 1 ý nghĩa, yêu cầu trẻ hỏi bố mẹ
về điều này, sau đó tơi phát cho mỗi trẻ 1 tờ giấy và bút màu để trẻ có thể vẽ lại
điều đó vào bức tranh và trang trí cho tranh của mình. Khi đã thực hiện xong có
thể cho trẻ diễn tả lại ý nghĩa của bức tranh mà trẻ đã vẽ.
3.2. Kỹ năng hợp tác:
- Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu “ Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Vì vậy việc giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ mầm non là rất cần thiết. Bởi
trẻ mầm non cịn nhỏ, có nhiều việc khơng thể tự làm được nếu khơng có người
khác giúp đỡ. Khi trẻ được bạn giúp đỡ và khi trẻ giúp đỡ được bạn trẻ sẽ nhanh
chóng hồn thành nhiệm vụ của mình. Qua đó trẻ có niềm vui, có bạn bên cạnh để
chia sẻ cơng việc, giúp phát triển kỹ năng và tình cảm xã hội của trẻ.
- Để giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ chơi và làm
việc theo nhóm với các trẻ khác trong tất cả các hoạt động (Vd: Cho trẻ thảo luận
theo tổ để cùng nhau nhận xét về đặc điểm của 1 đối tượng nào đó trong các hoạt
động), tạo những cảm nhận giúp trẻ tôn trọng những quyền lợi của trẻ khác qua
việc chia sẻ, hướng dẫn trẻ cư xử lịch sự với bạn khác.
- Tổ chức 1 số hoạt động phát triển kỹ năng hợp tác như:
+ Thảo luận về sự hợp tác: Trị chuyện với trẻ có sử dụng câu hỏi như “ Con
và bạn đã cùng nhau làm những việc gì?Trị chơi nào con thích hơn khi có bạn
cùng chơi? Tại sao con phải hợp tác với bạn, một mình con có làm được việc này
khơng? Điều gì con cảm thấy vui khi hợp tác?....Qua việc trị chuyện giúp trẻ hiểu
hợp tác là có nhiều người cùng thực hiện 1 việc gì đó, cùng vui thích khi làm việc.

10



+ Trị chơi “ đơi bạn hợp tác”: Cho trẻ tìm thêm 1 bạn để ghép đơi với nhau.
Các đơi ngồi quay mặt vào nhau, nắm lấy tay nhau, cùng ngồi xuống hoặc cùng
đứng lên mà không buông tay nhau ra.
+ Trò chơi “ Những chiếc tháp tập thể”: Yêu cầu trẻ ngồi xung quanh 1 cái
bàn và đưa cho trẻ những khối đồ chơi có hình dáng và kích thước khác nhau.
Nhiệm cụ của trẻ là xếp những khối đó thành 1 cái tháp càng cao càng tốt.
+ Trưng bày các hình ảnh sưu tập: có nội dung mọi người cùng chơi , làm
việc với nhau và cho trẻ thảo luận nội dung của các hình ảnh đó.
+ Cho trẻ tập đóng kịch: theo nội dung các câu chuyện trong chương trình
giáo dục mầm non: Đóng kịch “Nhổ củ cải”( có các cảnh mọi người hợp tác với
nhau để nhổ được củ cải)…Đóng kịch theo bài thơ “ gấu qua cầu”, theo truyện “
đôi bạn tốt”…
3.3. Kỹ năng tự tin :
- Theo một nhà văn, nhà thuyết trình nổi tiếng của Mỹ thì “Nếu bạn thật sự
tin tưởng chính mình, nhất định sẽ đạt được ước mơ, bạn có thể bước trên đường
bằng phẳng mà người khác cũng sẽ cần bạn hơn”. Vì vậy, một trong những kỹ
năng đầu tiên mà tôi cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ.
Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối
quan hệ với những người khác,trẻ tự tin làm theo ý tưởng, tự tin bày tỏ cảm xúc
của mình với người khác mà khơng e ngại. KNS này giúp trẻ nhanh chóng thực
hiện được mong muốn của mình đồng thời có khả năng hịa nhập với cộng đồng.
- Những biện pháp tôi sử dụng để phát triển sự tự tin ở trẻ là:
+ Luôn tôn trọng, giúp trẻ xây dựng hình tượng tốt của chính mình: Từ đặc
điểm sự tự tin của trẻ bắt nguồn từ lòng tự tơn, một trẻ khơng có sự tự tơn thì
khơng thể có sự tự tin. Do đó , tơi ln tơn trọng trẻ, cổ vũ và khích lệ những khả
năng của trẻ mọi lúc mọi nơi một cách kịp thời.(Vd: khi trẻ xung phong lên hát
trước cả lớp, tôi sẽ khen ngợi là trẻ rất giỏi, rất mạnh dạn…để lần sau trẻ sẽ phát
huy điều đó)
+Nói cho trẻ biết “ con có thể làm được”: Tơi dùng lời động viên trẻ một

cách chân thành, không quá lời khen, nghĩ một nói một nẻo. Và trong mọi việc
ln nói “ con có thể làm được” để dần củng cố niềm tin cho trẻ.
+Bồi dưỡng tài năng đặc biệt cho trẻ : Tài năng đặc biệt cũng có thể làm
tăng thêm sự tự tin cho trẻ. Tơi căn cứ vào sở thích, niềm đam mê của trẻ để bồi
đắp sở trường đặc biệt của trẻ( Vd: trẻ có khả năng vẽ đẹp tôi sẽ tạo nhiều cơ hội ở
lớp để trẻ được thể hiện sở trường của mình như vẽ trong các góc, trang trí lớp
cùng cơ... Đồng thời trao đổi với phụ huynh cho trẻ tham gia các lớp vẽ ngoại
khóa để nâng cao tài năng cho trẻ)

11


+Cho phép trẻ mắc sai lầm: Một đứa trẻ nếu không phạm sai lầm sẽ không
thể trưởng thành. Cho nên, khi trẻ mắc sai lầm tôi luôn lưu tâm đến sai lầm đó để
trao đổi thân thiện, cởi mở với trẻ giúp trẻ hiểu rằng ai cũng có thể mắc sai lầm
nhưng điều quan trọng nhất là biết sửa chữa và khơng bao giờ mắc phải sai lầm đó
nữa. Đồng thời khơng phê bình hay chê bai trẻ q thẳng thắn sẽ làm trẻ mất hứng
thú và tự ti về bản thân mình.( Vd : khi trẻ tranh giành đồ chơi với bạn, tơi sẽ hỏi
trẻ xem vì sao lại như vậy, tơi bày ra các trị chơi với món đồ chơi đó để 2 trẻ cùng
được chơi với nhau. Sau đó hỏi 2 trẻ xem chơi cùng nhau như vậy có vui hơn là
tranh giành nhau khơng và giáo dục trẻ lần sau không như vậy nữa..)
+ Quy định hành vi : Đầu năm học tôi đề ra 1 số quy định phù hợp với lớp
học nhằm đạt được mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ, tạo thói quen nề nếp tốt cho
trẻ. Yêu cầu trẻ trong lớp thực hiện theo các nội quy đó để tạo tính chủ động và
làm việc có kế hoạch cho trẻ trong lớp( Vd: Đến giờ thể dục sáng, tôi hỏi trẻ các
con nhìn lên lịch xem hoạt động đầu tiên trong ngày hơm nay là gì? Và cho trẻ
cùng chuẩn bị hoạt động đó với cơ)
+ Tổ chức các hoạt động phát triển sự tự tin của trẻ :
Tơi có thể trị chuyện với trẻ với những câu hỏi như tự tin là gì? Khi con tự
tin con cảm thấy như thế nào? Khi không tự tin con cảm thấy ra sao? Hoặc sử

dụng những câu hỏi gắn với thực tế của trẻ như “ con hãy kể những việc con muốn
tự làm, Con học cách làm này như thế nào? Hãy kể những việc con tự làm, Khi tự
làm con cảm thấy như thế nào?”. Qua hoạt động trị chuyện đó giúp trẻ hiểu rằng
khi trẻ tự tin là khi trẻ mạnh dạn nói , làm, thể hiện cảm xúc và suy nghĩ cảu mình
với mọi người. Nếu trẻ tự tin ở mình thì kết quả hoạt động của trẻ sẽ đạt tốt hơn.
Tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm: để trẻ tự làm mọi việc cho bản thân
mình càng nhiều càng tốt( Vd: tự lấy đồ dùng học tập, hoặc dạy trẻ cách nhờ 1
người bạn khác giúp đỡ mình 1 việc gì đó..)
3.4. Kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội:
- Trẻ mầm non cần phải học rất nhiều trong những năm đầu đời : học cách
làm chủ ngơn ngữ, học cách nhận biết và đối phó với cảm xúc của mình cũng như
của người khác, học cách tin vào mình và can đảm để khám phá thế giới rộng lớn
xung quanh. Nếu trẻ không đạt được năng lực xã hội tối thiểu vào khoảng 6 tuổi
thì trẻ có thể gặp khó khăn trong suốt cuộc sống sau này
- Phát triển kỹ năng này là một nhiệm vụ phức tạp đối với trẻ. Yêu cầu trẻ
biết ứng xử theo quy tắc xã hội, biết tạo các mối quan hệ cũng như tương tác với
cảm giác thoải mái với những người khác đồng thời biết điều chỉnh hành vi phù
hợp với hoàn cảnh. Để giáo dục tốt cho trẻ nội dung này tôi thực hiện 1 số biện
pháp sau:
+ Dạy trẻ học cách kiểm soát xung đột và điều chỉnh hành vi của mình:

12


Tôi làm cầu nối giúp trẻ biểu lộ cảm xúc của mình và biết lắng nghe ý kiến
của người khác. Nếu trẻ bất hịa với bạn khác tơi thường chỉ cho trẻ thấy trẻ chưa
đúng ở điểm nào, điểm nào cần khắc phục và điểm tốt nào cần phát huy. Cho trẻ
thấy những mối bất hòa thường dẫn đến những cảm xúc tiêu cực như tức giận, sợ
hãi, còn nếu chơi đồn kết với bạn sẽ tạo nên nhưng tình cảm tốt đẹp và tinh thần
thoải mái, vui vẻ…

+ Dạy trẻ cách giải quyết vấn đề: Mỗi tình huống khó khăn mà trẻ gặp phải
sẽ có tác dụng giúp trẻ lĩnh hội được kinh nghiệm sống thơng qua việc tìm cách
giải quyết vấn đề đó. Cho nên với mỗi tình huống xảy ra hàng ngày tôi đều tận
dụng cho trẻ quan sát và gợi ý để trẻ tìm ra cách giải quyết một cách nhanh chóng
và hiệu quả nhất( Vd: khi trẻ làm lăn đồ dùng vào gậm tủ mà tay không với tới
được, tôi gợi ý để trẻ biết dùng gậy để lấy đồ dùng đó ra…)
+ Tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ với trẻ khác: Nếu trẻ
tương tác với nhau một cách phù hợp, qua đó trẻ sẽ học được các quy tắc ứng xử
trong xã hội. Vì vậy, tơi thường xun tổ chức các hoạt động tập thể cho trẻ trong
lớp như tổ chức sinh nhật, biểu diễn văn nghệ tổng hợp cuối chủ đề, hoạt động
góc…để các trẻ được làm việc theo nhóm với nhau. Trong q trình hoạt động
ln khuyến khích trẻ giao tiếp thỏa thuận với bạn cùng chơi,biểu lộ mong muốn
một cách thích hợp, biết giúp đỡ bạn trong khi chơi.
+ Tổ chức 1 số trò chơi :
Hoạt động “ điện thoại bạn bè”: Cho 2 trẻ chơi gọi điện cho bạn ( 2 bạn ở
gần nhau). Theo dõi q trình trị chuyện của trẻ. Sau đó hỏi trẻ : Hai người cùng
nói 1 lúc thì có nghe rõ điều gì khơng? Khi nào con nghe thấy tiếng bạn? Con cảm
thấy thế nào khi nghe được, khi khơng nghe được? (Mục đích giúp trẻ biết lắng
nghe người khác nói.)
Hoạt động “ chúc bạn chóng khỏe”: Nếu trong lớp có 1 trẻ bị ốm khơng
đến lớp được, Tơi sẽ tổ chức cho trẻ cả lớp làm 1 tấm thiệp để gửi lời thăm hỏi và
chúc bạn nhanh khỏe.( Giúp trẻ biết quan tâm và chia sẻ với người khác)
3.5.Kỹ năng học tập:
Mặc dù những kiến thức mà trẻ học ở trường mầm non chỉ là sơ đẳng
nhưng có vai trò rất quan trọng, là nền tảng vững chắc cho việc học văn hóa ở
trường phổ thơng sau này. Với trẻ ở lớp tôi, trong mỗi hoạt động tôi đều xác định
cụ thể mục tiêu, hướng dẫn cụ thể nội dung, mục tiêu, gợi ý cách thực hiện và cho
trẻ trao đổi cách thực hiện với các bạn để trẻ tìm ra cách thực hiện của riêng mình,
đồng thời tơi cũng khuyến khích và tun dương kịp thời sự sáng tạo của trẻ, giúp
đỡ những trẻ thực hiện kém, động viên trẻ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được

giao với tâm trạng thoải mái và hứng thú nhất. Kết quả là đa số trẻ lớp tơi đã có ý

13


thức trách nhiệm, có kỹ năng thiết lập và thực hiện mục tiêu trong tất cả các hoạt
động, nhất là trong các hoạt động học có chủ đích.
*Biện pháp 4: Xác định nhiệm vụ cụ thể trong việc giáo dục trẻ kỹ năng
sống.
Tôi luôn gương mẫu thực hiện các kỹ năng sống ngay trong mơi trường
giáo dục của mình để trẻ nhìn thấy và học tập theo.
Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên
cần, tích cực của trẻ, đồng thời phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng
sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như
thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái, tự tin trong mọi tình huống của cuộc sống.
Thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ một
cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh
vực: thể chất, ngơn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính
tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn
kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau.
Thường xuyên tổ chức hoạt động theo nhóm giúp trẻ có được những mối
liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần
phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình
khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận
các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự
tin hay khơng đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung
quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái
trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta khơng phải xấu hổ vì
những hành vi khơng đẹp của trẻ.
Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao

đổi với phụ huyng những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà,
bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải một cách hài hòa nhất.
*Biện pháp 5: Làm tốt công tác tuyên truyền với các bậc cha mẹ cách
giáo dục trẻ KNS trong gia đình:
Có thể thấy, trẻ thường dễ dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong môi
trường của riêng chúng hơn là chơi trong một nhóm bạn tại trường, một số trẻ cịn
nhút nhát trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn theo nhóm lớn, nhưng lại có thể
hình thành mối liên kết thân thiết với bạn mới trong mơi trường gia đình của trẻ.
Tôi trực tiếp trao đổi với Cha mẹ trẻ để có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc
và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình. Cha mẹ hãy hỏi trẻ
muốn mời ai về nhà chơi? Mối quan hệ này được trẻ duy trì khi đến trường, khi có
được mối liên kết với một trẻ nào đó trong lớp, các mối quan hệ khác sẽ hình
thành tiếp theo một cách dễ dàng hơn.

14


Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc cho
rằng trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo
viên và năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm
giải quyết các vấn đề quan trọng: đọc, làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng khoa
học khi chơi với nhau.
Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng
việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trường. Cha mẹ nên
tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà
trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khố; chỉ bằng cách đó thơi
cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học là phải học cả đời.
Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của cuộc
sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh thức sự
tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ ln nghĩ về bản thân mình một cách tích

cực và đừng bao giờ phá vỡ suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.
Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất cần
thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác
và thuần thục và khéo léo, khơng chỉ địi hỏi trẻ phải thường xun luyện tập, mà
còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu
hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những
người xung quanh trẻ.
*Biện pháp 6: Phối hợp với các bậc cha mẹ thực hiện dạy trẻ các KNS cơ
bản
- Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công
bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.
- Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui chơi, tạo các tình huống mở để trẻ khám
phá và giải quyết.
Tôi đã tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Vì
đối với trẻ chơi trị chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn KNS cho trẻ.
Trẻ lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi
trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng.
Ví dụ: Tơi có thể giới thiệu với trẻ về một số hiện tượng tự nhiên qua tranh
ảnh, bài hát, hoạt động vui chơi hay các tình huống thực gặp trong ngày.( trời mưa,
cầu vồng…Từ đó giáo dục trẻ biết cách tránh mưa…)
- Liên tục đọc sách, trò chuyện, kể chuyện cho trẻ nghe
Tôi tranh thủ đọc sách cho trẻ nghe trong mọi tình huống như những giờ
hoạt động góc ở một nhóm nhỏ, hoặc đọc truyện cho trẻ nghe trong giờ trưa đối
với những trẻ khó ngủ.

15


Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo
đức cho trẻ, giúp trẻ hồn thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ u thương bạn bè,

yêu thương con người. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy
theo lứa tuổi, gợi mở tính tị mị, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
Ví dụ: Khi kể chuyện “ Ba cô gái” tôi đặt những câu hỏi gợi mở như: Nếu là
con khi hay tin mẹ bị ốm, con sẽ làm gì? gợi mở tính tị mị thay đổi đoạn kết của
truyện có hậu hơn, đặt tên khác cho câu chuyện v,v….
Trong gia đình, cha mẹ ln phiên cùng anh chị lớn đọc sách cho trẻ nghe,
hoặc thống nhất giờ đọc sách của gia đình, vào giờ đó các thành viên trong gia
đình đều đọc sách, báo hoặc đọc một thứ gì đó của mình.
Khi trẻ cịn nhỏ cha mẹ cần dành ra 15-20 phút / ngày để trò chuyện, đọc
sách cho trẻ nghe các loại sách phù hợp với lứa tuổi. Khi trẻ có thể tự đọc được
lúc đó việc đọc sách trở thành là niềm vui có giá trị và có ý nghĩa hơn giúp trẻ
phát triển sự ham hiểu biết, tìm tịi phát triển nhân cách của trẻ.
- Khuyến khích trẻ nói lên quan điểm của trẻ: nói chuyện với các thành viên
trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cố gắng
khơng chỉ trích các quyết định của trẻ. Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự kiểm
sốt bản thân, rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động xã hội và
các buổi thảo luận sau này.
- Giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích tích cực của mình và đảm bảo rằng
ngừơi lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó.
Ví dụ như trẻ thích vẽ, ngồi việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì tơi, cha mẹ
có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức tranh
để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của trẻ ở
góc nhỏ trong nhà.
- Cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách sử dụng các
đồ dùng ăn uống; hơn nữa trẻ sẽ được dạy cách sử dụng các đồ dùng đúng chức
năng một cách chính xác và thuần thục.Việc này được thực hiện trong giờ học, giờ
sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bữa cơm gia đình.
Cụ thể: Trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ
bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt
ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, khơng

vội vã, khơng khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng,
dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỷ
năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
*Biện pháp 7: Biện pháp giúp trẻ phát triển các KNS qua việc tổ chức
các hoạt động tập thể vui chơi, lành mạnh trong nhà trường.

16


Nội dung phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,
trong đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao
một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ
chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp
với lứa tuổi của học sinh.
Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt
động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ. Cụ
thể như sau:
- Tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường tổ chức cho giáo viên thi làm đồ
chơi dân gian; sáng tác bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho trẻ ở lứa tuổi mầm
non.
Nhà trường thống nhất lịch sinh hoạt của trẻ qua đó tơi có điều kiện tăng
cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian. Đồng thời, phát động phong trào làm đồ
chơi dân gian bằng vỏ hộp sữa học đường. Kết qủa có một số bộ đồ chơi dân gian
đạt giải cấp trường
Duy trì biện pháp tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong giờ
hoạt động ngoài trời vào các ngày thứ tư, sáu; riêng chiều thứ hai hàng tuần, trẻ
được xem các kịch bản rối qua các câu chuyện cổ tích, được trực tiếp chơi với các
con rối, giao lưu thi hỏi đáp về nội dung các câu chuyện.
- Tổ chức các hội thi, các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác
phù hợp với lứa tuổi của trẻ mầm non. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham

gia hoạt động đa dạng và phong phú của cha mẹ trẻ em, các tổ chức, lực lượng xã
hội, cá nhân trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lịng u nước
cho trẻ.
Cụ thể tơi đã tổ chức thực hiện các hoạt động nổi bật như sau:
- Tổ chức cho học sinh lớp 5-6 tuổi thi góc chơi “khám phá khoa học” theo
chủ đề bản thân, tôi lên tiết thực hành giúp trẻ trải nghiệm bằng các giác quan,
những trải nghiệm trong đời sống hàng ngày của trẻ
- Tổ chức cho trẻ mẫu giáo đến thăm nhà bạn trong chủ đề gia đình theo
từng tổ, từng nhóm trẻ. Hoạt động trên nhằm phối hợp với các bậc cha mẹ để có
thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết
bạn bè tại gia đình.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động tạo hình vào chiều thứ sáu tuần 1
của tháng có sự tham gia trực tiếp của cha mẹ trẻ cùng hoạt động với trẻ sắp đặt đồ
dùng ăn uống, bày bữa tiệc liên hoan mừng ngày tết của cơ giáo qua đó rèn luyện
cho trẻ kỹ năng sử dụng các đồ dùng ăn uống, dạy trẻ những nghi thức văn hoá
trong ăn uống.

17


- Tổ chức cho trẻ tham quan các cơng trình công cộng ( như trạm y tế, nhà
tưởng niệm Bác Hồ…) nhằm rèn luyện kỹ năng giao tiếp, giáo dục lịng u q
hương đất nước con ngươì.
- Tổ chức ngày hội “ Bánh chưng, bánh giày” lồng ghép giáo dục qua câu
chuyện lịch sử “Sự tích bánh chưng, bánh dày”. Hoạt động vui chơi giải trí này
cịn dành thời gian cho học sinh khối 5 tuổi thực hành chuyên đề “Bé tập làm nội
trợ”qua hội thi gói bánh chưng ngày tết, kết hợp tổ chức cho cô nuôi thi tuyên
truyền viên giỏi.
- Tổ chức hội diễn văn nghệ mừng xuân cho trẻ tại các góc chơi với chủ đề
“ Bé hát dân ca” thi “Trang phục dân gian”, tổ chức các gian hàng ẩm thực mùa

xuân, trò chơi dân gian, thi giải câu đố hay….
- Tổ chức cho trẻ lớp 5 tuổi tham quan, vui chơi các trò chơi dân gian trong
dịp đầu xuân như: Đập heo, lò cò, cướp cờ tại sân vận động hoặc nhà văn hoá xã,
giúp trẻ có dịp đến tham quan tìm hiểu nét văn hóa đặc trưng ở địa phương.
- Tổ chức hoạt động nghệ thuật cho trẻ qua hội thi “ Vẽ những điều mơ ước
cho mẹ”, tổ chức hoạt động phát triển tư duy qua một số hội thi có sự tham gia
trực tiếp của cha mẹ để cùng chơi với trẻ qua đó rèn luyện tính kiên nhẫn, kỹ năng
hợp tác với cha mẹ, ông bà để chiến thắng yêu cầu thử thách của luật chơi, phát
triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình cảm, nhận thức ở trẻ.
*Biện pháp 8: Tạo môi trường thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ dạy trẻ
KNS
- Để thuận lợi trong việc giáo dục KNS cho trẻ tôi đã trang bị các bảng
thông tin dành cho phụ huynh, dán các nội dung cần phối hợp với phụ huynh vào
đó để các bậc cha mẹ có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng giúp nhà trường tuyên
truyền đến cha mẹ của trẻ những kết quả giáo dục ở con mình, tạo điều kiện cho
giáo viên trao đổi hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có liên quan đến trẻ,
các thông tin của lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại các bậc cha mẹ có thể ghi chép
những yêu cầu, đề nghị, thông tin cần trao đổi với giáo viên.
- Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và các bậc cha mẹ tăng cường đọc
sách cho con trẻ. Tại lớp, tơi đã trang trí, sắp xếp góc thư viện và văn học, để nơi
dễ hoạt động với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề: “Thư viện trường mầm
non”; “tủ sách gia đình”; “dinh dưỡng trẻ thơ”; “những con vật đáng yêu”; “hoa
trái bốn mùa”; thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cỡ, vừa
tầm với của trẻ.
Ngồi ra, tơi tiếp tục thực hiện việc xây dựng thư viện cho bé tại nhóm, lớp,
vận động cha mẹ thừơng xuyên tặng sách cho góc thư viện của trẻ tại trừơng, tại
lớp và ngay ở gia đình.

18



- Tham mưu với ban giám hiệu trang trí sân trường bằng các khẩu hiệu nhắc
nhở giáo viên, người lớn phải gương mẫu như: “Yêu thương, tôn trọng trẻ, giữ lời
hứa với trẻ”; “Mỗi cô giáo là tấm gương sáng về đạo đức, tự học, sáng tạo” bằng
chính hình ảnh giáo viên và học sinh của trường, đặc biệt chú ý đưa hình ảnh đẹp
của các trẻ hiếu động, cá biệt để từ đó giúp trẻ tự điều chỉnh hành vi, giúp trẻ thể
hiện bản thân và luôn biết giữ gìn, là điều kiện để khen ngợi sự cố gắng của trẻ.
- Tạo nguồn kinh phí từ phụ huynh để mua thêm đồ dùng đồ chơi phục vụ
cho việc học và chơi để trải nghiệm của trẻ.
8. Những thông tin cần bảo mật.
Khơng có
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến.
Cơ sở vật chất: Tài liệu hướng dẫn phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ mầm non. Nhóm lớp có đủ đồ dùng, trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy và
học.
Kế hoạch thực hiện cụ thể cho năm học, cho từng tháng, từng tuần.
Môi trường sư phạm nhà trường.
Phụ huynh , học sinh lớp 5 – 6 tuổi.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác gia và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham
gia áp dụng sáng kiến lần đầu.
10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác
giả:
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng
thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của các thành viên trong tổ
và các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc giáo dục trẻ lớp
mình các KNS cơ bản thể hiện ở kết quả khảo sát lần 2 vào tháng 2 năm 2018 đã
đạt được như sau:
* Kết quả trên trẻ:
Trẻ được giáo dục, chăm sóc ni dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được

bảo đảm an tồn, phịng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.
Trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy
tình tị mị, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin.
Trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ
năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động
hàng ngày trong cuộc sống của trẻ; ngoài ra , trẻ được rèn luyện kỹ năng vận động

19


tinh, kỹ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thơng qua
các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục Aerobic.
Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt và chăm ngoan rất cao từ 98%
trở lên và ít gặp khó khăn khi ở lớp, trẻ có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật,
sắp xếp bàn ăn, tự xếp khay để khăn ăn bằng vỏ hộp sữa, tự chuẩn bị khăn ăn,
chén, tô, muỗng ….trong các giờ ăn, biết tự mở, tự rửa vỏ hộp sữa sau khi uống
sữa học đường cho cô giáo làm đồ chơi, biết phân công trực nhật sắp xếp bàn ăn,
tự xếp chăn và gối trước và sau khi ngủ ...
Đa số trẻ có các kỹ năng học tập tốt, biết cố gắng hồn thành cơng việc của
mình đến cùng, biết kết hợp với nhóm bạn trong các hoạt động hàng ngày.
Kết quả cụ thể như sau:
(Bảng phải thể hiện kết quả lần 1 và 2 để so sánh)
Tên kỹ năng

Xếp loại
Tốt

Khá

Đạt


Chưa đạt

- Nhóm KN nhận thức về bản thân 25= 83.3%

5=16,7%

0

0

- Nhóm kỹ năng tương tác

26=86.7%

4=13.3%

0

0

- Nhóm kỹ năng quản lí cảm xúc

27=90%

3=10%

0

0


- Nhóm kỹ năng giao tiếp và quan
25=83.3%
hệ xã hội

5=16.7%

0

0

- Nhóm kỹ năng học tập

6=20%

0

0

24=80%

* Kết quả từ phía các bậc cha mẹ:
Các bậc phụ huynh đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với GV trong
việc giáo dục trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức
thơng qua bảng thơng tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp, qua giờ đón
trả trẻ…
Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn,cha mẹ nói năng dịu dàng, ít la
mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, khơng cung
phụng trẻ thái q, khơng cịn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con,
tranh thủ đút cho con ăn, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lơ,

tự đi lên cầu thang, tự xúc cơm ở trẻ nhỏ …..
Cha mẹ cảm thấy hài lịng với thành cơng của trẻ, tin tưởng vào kết quả giáo
dục của nhà trường, luôn thông cảm, chia sẻ những khó khăn của cơ giáo, cung
cấp vật liệu, làm đồ dùng đồ chơi và trang trí lớp.
10.2. Đánh giá lơi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ
chức, cá nhân.

20


Sáng kiến kinh nghiệm này khi triển khai thực hiện mở rộng cho giáo viên
Trong tổ 5 tuổi ở trường tơi đã được các giáo viên đón nhận, hưởng ứng, nhiệt tình
,đánh giá cao. Các giáo viên đều có nhận xét là sáng kiến hay và thiết thực, có thể
áp dụng rộng rãi để giáo dục KNS cho trẻ trong độ tuổi mầm non.
Khi áp dụng sáng kiến này trong cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ, chất lượng
giáo dục trẻ được nâng lên rõ rệt, giúp phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
11.Danh sách những tổ chức ,cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu:
STT

Tên tổ chức, cá
nhân

Địa chỉ

Phạm vi/ Lĩnh vực áp dụng sáng kiến.

1

Lớp 5 Tuổi Trường
-Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống

A1
Mầm Non cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non
Đại Tự
-Lĩnh vực giáo dục tình cảm xã hội

2

Tổ
chuyên Trường
-Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống
môn tổ 5 tuổi Mầm Non cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non
Đại Tự
-Lĩnh vực giáo dục tình cảm xã hội

Trên đây là “một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi ở
trường mầm non” mà bản thân tôi đã áp dụng trong trong lớp 5TA1 và thu được
một số thành cơng nhất định. Trong q trình thực hiện đề tài có thể cịn một số
thiếu sót kính mong quý cấp bổ sung, góp ý để việc thực hiện đề tài của tơi được
hồn thiện hơn.
Tơi xin trân thành cảm ơn!
Đại Tự, ngày 02 tháng 03 năm 2017
Người viết sáng kiến
Lê Thị Hường

21


22



23



×