Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

skkn tìm hiểu khả năng thể hiện bố cục tranh vẽ của trẻ mẫu giáo lớn 5 6 tuổi trong trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.69 KB, 19 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH CHỌN ĐỀ TÀI:

Trong q trình phát triển lịch sử lồi người, nghệ thuật tạo hình là loại
hình nghệ thuật có từ rất sớm. Từ khi con người chưa có chữ viết, lồi người đã
dùng đường nét, hình dạng làm những ký hiệu trao đổi, gửi gắm thơng tin, biết
sắp xếp các hình mảng theo bố cục hợp lý. Trải qua quá trình phát triển lâu dài,
những đường nét, hình dạng đã trở thành một loại hình nghệ thuật tạo hình.
Những hình khắc hình vẽ trên vách hang động thời tiền sử đã chứng minh điều
đó, tuy rằng lúc ấy con người chưa nghĩ ra rằng đó là những tác phẩm tạo hình.
Nghệ thuật tạo hình ngày càng có vị trí quan trọng trong đời sống tinh
thần, đời sống văn hoá của nhân loại. Trẻ em ở lứa tuổi mẫu giáo rất thích vẽ dù
đó là những hành động vẽ hết sức tự nhiên.
Nhắc đến nghệ thuật tạo hình người ta khơng thể không nhắc đến hội hoạ
một môn nghệ thuật phổ biến và giữ vai trị chủ đạo. Hội hoạ có thể chia làm 2
phần đó là trí tưởng tượng và cách sắp xếp bố trí tìm ra chỗ đứng cho chúng. Hai
phần này có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên cái đẹp cho một tác phẩm hội
hoạ. Bố cục là một phận hết sức quan trọng của hội hoạ từ ý nghĩa đó có thể coi
bố cục là nền tảng, là khâu quan trọng cần được xây dựng trong quá trình dạy vẽ
cho mỗi người, đặc biệt là trẻ em.
Trong cuộc sống hàng ngày mỗi người đều có biểu hiện của cái nhìn
thẫm, trong đó sự sắp xếp, bố trí, tạo ra khoảng khơng gian, mơi trường ... sao
cho hợp lý nhất, làm cho con người đều muốn đưa cái đẹp vào cuộc sống. Chính
vì vậy việc tìm hiểu, nghiên cứu khả năng thể hiện bố cục cho trẻ rất quan trọng
bởi do đặc điểm tâm sinh lý ở trẻ, do khả năng tạo hình của trẻ mầm non chưa
phải là một hoạt động sáng tạo nghệ thuật thực thụ. Quá trình hoạt động và sản
phẩm hoạt động tạo hình của trẻ thể hiện ở các đặc điểm của một nhân cách
đang được hình thành. Hoạt đọng tạo hình của trẻ khơng nhằm mục đích tạo nên
những sản phẩm phục vụ xã hội cải tạo thế giới hiện thực xung quanh. Mục đích
và kết quả to lớn nhất của q trình hoạt động chính là việc sự biến đổi và phát
triển của chính bản thân chủ thể hoạt động.


Một đặc điểm rõ nét trong hoạt động tạo hình của trẻ em đó là tính “duy
kỷ” xem tranh vẽ của trẻ nhỏ ta thấy cái mà trẻ nhỏ quan tâm hơn cả trong q
trình vẽ, đó là việc vẽ cái gì ? chứ khơng phải vẽ như thế nào.
Mối quan tâm chính là HĐTH của trẻ tập trung vào sự thể hiện, biểu cảm
chứ khơng phải là “hình thức nghệ thuật thực sự của tác phẩm”. Trẻ càng nhỏ
càng ít quan tâm tới sự đánh giá them mỹ của người xem mà chỉ cố gắng truyền
1


đạt, giúp người xem hiểu được những suy nghĩ, thái độ, tình cảm của mình qua
những gì được miêu tả. Bởi vậy, sự hạn chế của khả năng tạo hình thường được
bù đắp rất tích cực bằng âm thanh, lời nói, cử chỉ, điệu bộ.
Cùng với tính duy kỷ, tính không chủ định cũng là một đặc điểm tâm lý
rất đặc trưng tạo cho sản phẩm HĐTH của trẻ vẻ hấp dẫn riêng. Do tính khơng
chủ định mà ngay q trình tạo hình trẻ mẫu giáo chưa có khả năng độc lập suy
nghĩ công việc sắp tới một cách chi tiết, các ý định miêu tả của trẻ thường nảy
sinh tình cờ. Để thực hiện ý định tạo hình trẻ cũng phải ra kế hoạch chung, song
các kế hoạch đó thường dễ bị thay đổi các yếu tố ngẫu nhiên xuất hiện trong q
trình quan sát, hoạt động trí nhớ hay cảm xúc.
Do đó việc vẽ tranh của trẻ ngồi việc tạo đường nét hình dạng, màu sắc
thì trẻ mẫu giáo còn sử dụng trong hoạt động vẽ một phương tiện truyền cảm
khác đó là việc sắp xếp các vị trí các hình ảnh trong khơng gian tranh hay cịn
gọi là xây dựng bố cục. Với kiểu bố cục cân đối hợp lý sẽ tạo ra nhịp điệu của
bài vẽ, mà nhịp điệu là cơ sở ban đầu của tổ chức không gian trong bố cục tranh
của trẻ. Khả năng cảm nhận nhịp điệu và thể hiện tính nhịp điệu cùng thế cân
bằng trong cách tổ chức không gian tranh vẽ được phát triển theo các lứa tuổi
cùng với khả năng nhận thức(tri giác, tư duy, tưởng tượng…) của trẻ.
Qua nghiên cứu tình hình thực tế ở các trường mần non, ta thấy: Tại các
trường mầm non giáo viên đã dạy vẽ cho trẻ theo đúng phương pháp tuy nhiên
trẻ vẫn vẽ theo cảm hứng. Trẻ các hình ảnh, hình vẽ đã cụ thể, có các chi tiết đã

miêu tả tương đối tốt như trẻ 5 - 6 tuổi đã biết phối hợp nhiều hình tượng trong
một bức tranh xong những hình vẽ của trẻ cịn sắp xếp thiếu hợp lý hoặc lệch
trên lệch dưới, lệch sang phải hoặc lệch sang trái còn nhiều.
Tuy ở trẻ 5 - 6 tuổi đã có những bước tiến rõ rệt nhưng tỉ lệ trẻ chưa có lối
sắp xếp bố cục hợp lý cịn tương đối nhiều, ở trẻ mẫu giáo lớn khi vẽ tranh trẻ đã
biết sử dụng lối bố cục tương xứng, xen kẽ hoặc phối cảnh…., song đó có số lượng
ít làm cho sản phẩm tạo hình của trẻ cịn thiếu đi sự cân đối hài hoà cần thiết.
Như chúng ta đều thấy trẻ càng lớn càng có sự phát triển về nhận thúc và
nhiều trẻ còn thể hiện rõ năng khiếu hội hoạ của mình, do đó việc dạy cho trẻ ngoài
việc dạy trẻ học cách: biết vẽ, biết cách tô màu, biết quan sát để tạo ra sản phẩm thì
việc giáo viên truyền cho trẻ những kiến thức, những hình thức bố cục cơ bản giúp
trẻ nâng cao khả năng nhìn nhận, xây dựng tạo ra cái đẹp cho bản thân mình, cho
xã hội, ngồi ra cịn giúp những trẻ có năng khiếu phát triển khả năng của mình.
Bên cạnh đó việc dạy cho trẻ cách thể hiện bố cục trong các trường mầm non còn

2


mang tính chất sơ sài, ít quan tâm tới hoặc nếu có cũng cịn nhiều hạn chế chưa
phát huy được khả năng nhận thức của trẻ.
Xuất phát từ những lý do trên tơi đi đến lựa chọn đề tài: Tìm hiểu khả
năng thể hiện bố cục tranh vẽ của trẻ mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi trong trường
mầm non”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:

Tìm hiểu khả năng thể hiện bố cục tranh vẽ của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi từ
đó giúp giáo viên có phương pháp giáo dục hiệu quả nhằm cung cấp cho trẻ
những kiến thức cơ bản về bố cục và cách xây dựng bố cục tranh.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:


Đối tượng nghiên cứu: Khả năng thể hiện bố cục trong tranh vẽ của trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:

- Tìm hiểu khả năng thể hiện bố cục trong tranh vẽ của trẻ mẫu giáo 5 - 6
tuổi trong trường mầm non Ninh Hải.
- Địa điểm nơi tôi nghiên cứu tại trường mầm non Ninh Hải
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2014 đến 4/2015
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

Tôi sử dụng kết hợp các nhóm phương pháp sau khi thực hiện đề tài này.
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu nhập, đọc hiểu, phân tích, tổng
hợp, khát qt hố lý thuyết, nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận có liên
quan để xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu.
5.2. Phương pháp quan sát: tiến hành quan sát tự nhiên quá trình vẽ tranh
của trẻ nhằm thu nhập thông tin thực tiễn về đặc điểm, khả năng thể hiện bố cục
của tranh vẽ của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
5.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động nghiên cứu tranh vẽ của
trẻ mẫu giáo.
5.4. Phương pháp thống kê tốn học sử dụng cơng thức tốn học tính phần
trăm để xử lý kết quả thu được.
Trong các phương pháp nghiên cứu trên, phương pháp nghiên cứu sản phẩm
hoạt động là phương pháp chủ yếu các phương pháp khác đóng vai trị bổ trợ.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Vài nét cơ bản về HĐTH ở lứa tuổi mầm non:

3



HĐTH ở lứa tuổi mầm non chưa phải là một hoạt động sáng tạo nghệ thuật
thực thụ. Bởi vậy bản thân của hoạt động này và các sản phẩm do trẻ tạo ra khác
xa so với hoạt động tạo hình của các hoạ sỹ trưởng thành. HĐTH của trẻ em
không nhằm mục đích tạo nên những sản phẩm phục vụ cho xã hội, cải tạo hiện
thực xung quanh mà kết quả to lớn nhất của nó là sự biến đổi, phát triển chính
bản thân chủ thể hoạt động của trẻ.
Một đặc điểm rõ nét trong hoạt động tạo hình của trẻ em đó là tính duy kỷ.
Xem tranh của trẻ chính tính duy kỷ đã giúp trẻ nhỏ đến với hoạt động tạo hình
một cách dễ dàng trẻ khơng biết sợ, khơng biết tới những khó khăn khi miêu tả,
bởi trẻ sẵn sàng vẽ mọi thứ miễn là trẻ thích. Trẻ ln quan tâm xem vẽ cái gì
chứ khơng phải vẽ như thế nào. Trẻ càng nhỏ càng dễ chọn đối tượng miêu tả,
trẻ ít quan tâm tới thái độ đánh giá của người khác mà cố gắng thể hiện suy nghĩ,
thái độ tình cảm ý tưởng của mình thơng qua bài vẽ.
Cùng với tính duy kỷ của trẻ HĐTH của trẻ cịn mang tính khơng chủ định
rất đặc trưng làm cho sản phẩm HĐTH của trẻ có vẻ hấp dẫn riêng. Do tính chủ
động mà trong q trình HĐTH của trẻ mẫu giáo chưa có khả năng độc lập suy
nghĩ công việc sắp tới một cách chi tiết, các ý định miêu tả thường nảy sinh một
cách tình cờ. Để thực hiện ý định tạo hình trẻ cũng phác thảo ra kế hoạch chung
chung, song nó dễ bị thay đổi bởi các yếu tố ngẫu nhiên xuất hiện trong q
trình quan sát, trong hoạt động trí nhớ hay cảm xúc.
Tranh vẽ của trẻ dường như là một câu chuyện đồ hoạ, khi kể “câu
chuyện” ấy cũng như khi kể câu chuyện bằng lời nói, trẻ thường vẽ bắt đầu bằng
một chi tiết nào đó, sau đó thêm dần các chi tiết mới. Đôi khi trẻ liên kết vào
một bức tranh tới vài hành động, vài sự kiện xảy ra với cùng một nhân vật
(nhân vật đó được vẽ nhiều lần, ở nhiều vị trí, tư thế trong bức tranh), và kết quả
tạo nên một bố cục rất tự nhiên. Khi vẽ tranh trẻ thường khó phân biệt sự vật,
nhân vật chính và chưa biết cách làm cho chúng nổi bật, những gì mà trẻ muốn
thể hiện thường được liệt kê theo luồng suy nghĩ còn chưa mạch lạc của trẻ. Chú

tâm vào thể hiện nội dung các ý tưởng trẻ thường vẽ rất say xưa, nhưng khác với
người lớn, vẽ xong từng chi tiết trẻ hầu như không xem xét lại, không quan tâm
tới chúng nữa và không biết sửa sai, tơ vẽ lại.
Tóm lại: khi nghiên cứu các tranh vẽ tự do của trẻ người ta nhận thấy chúng
thể hiện ở đó phần nhiều là những gì nó nhìn thấy, nó biết, nó nghĩ, theo cách
cảm nhận của trẻ thơ chứ chưa hẳn là những gì giống như cái mà chúng ta nhìn
thấy. Đây là một đặc điểm đáng lưu ý, một điều kiện thuận lợi mà người ta đã
tận dụng để đi sâu tìm hiểu tâm lý của trẻ em. Tuy nhiên, cứ để lập lại hiện
4


tượng này thì có thể là một nhược điểm gây cản trở cho sự phát triển hoạt động
tạo hình của trẻ, hạn chế sự phát triển của hình tượng nghệ thuật. Để khắc phục
nhược điểm này cần giúp trẻ bổ sung cho nội dung tranh vẽ của trẻ bằng những
kinh nghiệm thu được từ quá trình quan sát, từ các sự vật hiện tượng có trong
hiện thực, những hình tượng trong các tác phẩm nghệ thuật.
Chúng ta sẽ cùng nghiên cứu đặc điểm tạo hình của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi:
- Khả năng tạo hình là đặc điểm riêng của từng trẻ đảm bảo sự lĩnh hội
những thuộc tính sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ và thể hiện trên tranh vẽ
bằng đường nét, hình dạng, bố cục…
- Khả năng khơng phải là bẩm sinh mà nó chỉ hình thành và phát triển
trong quá trình hoạt động. Kết quả hoạt động lại tuỳ thuộc vào trình độ phát
triển khả năng hình thành trong q trình hoạt động đó.
- Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo lớn đã có khả năng suy nghĩ trước về nội dung
và phương tiện thể hiện, trẻ có thể tự quyết định vẽ cái gì vẽ như thế nào theo sự
lựa chọn của mình hoặc theo đề tài cho trước, cái gì là chủ yếu, bắt đầu từ cái gì
sáp xếp bố cục vẽ như thế nào.
- Như vậy các giai đoạn của hoạt động khác với người lớn. Hình tượng trẻ
xây dựng trong hoạt động sáng tạo khơng nên coi như một hình tượng nghệ
thuật do người lớn sáng tạo, bởi vì trrẻ chưa làm được những tổng kết sâu sắc.

2. Vài nét về khả năng thể hiện bố cục trong không gian của trẻ
2.1. Thế nào là quá trình thể hiện bố cục:
Quá trình thể hiện bố cục là việc sắp xếp phân bố một cách hợp lí trong
khơng gian tranh để tạo được sự cân đối nhịp nhàng về mằu sắc hình dạng
đường nét của bài vẽ.
2.2. Vài nét về cách thể hiện bố cục trong không gian của trẻ mẫu giáo
5 - 6 tuổi.
Trẻ mẫu giáo lớn khả năng tri giác và tư duy khơng gian có bước phát
triển rõ nét trẻ biết từng bước xác định được quan hệ giữa không gian ba chiều
với không gian hai chiều của tờ giấy vẽ. Trong quá trình thể hiện tranh vẽ trẻ
quen dần với lối thể hiện theo luật phối cảnh, trước hết đơn giản hơn với trẻ là
cách sắp xếp trong tranh theo một hàng ngang hoặc một dãy chạy dài ở phần
dưới của tờ giấy. Ban đầu bố cục còn lỏng lẻo, rời rạc trẻ thường thể hiện theo
cảm tính và dịng suy nghĩ độc lập. Trong q trình tri giác đối tượng miêu tả, vị
trí trong khơng gian của sự vật hiện tượng đã được trẻ ghi nhận bổ sung. Trẻ 56 tuổi đã có thể phối hợp hoạt động vẽ với các bài tập các hoạt động xếp dán, trẻ
có thể chắp khép các hình khối, các hình học cơ bản (dạng sơ đồ) tới thể hiện
5


hình vẽ sinh động bằng nét vẽ liền mạch uyển chuyển. Trẻ đã biết sắp xếp hợp
lý các bài tập tạo hình theo mẫu, hoặc tạo hình theo đề tài thể hiện theo thứ tự
các bộ phận chính tới các chi tiết phụ thể hiện liền mạch bước đầu từ một chi tiết
bất kỳ trong cấu trúc của bài vẽ. Trẻ 5 - 6 tuổi khi quan sát trẻ đã biết so sánh sự
khác nhau giữa các đồ vật ở độ lớn, kích thước tỉ lệ, chiều cao và chiều rộng, ví
dụ: quan sát cây trẻ đã thấy sự khác nhau giữa các loại cây cây to cây nhỏ, cây lá
xanh, lá vàng, lá đỏ… hoặc các ngôi nhà khác nhau nhiều tầng, một tầng…
Trẻ đã biết phân biệt được vị trí các bộ phận trong một đồ vật(ở trên, ở
dưới, bên cạnh hay ở giữa) so sánh cấu tạo, tìm sự khác nhau giữa các bộ phận ở
đặc điểm riêng biệt như sự khác nhau giữa gà - vịt, giữa ô tô và tầu hoả… con gà
trống đang mổ thóc có gì khác con gà trống đang gáy hay đang chạy… Sự khác

biệt đó là sự thay đổi cơ bản về hướng và vị trí của các bộ phận.
3. Vài nét về khả năng thể hiện bố cục trong tranh vẽ của trẻ mẫu
giáo đặc biệt là của trẻ mẫu giáo lớn.
3.1. Khái niệm về bố cục trong tranh vẽ
Bố cục trong tranh vẽ là sự sắp xếp, phân bố một cách hợp lý trong không
gian tranh để tạo được sự cân đối nhịp nhàng về hình mảng, đường nét, màu sắc,
đậm nhạt của bài vẽ. Có thể nói bố cục là hình thức biểu đạt có hiệu quả nhất
cho việc xây dựng một hình tượng nghệ thuật hay một đề tài.
Bố cục trong hội hoạ là sự tổng hồ các yếu tố tạo hình như đường nét,
hình khối đậm nhạt, sắp xếp chúng trong một khuôn khổ nhất định của một bức
tranh thông qua cảm xúc của người hoạ sỹ để tạo ra một giải pháp hợp lý, nổi
bật được nội dung, chủ đề của bức tranh.
3.2. Đặc điểm về khả năng xây dựng bố cục trong tranh vẽ của trẻ mẫu giáo.
Ngồi đường nét, hình dạng, màu sắc trẻ mẫu giáo còn sử dụng trong hoạt
động vẽ một phương tiện truyền cảm khác đó là sự sắp xếp vị trí các hình ảnh
trong khơng gian tranh hay còn gọi là xây dựng bố cục.
Do đặc điểm lứa tuổi, của trình độ tri giác khơng gian và tư duy khơng
gian mà trong q trình vẽ, trẻ nhỏ khơng sao chụp cách sắp xếp không gian
giống như chúng ta nhìn thấy trong thực tế. Trẻ ln tìm cách bố trí hình ảnh các
sự vật trong phạm vi tờ giấy cho phù hợp với nội dung mà chúng nghĩ. Bố cục
tranh vẽ của trẻ nhỏ khác biệt rất rõ với bố cục tranh vẽ của người lớn ở mối
quan hệ giữa ý tưởng với cấu trúc đồ hoạ. Tính duy kỷ, tính khơng chủ định
trong q trình tâm lý thường làm cho mối quan hệ giữa nội dung với hình thức
của trẻ em trở nên lỏng lẻo. Bởi vậy, bố cục tranh của trẻ thường có vẻ “mất trật
tự” trong con mắt người lớn. Tuy vậy, khi xem xét kỹ tranh vẽ của trẻ chúng ta
6


cũng đã thấy “sự có mặt” của các yếu tố gây truyền cảm bằng sự bố trí, sắp xếp
hình ảnh đó là việc tạo nhịp điệu và tạo thế cân xứng của các thành tố trong một

bố cục như một phương tiện tích cực thể hiện ý định tưởng tượng sáng tạo.
Nhịp điệu là cơ sở ban đầu của sự tổ chức không gian trong bố cục tranh
trẻ em, khả năng cảm nhận nhịp điệu và thể hiện tính nhịp điệu cùng thế cân
bằng trong các tổ chức không gian tranh vẽ được phát triển theo các lứa tuổi
cùng với khả năng nhận thức (tri giác, tư duy, tưởng tượng….) của trẻ.
Để hiểu rõ khả năng xây dựng bố cục trong tranh vẽ của trẻ mẫu giáo 5- 6
tuổi chúng ta cùng tìm hiểu về khả năng xây dựng bố cục trong tranh vẽ của các
lứa tuổi trước.
• Trẻ 2 - 3 tuổi: Ở lứa tuổi này, trẻ chưa có khả năng thể hiện tranh với
bố cục gợi sự hình dung về khơng gian ba chiều. Trong q trình vui chơi - tạo
hình, trẻ có thể cảm nhận bằng các giác quan (thị giác, xúc giác, vận động), tính
nhịp điệu của sự sắp xếp các đường nét, các dấu chấm, vạch, các hình thể cùng
nhịp điệu của các vận động tay. Khi trẻ cùng người lớn bổ sung các hình vẽ và
mô tả các hiện tượng đơn giản bằng các vận động và sự sắp xếp hình thể tập
định hướng trên không gian hai chiều của một mặt phẳng tranh và làm quen với
tính nhịp điệu của bố cục.
• Trẻ 3 – 4 tuổi: Trẻ ở lứa tuổi này đã có thể “đọc tranh” và tập định hướng
trong khơng gian tranh, định hướng trong không gian hai chiều của tờ giấy vẽ.
Khi bố trí các hình ảnh trong khơng gian tranh, trẻ có khả năng thể hiện nhịp điệu
trong sự sắp xếp lặp đi lặp lại các chi tiết, các sự vật đơn lẻ cùng loại về hình
dạng, về kích thước trong khắp tờ mặt giấy (ví dụ: vẽ những quả chín trên cành)
hay có thể sắp xếp các hình ảnh, sự vật thành hàng (vẽ những dây cờ, vẽ mưa…)
• Trẻ 4- 5 tuổi: Tri giác khơng gian và tư duy không gian phát triển giúp trẻ
ở lứa tuổi này có thể liên hệ giữa khơng gian ba chiều của khung cảnh hiện thực
với không gian hai chiều của tờ giấy trên tờ giấy vẽ, trẻ tập sắp xếp các hình
ảnh, trong đó đã phân biệt đối tượng miêu tả chính trên nền các thành phần thứ
yếu. Từ sự thể hiện nhịp điệu của sự lặp đi lặp lại các yếu tố giống nhau, trẻ bắt
đầu quan sát và làm quen với cách sắp xếp theo nhịp xen kẽ giữa các yếu tố khác
nhau: từ xen kẽ chính xác đều đặn kiểu hoa văn trang trí tới sự xen kẽ khơng
theo trình tự chặt chẽ, gần gũi với hiện thực sinh động. Ví dụ: Trẻ vẽ đường phố:

thể hiện sự xen kẽ sắp xếp giữa các kiểu nhà các loại cây … với kích thước kiểu
dáng khác nhau…
• Trẻ 5 - 6 tuổi: Do đặc điểm của lứa tuổi trẻ 5 - 6 tuổi vốn biểu tượng đã
phong phú về hình dạng, màu sắc, kích thước và những thuộc tính khác nhau
7


của đồ vật. Vì vậy hình tượng trong tranh vẽ của trẻ gần với thực hơn, có các bộ
phận chi tiết, màu sắc phong phú của trình độ tri giác không gian, tư duy không
gian, ở độ tuổi này một số kỹ năng kĩ xảo đã được hình thành tương đối vững
chắc như: nền nếp thói quen học tập, cách sử dụng các dụng cụ tạo hình, các
thao tác kỹ năng tạo ra sản phẩm…
• Trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trình độ tri giác khơng gian và tư duy khơng gian
trong q trình vẽ trẻ khơng sao chụp cách sắp xếp khơng gian giống như chúng
ta nhìn thấy trong thực tế.
Phương thức tổ chức tranh vẽ như vậy tuy cịn rất sơ đẳng nhưng là mầm
mống để hình thành khả năng sử dụng bố cục như phương thức tích cực thể hiện
ý định tưởng tượng, sáng tạo. Nhịp điệu là cơ sở ban đầu của sự tổ chức không
gian trong bố cục tranh, khả năng cảm nhận nhịp điệu và thể hiện tính nhịp điệu
cùng thế cân bằng trong cách tổ chức không gian tranh vẽ của trẻ được phát triển
rõ nét cùng với khả năng phát triển nhận thức.
Về khả năng xây dựng bố cục trong tranh vẽ của trẻ, nhiều nhà nghiên cứu
cho rằng trẻ có thể nắm được tính chất của nhiều tầng cảnh trong cách thể hiện
chiều sâu khong gian bức tranh nếu như tạo điều kiện phát triển ở trẻ khả năng
quan sát khơng gian.
Với trẻ 5 - 6 tuổi ngồi khả năng tạo nhịp điệu, trẻ mẫu giáo lớn đã biết tạo
nên bố cục tranh với thế cân bằng qua cách sắp xếp đối xứng và khơng đối xứng
(các hình ảnh khơng đồng đều to - nhỏ, cao thấp…) Để tạo mối liên hệ chặt chẽ
giữa nội dung với hình thức của tranh, nhiều trẻ đã biết dùng cách sắp xếp thể hiện
sự vận động, hành động và các mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng, nhân vật để

thể hiện tạo ra một khơng gian có chiều sâu với từng cảnh. Tính nhịp điệu trong bố
cục tranh vẽ của trẻ 5 - 6 tuổi được thể hiện ở nhiều vẻ: bằng sự sắp xếp lặp đi lặp
lại của các hình ảnh cùng loại bằng sự sắp xếp đan xen các hình ảnh khơng cùng
nhau, bằng sự phân biệt thể hiện quan hệ chính phụ.
Tóm lại, hiệu quả của việc sử dụng các phương tiện tạo hình trong tranh
vẽ của trẻ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tri giác không gian tri giác hình
tượng, vào sự lựa chọn góc độ nhìn và khả năng cảm nhận vẻ đẹp đa dạng, sinh
động của thế giới xung quanh (hay là khả năng tri giác thẩm mỹ). Đồng thời phụ
thuộc vào khả năng tưởng tượng sáng tạo, biến đổi hình tượng, mức độ phong
phú, sâu sắc của cảm xúc tình cảm thẩm mỹ của trẻ. Trong HĐTH vẽ tranh có
nhiều loại bố cục khác nhau như bố cục hình tháp, bố cục theo nhịp điệu, bố cục
tự do … đối với trẻ mẫu giáo trong các loại bố cục thì bố cục hàng lối, lặp lại
xen kẽ là lối bố cục trẻ dễ sử dụng, vì do đặc diểm tâm sinh lý, do sự phát triển
8


về khả năng nhận thức của trẻ nếu như ở trẻ 3 - 4 tuổi đã có một số kinh nghiệm,
trẻ nhận biết phân biệt được vật này với vật khác, phân biệt được các hình vng
hình trịn, các vận động tay có phần khéo tay hơn so với lứa tuổi nhà trẻ có khả
năng sử dụng một số dụng cụ vật liệu như điều khiển bút theo ý mình trẻ có thể
tri giác được cùng lúc nhiều đồ vật . Trẻ có khả năng sắp xếp 2-3 hình tượng
trong một trang giấy, ví dụ: vẽ con gà đang đi, mặt đất có cỏ hoa trên trời có mặt
trời, song sang trẻ 5- 6 tuổi thì các chức năng tâm lý được phát triển hoàn thiện
đối tượng tri giác rộng hơn đầy đủ hơn. Các vận động tay đã linh hoạt khéo léo,
vì vậy hoạt động tạo hình ngày càng phong phú sinh động hơn, tuy vậy vẫn
mang tính chủ quan, như trẻ chú ý đến miệng đang cười thì miệng to gần hết mặt
răng to hơn mắt mũi, đặc biệt trẻ biết sắp xếp các hình tượng trong mối quan hệ
của chúng thể hiện được không gian, thời gian, như cạnh ngơi nhà có cây phía
dưới, có cỏ hoa, chim bay hoặc ban ngày có mặt trời…. Đặc biệt với trẻ 5 - 6
tuổi vốn kinh nghiệm phong phú hơn các biểu tượng hình thành khá đầy đủ về

hình dáng cấu trúc, đặc điểm riêng biệt. Tư duy của trẻ phát triển mạnh, tư duy
trực quan cụ thể tư duy trực quan hình tượng tư duy trìu tượng đang được hình
thành và phát triển.
Vì vậy hình tượng trong hoạt động tạo hình của trẻ đến gần với hiện thực
mất đi tính chủ quan, trẻ thích tạo hình theo ý mình bằng vốn kinh nghiệm đã có
hình tượng phong phú, đa dạng, đầy đủ các chi tiết, ví dụ: Vẽ người có đầy đủ
các bộ phận đầu, cổ, chân, mắt …trẻ ở độ tuổi này bố cục thường mang tính liệt
kê, bước đầu trẻ biết sắp xếp các hình tượng trong mối quan hệ giữa chúng. Một
lần nữa ta có thể khẳng định ở lứa tuổi này tuy trẻ đã có những bước tiến rõ rệt
về bố cục, nhưng vẫn cịn yếu và chưa có hệ thống, chưa phát huy được tính
sáng tạo của trẻ ở các trường học, việc tổ chức sắp xếp dạy trẻ thể hiện bố cục
còn sơ sài mang nặng tính chất sơ đẳng, các giáo viên thường ít quan tâm chú ý
tới nếu có cũng chỉ là sơ lược .
3.3. Vai trò, ý nghĩa của bố cục trong sự phát triển toàn diện của trẻ.
Như chúng ta đã biết ở trẻ mẫu giáo “học mà chơi - chơi mà học” và ta có
thể nói vẽ tranh của trẻ chính là chơi, chính vì thế vẽ tranh là một loại hình được
nhiều trẻ u thích đặc biệt là trẻ mẫu giáo. Bên cạnh đường nét, hình dáng, mầu
sắc thì bố cục có vai trị quan trọng đối với sự thành công của một “tác phẩm”
cũng như đối với sự phát triển trí tuệ và thẩm mỹ cho trẻ.
Đối với trẻ mẫu giáo yêu cầu về một bố cục hợp lý và đẹp mắt là rất khó
ban đầu còn lỏng lẻo, rời rạc bởi trẻ chưa hiểu được bố cục có một ý nghĩa vơ
cùng quan trọng có thể khẳng định bố cục là một trong những phương tiện để
9


phát triển ở trẻ khả năng phát triển trí tuệ, khả năng tri giác, tư duy tưởng
tượng… cùng với sự phát triển trí tuệ bố cục cũng có vai trị trong việc giáo dục
thẩm mỹ cho trẻ.
Có được sự phát triển cảm xúc về bố cục chỉ có được một khi trẻ có
những hiểu biết sơ đẳng về chúng. Bố cục khơng chỉ có vai trị trong việc thể

hiện một nội dung mạch lạc mà cịn có tác dụng củng cố, phát triển trí tuệ và
giáo dục thẩm mỹ cho trẻ ngồi ra nó cịn là yếu tố cơ bản trong vẽ trang trí và
vẽ theo mẫu. Điều này càng khẳng định vị trí của hoạt động vẽ tranh nói chung
và bố cục nói riêng đối với HĐTH ở trường MN.

Chương II
NGHIÊN CỨU THỰC TẾ
1. Nội dung và phương pháp nghiên cứu:
- Nội dung nghiên cứu: Tìm hiểu khả năng thể hiện bố cục trong tranh vẽ
của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
- Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sản phẩm hoạt động, phương pháp
cho trẻ thực hành và phương pháp điều tra hỏi đáp.
2. Vài nét về cơ sở giáo dục được nghiên cứu:
Để nắm được đặc điểm, khả năng thể hiện bố cục trong tranh vẽ của trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi tôi đã tiến hành khảo sát và nghiên cứu tranh vẽ của các cháu
mẫu giáo Trường mầm non Ninh Hải
2.1. Vài nét về nhà trường:
Trường mầm non Ninh Hải là một trường có nhiều thành tích trong các năm
học và trong các hội thi giáo viên giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, là trường 3 năm liên tục
được nhận lá cờ đầu của Huyện Hoa Lư nói riêng, của tỉnh Ninh Bình nói chung.
Hiện nay trường có tổng cộng 38 cán bộ giáo viên, nhân viên. Đội ngũ
giáo viên của trường 100% đạt trên chuẩn. Giáo viên trong trường chị em khơng
chỉ đồn kết mà cịn có bề dày kinh nghiệm trong cơng tác chăm sóc và giáo dục
trẻ, ln ln được sự tin tưởng tơn trọng của phụ huynh và của Phịng Giáo dục
Huyện Hoa Lư. Giáo viên trong trường nói chung và giáo viên ba lớp mẫu giáo
mà tơi nghiên cứu đều có tinh thần yêu nghề mến trẻ, mỗi lớp mẫu giáo trung
bình có khoảng 25 cháu và đều có hai giáo viên chủ nhiệm.
2.2. Vài nét khát quát về trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
Năm học 2014 - 2015 có tổng số 250 cháu mẫu giáo, trong đó các cháu
nhóm lớp 5 - 6 tuổi có tổng số 75 cháu ở khu trung tâm của trường. Nhóm lớp

tơi tiến hành tổ chức nghiên cứu gồm có 75 cháu, nhìn chung các cháu có sức
khoẻ tốt, đặc điểm phát triển tâm sinh lý đạt ở mức độ cao. Cụ thể đặc điểm phát
10


triển trí tuệ đạt mức phát triển tương đối tốt trình độ nhân thức thế giới xung
quanh có sự tiến bộ vượt bậc so với lứa tuổi trước. Đặc điểm phát triển cảm xúc
mạnh, trẻ thể hiện tình cảm của mình một cách sâu sắc có cá tính thể hiện sự yêu
ghét rõ ràng. Trẻ có sự phát triển mạnh về thể lực, đối với hoạt động tạo hình nói
riêng trẻ có sự định hướng, điều khiển được nét vẽ của mình. Các vận động của
đơi bàn tay dần dần mang tính chủ định nên trẻ đã khéo léo hơn, sản phẩm tạo
hình cũng trở nên phong phú, đa dạng.
Hầu hết học sinh ở 3 lớp đều ở điểm trường trung tâm, là điểm gần khu du
lịch Tam Cốc, có nhiều khách đến thăm quan nên việc giao lưu văn hố rất
thuận lợi. Chính những điều kiện đó đã tạo nên phong cách riêng cho học sinh,
khối lớp đó trẻ dễ tiếp xúc, dễ làm quen, ưa hoạt động, ham hiểu biết, điều này
thể hiện rất rõ khi tôi đến lớp tiếp xúc và trò chuyện với trẻ.
2.3. Khả năng thể hiện bố cục trong tranh vẽ của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
Trường mầm non Ninh Hải, bằng các phương pháp nghiên cứu như đã nói
tơi đã tiến hành dự giờ HĐTH (vẽ tranh) của 75 trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi của
trường để đánh giá khả năng thể hiện bố cục trong tranh vẽ của trẻ.
Trong q trình nghiên cứu chúng tơi tiến hành quan sát hoạt động tạo
hình của trẻ (trong tiết học).
Dự giờ 15 tiết vẽ của trẻ với các nội dung sau:
1. Vẽ trường mầm non - tiết mẫu
2. Vẽ cô giáo của bé - tiết mẫu
3. Tiết vẽ gia đình của bé - tiết đề tài
4. Vẽ theo ý thích (chủ điểm bản thân) tiết ý thích
5. Tiết vẽ quả chín - tiết đề tài
6. Tiết vẽ hồ nước - tiết đề tài

7. Vẽ con gà trống - tiết mẫu
8. Vẽ ngôi nhà của bé - tiết đề tài
9. Vẽ con cá - tiết mẫu
10. Vẽ bông hoa - đề tài
11. Vẽ cây xanh - tiết đề tài
12. Vẽ hoa quả ngày tết đề tài
13. Vẽ ô tô - đề tài
14.Vẽ con mèo - mẫu
15. Vẽ mùa xuân - đề tài
Phân tích bản ghi chép về các tiết học và 700 sản phẩm tạo hình của trẻ tơi
đã rút ra một số kết luận:
11


Để đánh giá khả năng thể hiện bố cục trong tranh vẽ của trẻ tôi tiến hành
đánh giá trên hai khía cạnh cụ thể:
Khả năng sử dụng các hình thức bố cục trong tranh vẽ của trẻ mẫu giáo,
tôi tiến hành đánh giá dựa trên các mức độ sau:
* Tiêu chuẩn và thang đánh giá:
- Mức độ phức tạp: Trẻ có khả năng sử dụng các hình thức bố cục mạng,
bố cục theo phối cảnh và một số hình thức bố cục khác.
- Mức độ đơn giản: Trẻ có khả năng sử dụng các hình thức bố cục hàng lối
lặp lại bố cục xen kẽ.
- Và mức độ cuối cùng : Trẻ khơng biết sử dụng các hình thức bố cục .
Khả năng xây dựng bố cục trong tranh vẽ của trẻ mẫu giáo: Căn cứ vào
các yêu cầu cơ bản của bố cục tranh, vào đặc điểm khả năng xây dựng bố cục
của trẻ mẫu giáo chúng tôi đưa ra những tiêu chí để đánh giá khả năng xây dựng
bố cục trong tranh vẽ của trẻ như sau:
+ Mức độ tốt:
. Có mảng chính, mảng phụ sắp xếp cân đối hợp lý.

. Hình dạng, đường nét rõ ràng, biết phối hợp các loại nét.
. Thể hiện được độ đâm nhạt của mảng chính mảng phụ.
. Màu sắc hài hồ
+ Mức độ khá:
. Có mảng chính mảng phụ, sắp xếp tương đói hợp lý.
. Hình dạng, đường nét tương đối rõ ràng biết sử dụng các loại nét.
. Độ đậm nhạt của các mảng chính mảng phụ chưa rõ ràng.
. Màu sắc tương đối hài hồ.
+ Mức độ trung bình:
. Mảng chính mảng phụ sắp xếp chưa thật sự hợp lý.
. Hình dạng, đường nét chưa rõ ràng
. Khơng thể hiện được độ đậm nhạt của mảng chính, mảng phụ
. Màu sắc khơng hài hồ
+ Mức độ yếu kém:
. Khơng phân biệt được các mảng chính mảng phụ.
. Hình dạng đường nét tương đối rõ ràng.
. Không thể hiện được độ đậm nhạt của các mảng chính mảng phụ
. Chưa thể hiện được màu sắc

12


Tôi sử dụng 10 phiếu thu thập ý kiến của giáo viên MN phụ trách các lớp
5 - 6 tuổi của trường mầm non Ninh Hải, về khả năng thể hiện bố cục trong
tranh vẽ của trẻ ở các mức độ khác nhau ở cùng độ tuổi.

Chương III:
PHÂN TÍCH KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
1. Kết quả điều tra:
Chúng tôi dùng phiếu câu hỏi để điều tra 6 giáo viên mầm non thuộc

Trường mầm non Ninh Hải phụ trách lớp 5 - 6 tuổi (tổng số lượng 75cháu)
1.1 Kết quả điều tra 10 phiếu này chúng tơi trình bày ở bảng dưới đây:
Mức độ
Hình

Phức tạp
Phối cảnh

Mạng

thức
Bố cục

SL

25
Tổng %

%

SL

33,3 10

%

13,3
60

Đơn giản

HTBC
Khác

Hàng lối

Khơng
biết sử

Xen

dụng

Lặp lại

kẽ

bố cục

SL

%

SL

%

SL

%


SL

%

10

13,3

15

20

10

13,3

5

6,6

SL %

0

40

1.2 Kết quả quan sát tự nhiên:
Quá trình quan sát và nghi chép ở 15 tiết tạo hình của trẻ 5 - 6 tuổi. Thời
gian mỗi tiết là 30 phút, đồng thời qua trao đổi với giáo viên và nghiên cứu các
sản phẩm của trẻ thời gian học trước đó, chúng tơi rút ra một số kết luận sau:

- Khả năng sử dụng các hình thức bố cục cịn nhiều hạn chế, nhìn chung
các bài vẽ cịn mang tính chất sơ đẳng, ít thấy những bài vẽ có lối bố cục phối
cảnh, mạng các hình thức bố cục khác cũng sử dụng ít tỉ lệ, trẻ khơng biết sử
dụng các loại bố cục, vẫn còn trẻ mới chỉ “biết vẽ”, chứ việc sắp xếp bố cục còn
nhiều hạn chế, ít được sự quan tâm của giáo viên, khi nhận xét bài vẽ các cơ
cũng ít để ý đến việc trẻ sắp xếp bố cục hoặc nếu có cũng chỉ là hỏi đáp qua loa
chưa khắc sâu vào trẻ.
2. Kết quả thực nghiệm:
Trong q trình nghiên cứu tơi tiến hành thu thập tranh của 75 trẻ của 3
lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi. Sau khi xử lý số liệu, tôi thu được bảng đánh giá khả
năng sử dụng hình thức bố cục trong tranh vẽ của trẻ qua bảng sau:
Mức
Khơng
Phức tạp
Đơn giản
độ
biết sử
Hình
HTBC
Hàng
Lặp
dụng
Phối cảnh Mạng
Xen kẽ
thức
Khác
lối
lại
bố cục
13


0
0


Bố cục SL
30
Tổng %

% SL % SL % SL % SL % SL % SL %
40 10 13,3 10 13,3 10 13,3 11 14,6 4 5,3 0 0
66,7
33,3
0

Qua bảng ta thấy số lượng trẻ có khả năng sử dụng các hình thức bố cục ở
mức độ phức tạp chiếm 66,7% hình thức bố cục đơn giản chiếm 33,3%, khơng
có trẻ nào khơng biết sử dụng các hình thức bố cục. Điều đó chứng tỏ 75 trẻ mẫu
giáo lớn được nghiên cứu thì cả 75 trẻ đếu có khả năng thể hiện bố cục ở mức độ
khá trở lên. Từ số liệu đã thu được, qua quan sát thực tế đã chúng tỏ khả năng
quan sát khả năng tư duy và trình độ nhận thức của trẻ mẫu giáo lớn là rất tốt.
Có 66,7 trẻ mẫu giáo lớn có khả năng sử dụng bố cục ở mức độ phức tạp.
Trong đó có 30 trẻ có khả năng sử dụng lối bố cục theo phối cảnh (chiếm 40%).
Tất cả những bức tranh trẻ vẽ đều đáp ứng được nhu cầu cơ bản về hình mảng,
đường nét hình dạng màu sắc và độ đậm nhạt. Sự cân đối, hài hoà giữa các yếu
tố nghệ thuật tạo cho tranh có cảm giác thống đãng và rất gần với hiện thực
sinh động như tranh của bé Ngọc Diệp (vẽ ngôi nhà của bé), bé Ngọc Diệp vẽ
ngôi nhà rất xinh sắn, quang cảnh xung quanh ngơi nhà được bố trí rất hợp lý, có
xa có gần. Mảng chính được đặt ở vị trí trung tâm, các mảng phụ sắp xếp một
cách cân đối khiến cho mảng đặc, mảng trống ăn nhập vào nhau, bố cục tranh

chặt chẽ, trẻ mẫu giáo lớn làm được như vậy là do trẻ đã biết phối hợp trí nhớ,
trí tưởng tượng trong quá trình vẽ, phối hợp các kỹ năng thể hiện trong tranh vẽ
của mình. Vốn kinh nghiệm ấy trẻ đã tích luỹ được từ MTXQ, từ cuộc sống
hàng ngày mà trẻ quan sát, thu nhận được vào tâm trí của mình, chính vì vậy trẻ
đã miêu tả rất đẹp rất sinh động.
Qua quá trình nghiên cứu bức tranh sử dụng hình thức bố cục phức tạp
của trẻ mẫu giáo lớp 5 tuổi A và 5 tuổi B , 5 tuổi C, tơi có kết luận như sau:
Trẻ mẫu giáo có khả năng sử dụng hình thức bố cục tốt, hợp lý, đáp ứng
yêu cầu về hình mảng, đường nét hình dạng màu sắc… Tranh vẽ của trẻ có cấu
trúc hài hồ cân đối có sự sáng tạo, các chi tiết hình mảng phong phú đa dạng.
Trẻ bộc lộ trong tranh vẽ những kinh nghiệm quan sát về môi trường xung
quanh và cuộc sống gần gũi với trẻ, ta có thể khẳng định trẻ mẫu giáo lớn đã có
sự phát triển nhảy vọt so với 2 lứa tuổi trước.
Có 33,3% trẻ có khả năng sử dụng các hình thức bố cục ở mức độ đơn giản
(33/75), trong đó bố cục hàng lối chiếm tỉ lệ cao hơn. Điều đó chứng tỏ một số trẻ
mẫu giáo lớn nói riêng và trẻ mẫu giáo nói chung vẫn chưa có nhận thức rõ ràng về
mối quan hệ giữa không gian ba chiều của khung cảnh hiện thực với không gian hai
14


chiều trên tờ giấy vẽ. Trẻ luôn coi mặt đáy của khung tranh là mặt đất và những gì
đứng trên mặt đất đều được sắp xếp chia hàng ở phía dưới nhà cửa, cây cối…. Tương
tự như vậy, những gì ở trên bầu trời được bố trí ở trên mặt trên của khung tranh mây,
ông mặt trời, những chú chim…..
Ở mức độ bố cục đơn giản, hình thức bố cục lặp lại cùng chếm tỉ lệ cao,
tiêu biểu là tranh của bé Phương Anh (vẽ tranh Trường mầm non), không chỉ có
yếu tố hàng lối mà tranh của bé Phương Anh cịn mang đậm tính lặp lại. Những
ngơi nhà khơng chỉ rất thẳng hàng mà còn giống nhau về đường nét, hình dạng.
Như vậy, ta có thể thấy trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm về mơi trường xung
quanh, chưa có sự tập trung chú ý cao trong quá trình quan sát và tư duy. Điều

đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thể hiện bố cục trong tranh vẽ của trẻ,
ảnh hưởng tới chất lượng của tranh.
Từ thực tiễn và kết quả nghiên cứu chúng tôi thấy khả năng sử dụng các
hình thức bố cục của trẻ mẫu giáo lớn là tương đối tốt, có sự nhảy vọt về chất và
lượng, khả năng tri giác, quan sát không gian của trẻ phát triển mạnh kết hợp với
kỹ năng thể hiện hình dạng, kích thước, màu sắc khiến tranh của trẻ ln có tính
nhịp điệu và chiều sâu với nhiều tầng cảnh.
3. Khả năng xây dựng bố cục trong tranh vẽ của trẻ mẫu giáo lớn
Trường mầm non Ninh Hải.
Để đánh giá khả năng thể hiện bố cục trong tranh vẽ của trẻ mẫu giáo lớn
ngồi việc tìm hiểu khả năng sử dụng các hình thức bố cục, chúng tơi còn tiến
hành nghiên cứu cách xây dựng bố cục của trẻ, tức là cách sắp xếp hình mảng,
cách sử dụng đường nét, hình dạng, màu sắc, cách phân bố đậm nhạt.
Mức độ
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu kém
Số lượng
40
25
10
0
%
53,3
33,3
13,3
0
Qua bảng tổng kết cho thấy trẻ mẫu giáo lớn của 3 lớp 5A và 5B, 5C có
cùng độ tuổi, cùng học trong một mơi trường như nhau, nhưng trẻ lại có sự phân

biệt về khả năng xây dựng bố cục tranh vẽ. Số lượng trẻ có khả năng xây dựng bố
cục tốt chiếm tỉ lệ cao (53,3%). Ngược lại, khơng có trẻ nào khơng biết cách xây
dựng bố cục, còn lại là (33,3%) ở mức độ khá, (13,3%) ở mức độ trung bình.
Qua bảng ta thấy sự phát triển nhảy vọt của trẻ về khả năng xây dựng bố
cục, nhất là ở mức độ tốt (tăng). Bởi trẻ mẫu giáo lớn đã có nhiều kinh nghiệm
hơn không chỉ trong nhận thức về môi trường xung quanh mà còn cả khả năng
xây dựng bố cục. Tiêu biểu cho khả năng xây dựng bố cục của trẻ MGL ở mức
15


độ này là tranh của bé Diệp, Mai Hương, Phương Anh, Bích Vân vẽ phong cảnh
và tranh trẻ em vui chơi.
Về hình dáng: Như ta đã nói hình thức bố cục theo phối cảnh được trẻ
Mẫu giáo sử dụng nhiều nhất ở đề tài vẽ phong cảnh. Những yêu cầu về hình
thức bố cục này là những yêu cầu về hình mảng trong xây dựng bố cục. Tranh
vẽ “về miền núi” của bé Mai Hương đã đáp ứng được những yêu cầu đó có
mảng chỉnh, mảng phụ được sắp xếp cân đối, hài hồ, hợp lý, trước mặt là hình
ảnh những ngôi nhà sàn xinh xắn đặc trưng của miền núi được bài trí đẹp, có xa
có gần. Quang cảnh xung quanh trùng điệp, có ơng mặt trời … làm nổi bật mảng
chính và khắc họa rõ chủ đề tác phẩm. Sự phân bố hợp lý giữa mảng đặc, mảng
trống làm nổi bật chi tiết.
Trẻ đã nhận ra sự cứng nhắc của các hình học, nhận ra giá trị của thẩm
mỹ của đường nét nên trẻ luôn cố gắng để tạo ra những đường nét thật linh hoạt,
mềm mại, đúng như trẻ mong muốn. Ở lứa tuổi này để thể hiện sự vận động của
các sự vật hiện tượng là cơng việc phức tạp và rất khó địi hỏi trí tưởng tượng và
khả năng quan sát, nhưng ở bức tranh “Trẻ em vui chơi” bé Linh Chi đã khắc
hoạ những dáng người một cách rất “hoạ sĩ” nó mang lại cho bức tranh sự rung
động, vui tươi lột tả được chủ đề bức tranh.
Về màu sắc - độ đậm nhạt : là một yêu cầu khó đối với trẻ, nhưng qua tìm
hiểu , quan sát ta thấy bức tranh vẽ miền núi và tranh vui chơi của bé tôi thấy trẻ đã

biết cách phối hợp và sử dụng màu sắc. Như hình ảnh ngơi nhà, cây cối, đường đi ở
gần có màu sắc đậm hơn ở xa. Màu sắc trong tranh rất đa dạng về số lượng và độc
đáo. Tuy nhiên độ đậm nhạt về màu sắc thì ít trẻ thể hiện được rõ ràng.
Bên cạnh những trẻ có khả năng xây dựng bố cục tốt, trẻ MGL cũng có
những em chưa biết cách để tạo ra một bố cục đẹp, chưa biết sắp đặt mảng
chính, mảng phụ. Số lượng trẻ có khả năng xây dựng bố cục ở mức độ trung
bình chiếm 13,3%, mức độ khá chiếm 33,3%.
Ở mức độ khá, trẻ cũng biết cách bố trí mảng xa gần, chính phụ sao cho
hợp lý tuy chưa linh hoạt, màu sắc đa dạng những chưa hài hoà, thiếu độ đạm
nhạt (tranh của bé Phượng).
Nhìn chung ở trẻ mẫu giáo lớn , bên cạnh việc miêu tả những gì mình thấy
trẻ cịn khắc hoạ những hình ảnh trẻ thích. Vì trẻ thích nên những gì trẻ thể hiện
cũng có hồn, đẹp và tinh tế hơn khơng chỉ về hình mảng, màu sắc, độ đạm nhạt.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN
1. Kết luận:

16


Đa số trẻ mẫu giáo lớn ở trường mầm non Ninh Hải có khả năng thể hiện bố
cục tương đối tốt. Biểu hiện ở sự gia tăng về số lượng và chất lượng khi trẻ sử dụng
hình mảng, đường nét, hình dạng, màu sắc đậm nhạt trong xây dựng bố cục. Trẻ có
khả năng đó bởi chịu nhiều yếu tố như sự quan tâm của cơ giáo, gia đình, vốn kinh
nghiệm sống, các phương pháp hình thức nội dung giảng dạy của giáo viên.
Hơn nữa hoạt động vẽ là hoạt động mà nhiều trẻ hứng thú và say mê điều
đó càng tạo điều kiện và động cơ giúp trẻ thể hiện mình.
Tuy vậy cịn có một số trẻ vẫn chưa biết sử dụng sự đa dạng, phong phí
của bố cục và sự nhịp ngàng, mềm mại của đường nét, màu sắc, đậm nhạt …
Như vậy nhiệm vụ của giáo viên khơng chỉ hiểu được ý nghĩa, vai trị, u
cầu của bố cục, nắm được đặc điểm, khả năng thể hiện chúng trong tranh vẽ của

trẻ mà còn phải cung cấp cho trẻ những tri thức cần thiết và tổ chức rèn luyện
hoạt động vẽ tranh cho trẻ. Nên cho trẻ quan sát, nhận biết đối tượng để làm
giầu vốn tri thức, vốn biểu tượng và nâng cao khả năng tư duy khơng gian của
trẻ. Và ta có thể khẳng định bên cạnh đường nét, hình dạng, màu sắc, bố cục
ln giữ vai trò chủ đạo trong việc thể hiện nội dung, chủ đề của tác phẩm tranh
không chỉ riêng việc lựa chọn, sử dụng các hình thức bố cục mà cả việc xây
dựng bố cục, sử dụng hình mảng, đường nét, hình dạng, màu sắc và đậm nhạt
trong tranh đều là việc khó và phức tạp, địi hỏi ở người vẽ vốn kinh nghiệm
sống và khả năng quan sát. Một tác phẩm có để lại dấu ấn hay khơng phần lớn
phụ thuộc vào bố cục trong tác phẩm.
Bố cục là phương tiện để trẻ tiếp xúc, tìm hiểu và nhận thức mơi trường xung
quanh. Vì vậy việc cung cấp cho trẻ những kiến thức sơ đẳng về hình thức bố cục,
các yêu cầu của bố cục, cần xây dựng bố cục … có vai trị quan trọng trong việc
giúp trẻ thể hiện suy nghĩ và hiểu biết của mình trên tranh vẽ và thơng qua tranh vẽ
ta có thể đánh giá được mức độ nhận thức, tư duy và thị hiếu của trẻ.
Cùng với sự phát triển tâm sinh lý ở trẻ, khả năng sử dụng và xây dựng bố cục
của trẻ cũng có sự phát triển ở trẻ mẫu giáo lớn khả năng đó càng được khẳng định,
vì thế giáo viên nên thường xuyên tổ chức cho trẻ tiếp xúc với MTXQ để giúp trẻ có
khả năng tư duy, quan sát, ghi nhớ có chủ định, từ đó sẽ giúp trẻ có thêm vốn kinh
nghiệm để trẻ có thể phát huy khả năng tạo hình của mình.
2. Ý kiến đề xuất:
* Về phía gia đình: Tạo điều kiện về vật chất để cho trẻ được tham gia
hoạt động tạo hình mọi lúc mọi nơi. Cho trẻ cùng đi tham quan, cùng hướng dẫn
trẻ quan sát, học tập để tạo được vốn kinh nghiệm. Luôn quan tâm giúp đỡ trẻ về
tinh thần để trẻ có tâm thế vui tươi khi đến lớp học tập có hiệu quả hơn.
17


* Về phía Giáo viên: Giáo viên ngồi việc chuẩn về trình độ sư phạm cần
có trình độ năng lực về nghệ thuật, hiểu biết về nghệ thuật về cách sử dụng

đường nét, màu sắc…. Đặc biệt là về bố cục của tranh. Ngồi ra giáo viên cần có
năng lực về phương pháp sư phạm dạy trẻ “học mà chơi - chơi mà học” cho trẻ
tiếp cận với nghệ thuật mà không quá cao sang không quá xa với trẻ, do đó việc
giáo viên có năng lực về khả năng sư phạm rất cần thiết và quan trọng.
Cần vận dụng sáng tạo, triệt để giá trị bố cục trong hoạt động vẽ tranh của
trẻ, xen kẽ vào giờ học hợp lý, điều đó khơng chỉ tăng hiệu quả giờ học mà còn
phát huy tối đa vai trò ý nghĩa của bố cục đối với sự phát triển của trẻ, đặc biệt
là phát triển về thẩm mĩ .
Cô cần cung cấp cho trẻ những hiểu biết về tính chất ý nghĩa của bố cục với
nhiều hình thức khác nhau để lơi cuốn thu hút trẻ. Ví dụ cho trẻ đi thăm quan, trẻ
tham gia vào hoạt động ngồi trời, tìm hiểu làm quen với các tác phẩm nghệ thuật.
Khuyến khích trẻ tham gia hoạt động vẽ, sử dụng linh hoạt các hình thức
khác nhau để động viên trẻ hăng say thể hiện các hình thức bố cục và cách xây
dựng bố cục mang tính sáng tạo, đem lại hiệu quả thẩm mĩ cao.
* Về phía nhà trường:
Ban Giám hiệu nhà trường cần dựa vào kế hoạch hoạt động của chương trình
chăm sóc giáo dục trẻ để chỉ đạo, định hướng cho giáo viên xây dựng kế hoạch tổ
chức hoạt động vẽ tranh cho trẻ đảm bảo phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ.
Trong quá trình thực hiện phải thường xuyên kiểm tra đánh giá kết quả để
bổ sung, điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp.
Nhà trường tăng cường cho giáo viên dự các tiết mẫu để các giáo viên học
hỏi phát huy được sự sáng tạo trong giảng dạy.
Nhà trường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học để đáp ứng với
yêu cầu vui chơi và học tập ở trẻ.
Tôi xin chân thành cảm ơn!.
Ninh Hải, ngày 22 tháng 04 năm 2015
PHÊ DUYỆT CỦA HIỆU TRƯỞNG

TÁC GIẢ VIẾT SÁNG KIẾN


Đinh Thị Thanh Tâm

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thanh Thuỷ - Phương pháp tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ MN
(Nxb Đại học Sư phạm).
2. Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) Nguyễn Thị Như Mai, Đinh Thị Kim
Thoa - Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non (Nxb Đại học Sư phạm).
3. Nguyễn Văn Tỵ tự học vẽ (Tập 3) bố cục và các loại tranh khác (Nxb
Văn hố Thơng tin).
4. Ưng Thị Châu, Nguyễn Lăng Bình, Lê Đức Hiền - Tạo hình và Phương
pháp hướng dẫn HĐ tạo hình cho trẻ (Nxb Giáo dục).
5. Đàm Huyện - Giáo trình bố cục, Bộ GD & ĐT - Nxb Sư phạm

19



×