Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN biện pháp rèn chữ viết đẹp đúng chính tả cho học sinh lớp 2 vùng dân tộc thiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 27 trang )

MỤC LỤC
Mục lục: ........................................................................................................1
I. PHẦN MỞ ĐẦU: .....................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài: .....................................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu: ...............................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu: ..............................................................................4
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: ...................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu: ..........................................................................5
II. PHẦN NỘI DUNG: ................................................................................5
1. Cơ sở lý luận của vấn đề: ......................................................................…5
2. Thực trạng của vấn đề: ..........................................................................…6
a. Thuận lợi: ...............................................................................................…6
b. Khó khăn: .............................................................................................….6
c. Thực trạng tình hình học sinh.......................................................................7
3. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp: ..............................................7
a. Mục tiêu giải pháp..................................................................................…7
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp: .........................................….8
c. Điều kiện thực hiện biện pháp, giải pháp......................................................8
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp: ..............................................................24
e. Kết quả khảo nghiệm: ..............................................................................24
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: ...........................................................25
1. Kết luận: ..................................................................................................25
2. Một số kiến nghị :.....................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO: .......................................................................28
Nhận xét của Hội đồng Khoa học Giáo dục……………………………… p1

I. MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
1



Như chúng ta đã biết, rèn cho học học sinh Tiểu học “Viết chữ đẹp –
đúng chính tả” là điểm khởi đầu trong việc rèn đức tính, nhân cách cho học
sinh sau này. Vì vậy ơng cha ta có câu: “Nét chữ - nết người”. Chữ viết đẹp
khơng phải hồn tồn do hoa tay mà phải có một q trình rèn luyện. Ngay
từ lúc còn nhỏ ở lứa tuổi học sinh tiểu học, chữ viết có vị trí hết sức quan
trọng. Chữ viết là một công cụ giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện
để ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hóa, khoa học và đời sống.
Khơng những thế chữ viết cịn thể hiện tính cách con người. Vì vậy dạy học
sinh viết chữ và từng bước nắm vững được công cụ chữ viết để phục vụ cho
học tập và giao tiếp là yêu cầu hàng đầu của môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học.
Do đó dạy tập viết sao cho đúng quy trình, đúng phương pháp, có hiệu quả
để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, địi hỏi người thầy phải có sự
tìm tịi, nghiên cứu và đam mê.
Hiện nay, cơng nghệ thông tin đang ở thời kỳ phát triển, nhưng nét chữ
truyền thống là thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Do yếu tố vùng
miền, cách phát âm mỗi nơi có khác nhau. Mặc dù những quy tắc, quy ước
về chính tả được thống nhất theo ngữ pháp chung. Nhưng việc viết đúng
chính tả trong học sinh hiện nay nói chung và học sinh dân tộc tại chỗ nói
riêng đặc biệt cịn gặp nhiều khó khăn, tồn tại. Hiện tượng không đồng nhất
trong phát âm khá phổ biến, hầu như bất kỳ địa phương nào trong cả nước
cũng có sự pha trộn, giao thoa của nhiều vùng miền từ giáo viên đến học
sinh. Trong khi “chuẩn chính tả” của Ngữ pháp Việt Nam căn cứ vào phát
âm của khu vực Hà Nội, thì với các vùng miền khác việc “nói đúng tiếng
phổ thơng” theo phát âm chuẩn khơng hề đơn giản. Các em học sinh dân tộc
Ê-đê hầu như đều phát âm sai, không phân biệt được các dấu thanh: “sắc –
nặng – hỏi – ngã ”. Có dấu thì bỏ, cịn thanh ngang thì thêm dấu “ huyền hỏi - sắc - ngã - nặng” vào. Để nghe và viết sao cho đẹp, cho đúng là một
vấn đề lớn đối với học sinh nói chung và học sinh đồng bào dân tộc thiểu số
nói riêng.

2



Có thể chữ viết xấu khơng quyết định chất lượng học tập của học sinh.
Nhưng lại có ảnh hưởng quan trọng trong việc thúc đẩy học tập của các em.
Chữ viết xấu, sai lỗi chính tả nhiều sẽ ảnh hưởng đến việc nâng cao chất
lượng học tập, ảnh hưởng đến phong trào thi đua “Vở sạch - chữ đẹp” của
học sinh, làm cho học sinh khơng có tính ham học, nảy sinh thiếu kiên trì,
thiếu cẩn thận. Do đó ảnh hưởng tới kết quả học tập của môn Tiếng Việt và
các mơn học khác. Chính vì vậy trong q trình giảng dạy thực tế tơi đã đi
sâu, đi sát, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra một số biện pháp khắc phục giúp
học sinh rèn viết chữ đẹp, đúng chính tả. Song song với việc viết đúng, thì
phong trào rèn viết chữ đẹp hiện nay cũng luôn được ngành Giáo dục quan
tâm. Trong quyết định ban hành quy định về chuẩn nghề nghiệp giáo viên
Tiểu học của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 4/5/2007 số
14/2007/QĐ – BGDĐT cũng đã nêu rất rõ: “ yêu cầu giáo viên tiểu học phải
viết đúng mẫu”. Hướng dẫn học sinh viết chữ đúng mẫu, đúng chính tả
nhằm mục đích khuyến khích học sinh tăng cường rèn viết chữ đẹp, góp
phần xây dựng phong trào“Vở sạch, chữ đẹp” ở các trường học một cách
thường xuyên. Đây cũng là một biện pháp tăng cường chất lượng dạy và
học ở bậc tiểu học. Để góp phần làm tốt việc giúp học sinh “Rèn viết chữ
đẹp - đúng chính tả” người giáo viên cần phải làm gì để giờ dạy Tiếng Việt
lớp 2 thật sự đạt hiệu quả ? Câu hỏi này đã trăn trở, thúc đẩy và động viên
tôi đi sâu nghiên cứu:

Một số biện pháp giúp học sinh tiểu học “Rèn viết
chữ đẹp - đúng chính tả”
Nhằm góp phần giáo dục tồn diện cho học sinh cũng như góp phần
xây dựng phong trào “Vở sạch, chữ đẹp” của nhà trường .
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài::
Kỹ năng viết là một trong 4 kỹ năng ( nghe, đọc, nói, viết) rất quan

trọng trong phân môn tiếng Việt ở bậc tiểu học. Dạy cho học sinh viết đúng,
viết đẹp, viết cẩn thận. Góp phần rèn luyện những phẩm chất như: tính cẩn
3


thận, óc thẩm mỹ, ý thức tự trọng và tơn trọng người khác. Vì vậy tơi đã tìm
hiểu nội dung, biện pháp dạy học tập viết và một số biện pháp rèn chữ viết
đẹp cho học sinh lớp 2 cũng như một số mẹo luật chính tả nhằm giúp giáo
viên và học sinh rèn kỹ năng viết chữ. Biết viết chữ hoa theo đúng quy định
về hình dáng, kích cỡ (cỡ vừa và nhỏ). Biết viết cụm từ ứng dụng theo cỡ
nhỏ, viết đúng mẫu, đều nét và nối nét đúng quy định (đưa bút theo đúng
quy trình viết). Kết hợp dạy kỹ thuật viết chữ với rèn chính tả, mở rộng vốn
từ, phát triển tư duy. Nghe, viết lại đúng, khơng mắc lỗi các bài chính tả và
làm đúng các bài tập chính tả. Giáo viên nắm chắc quy trình, mẫu chữ viết,
các lỗi chính tả mà học sinh thường mắc phải để sử dụng các phương pháp
dạy – học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Là cơ sở để xây dựng,
kết hợp giữa chữ viết và cách trình bày bài viết góp phần xây dựng phong
trào “Vở sạch, chữ đẹp” một cách thường xuyên.
3. Đối tượng nghiên cứu:
“Rèn chữ viết đẹp – đúng chính tả”, góp phần xây dựng phong trào
“Vở sạch, chữ đẹp” cho học sinh lớp 2A, trường tiểu học Tô Hiệu, huyện
CưMgar, tỉnh Đăk Lăk.
Gồm tất cả các học sinh lớp 2A trong những năm học từ: 2015 – 2016
và học kỳ I năm học 2016 – 2017 do tôi giảng dạy.
4. Giới hạn của đề tài:
Để góp phần làm tốt việc giúp học sinh “Rèn viết chữ đẹp - đúng
chính tả” Ngoài việc thực hiện nghiên cứu, vận dụng sáng tạo các phương
pháp dạy học trong các phân mơn chính tả, tập viết. Thực hiện tốt chỉ đạo về
tăng cường tiếng việt cho đối tượng học sinh dân tộc … Đòi hỏi người giáo
viên phải:

- Giáo viên phải ln có đức tính cẩn thận ngay từ khi soạn bài đến
khi lên lớp, khi dạy phân môn Tiếng Việt.
- Chuẩn bị đồ dùng.
- Biện pháp hướng dẫn học sinh cách bảo quản và cách sữ dụng đồ dùng:
- Thực hiện đúng các nguyên tắc về tư thế ngồi viết.
4


- Hướng dẫn học sinh cách viết chữ.
-Tìm hiểu nguyên nhân khi học sinh viết sai và tìm cách sửa cho học
sinh.
- Tìm những lỗi chính tả học sinh hay mắc, dùng mẹo luật chính tả để
hướng dẫn và sửa cho học sinh.
- Rèn chữ viết cho học sinh thông qua các mơn học khác
- Sử dụng trị chơi trong giờ học.
- Xây dựng nề nếp vở sạch chữ đẹp.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong q trình nghiên cứu, tơi đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp quan sát, điều tra, phỏng vấn (quan sát HS trong quá trình
học tập, vui chơi)
- Phương pháp đàm thoại ( trị chuyện, tiếp xúc với giáo viên, học sinh và
phụ huynh).
- Phương pháp nghiên cứu lí luận (đọc và tham khảo tài liệu, Nghiên cứu
các loại lỗi chính tả mà học sinh thường mắc phải. Nghiên cứu một số mẹo
luật chính tả.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm: (Sự chọn lựa các điều kiện, phương tiện, hoàn
cảnh để góp phần thực hiện có hiệu quả trong việc rèn chữ viết đẹp, xây
dựng phong trào “Vở sạch, chữ đẹp”.)Xây dựng khuôn mẫu những bài viết,

chọn lựa những bài viết tiêu biểu để học sinh có cơ sở tham khảo.
II. PHẦN NỘI DUNG.
1. Cơ sở lý luận.
Căn cứ vào nhiệm vụ năm học, căn cứ vào yêu cầu cơ bản về kiến thức,
kỹ năng môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học, căn cứ vào mục tiêu mơn tập viết,
chính tả để giúp học sinh:
- Biết viết các chữ thường, chữ hoa thông thường và các chữ hoa theo mẫu
sáng tạo, đúng quy định về hình dáng, kích cỡ (vừa và nhỏ), thao tác viết
(lia bút) theo đúng quy trình viết.
- Biết viết các cụm từ ứng dụng của từng bài.
- Biết cách trình bày một bài viết chính tả cho phù hợp.
- Nắm được một số mẹo luật chính tả để viết đúng chính tả và làm đúng các
bài tập.
- Biết giữ gìn “Vở sạch – chữ đẹp ”…
5


Từ đó hình thành cho các em những kỹ năng viết, kỹ năng nắm vững luật
mẹo chính tả. Rèn luyện tính chăm chỉ, cẩn thận, khéo léo. Đam mê sưu tập
chữ viết đẹp và có hứng thú viết chữ đẹp. Có ý thức xây dựng thói quen giữ
gìn “Vở sạch – chữ đẹp” góp phần quan trọng vào việc giữ gìn sự trong
sáng của Tiếng Việt.
2. Thực trạng của vấn đề.
Qua khảo sát, theo dõi, kiểm tra học sinh của những lớp 2 năm học
2015-2016 và năm học 2016-2017 do tơi chủ nhiệm cho thấy tình hình
chung như sau:
a. Thuận lợi:
- Ban giám hiệu, phòng giáo dục rất quan tâm đến phong trào “Vở
sạch, chữ đẹp”. Cụ thể trường năm nào trường cũng tổ chức thi:“Vở sạch,
chữ đẹp” cấp trường.

- Tài liệu luyện viết chữ, hướng dẫn mẹo luật chính tả … rất phong phú
và đa dạng.
- Trong lớp có nhiều em tính cẩn thận, chữ đẹp, ham tìm tịi, học hỏi.
- Ở lớp 2 chủ yếu là chữ viết nên được phụ huynh học sinh quan tâm
đến chữ viết của con em nhiều hơn.
b.Khó khăn:
- Một bộ phận khơng nhỏ học sinh viết chữ chưa đúng mẫu (độ cao,
rộng, khoảng cách giữa các con chữ quá hẹp hoặc quá rộng).
- Khả năng viết chữ, trình bày bài khơng đều (vì các em cịn nhỏ mới ở
lớp 1 lên nên một số em quên cách cầm bút, tư thế ngồi viết, cách để vở…)
- Hiện tượng không đồng nhất trong cách phát âm giữa học sinh kinh
và học sinh dân tộc thiểu số. Các em học sinh dân tộc thiểu số hầu như
nhầm lẫn, không phân biệt các dấu thanh do đặc trưng phương ngữ đồng
bào Ê - đê.
- Sai phụ âm đầu g/gh, ng/ngh, ch/ tr, x/s ( của một số học sinh người
miền Bắc).
- Rất ít các em viết chữ sáng tạo đẹp.
- Bàn, ghế chưa phù hợp với lứa tuổi học sinh.
- Ánh sáng, trang thiết bị dạy học chưa đảm bảo.
- Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến chất lượng học tập của
con em mình.
6


c.Thực trạng tình hình học sinh qua năm học 2015 – 2016 và học
kỳ I năm học 2016 – 2017.
Qua kiểm tra thực tế đầu năm:
Lớp
2A
2A


Năm học
2015-2016
2016-2017

TSHS Loại A
18
2
23
1

%
Loại B
11%
4
4.4
4

%
Loại C
%
22%
12
6.7%
17.4
18
78.2

3. Nội dung và hình thức của giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp:

Xuất phát từ những cơ sở trên. Trải qua thực tế giảng dạy 22 năm ở
trường tiểu học đối tượng chủ yếu là học sinh dân tộc thiểu số , cụ thể là học
sinh khối lớp 2 trường tiểu học Tô Hiệu. Đặc thù của trường là ngơi trường có
trên 98% học sinh dân tộc thiểu số. Mức độ tiếp thu kiến thức môn Tiếng Việt
và cách giao tiếp cịn hạn chế. Trong khi đó ở lớp 2 các em phải ghi bài nhiều
hơn, tốc độ viết nhanh hơn ở lớp 1 nên không tránh khỏi việc viết sai, viết ẩu,
viết xấu. Vì vậy tơi nhận thấy việc dạy tập viết và chính tả lớp 2 của trường
mình chưa đáp ứng được về chất lượng dạy và học. Cho nên để khắc phục tình
trạng học sinh viết chữ chưa được đẹp, giữ vở chưa được sạch và cịn sai một
số lỗi chính tả tơi xin đề xuất một số biện pháp như sau:
b. Nội dung, cách thực hiện biện pháp, giải pháp
- Giáo viên phải ln có đức tính cẩn thận ngay từ khi soạn bài đến
khi lên lớp, khi dạy phân môn Tiếng Việt.
- Chuẩn bị đồ dùng.
- Biện pháp hướng dẫn học sinh cách bảo quản và cách sữ dụng đồ dùng:
- Thực hiện đúng các nguyên tắc về tư thế ngồi viết.
- Hướng dẫn học sinh cách viết chữ.
-Tìm hiểu nguyên nhân khi học sinh viết sai và tìm cách sửa cho học
sinh.
- Tìm những lỗi chính tả học sinh hay mắc, dùng mẹo luật chính tả để
hướng dẫn và sửa cho học sinh.
- Rèn chữ viết cho học sinh thông qua các mơn học khác
- Sử dụng trị chơi trong giờ học.
- Xây dựng nề nếp vở sạch chữ đẹp.
7


c. Điều kiện thực hiện biện pháp, giải pháp:
* Thứ nhất: Giáo viên phải ln có đức tính cẩn thận ngay từ khi soạn
bài đến khi lên lớp, khi dạy phân môn Tiếng Việt.

Đặc biệt là chữ viết khi lên lớp và phương pháp trình bày bảng. Đây
là vấn đề có tính quyết định, lại khơng phụ thuộc nhiều ở yếu tố kinh tế, do
vậy phải tiến hành ngay một cách triệt để với yêu cầu cao. Ngoài ra cần tạo
sự thống nhất trong cách trình bày bảng của từng phân mơn và thể loại bài
dạy. từ đó quy định cách trình bày bài viết trong vở học sinh (cần chi tiết từ
gạch chân, gạch hết bài, gạch hết buổi… đến trình bày tiêu đề của mơn học)
tạo sự thống nhất chuẩn mực.
Ví dụ:
Viết thứ, ngày, tháng, năm lùi vào 2 ô vở.
Tên môn học lùi vào 5 ô vở.
Tên bài học lùi vào 3 ô vở ( Tùy thuộc vào tên bài học nhiều từ hay ít
từ, nếu nhiều từ thì lùi vào 1 ơ vở).
Chữ cái đầu dịng (đầu câu) viết hoa lùi vào 1 ô vở.
Khoảng cách chữ này đến chữ kia cách nhau 1 ô ly ( Bằng 1 con chữ o)
Sự thống nhất của giáo viên về cách trình bày bảng, trình bày vở sẽ là
nền tảng vững chắc cho học sinh cẩn thận, viết chữ đẹp, là nền tảng cho
phong trào “Vở sạch – chữ đẹp” ở nhà trường tiểu học.
* Thứ hai: Chuẩn bị đồ dùng.
Thông thường đối với học sinh dân tộc thiểu số ngay từ đầu năm học
thông qua cuộc họp với hội cha mẹ học sinh ngay từ đầu năm .Giáo viên có
kế hoạch hướng dẫn, tư vấn cho phụ huynh cách chọn bút viết như thế nào
để viết chữ đẹp và bề, mua loại vở gì để học sinh viết không bị lem… cụ
thể:
+ Giai đoạn 1: Học sinh chuẩn bị bút chì, bút mực, thước kẻ. Học sinh
nên sử dụng loại bút chì ngịi (chì có thể thay thế ngịi) hoặc chì gọt tốt (loại
chì con te vỏ màu xanh lá cây), loại chì này đầu nét hơi nhọn, viết chữ thanh
đẹp, khơng nên sử dụng chì kim ngịi q nhọn dẫn đến nét chữ q mảnh,
đơi khi cịn chọc thủng cả giấy, cũng khơng nên sử dụng loại chì 2b – 3b
màu vàng, loại chì này ngịi quá “tù” nét chữ sẽ quá to, chữ viết ra rất xấu,
chỉ nên sử dụng để vẽ.

8


+ Giai đoạn 2: Học sinh viết bằng bút mực. Cần chú ý tới ngòi bút ,
ngòi bút phải gọn nét, không thanh quá cũng không đậm quá, mực xuống
đều, kích thước thân bút phải tương ứng kích thước bàn tay của học sinh
(không to quá cũng không nhỏ quá). Tuyệt đối không cho học sinh viết bằng
bút bi. Dùng loại bút này có nhiều hạn chế, ngịi bút trơn học sinh viết
không chủ động được, mực ra đậm, nhạt không đều…
*Thứ ba: Biện pháp hướng dẫn học sinh cách bảo quản và cách sữ dụng đồ
dùng:
- Việc chuẩn bị đồ dùng cho học sinh ngay từ đầu năm học rất quan trọng
song vấn đề bảo quản đồ dùng như thế nào ? Do vậy ngoài việc tư vấn cho phụ
huynh chuẩn bị đồ dùng cho học sinh thì việc tư vấn phụ huynh cách bao bọc
sách vở sao cho cẩn thận, và trong những năm qua tôi đã vận động phụ huynh lên
lớp cùng với cô giáo bao bọc sách vở cho học sinh như vở ghi mơn chính tả
phải bao màu để học sinh và giáo viên dễ phân biệt khi lấy ra viết bài.
- Ngoài ra hướng dẫn học sinh cách cất giữ vở, bút tại lớp cẫn thận sau khi
viết. (Những quyển vở nào ghi ở lớp thì học sinh để lại trên lớp khơng mang về .)
* Thứ tư: Biện pháp : Thực hiện đúng các nguyên tắc về tư thế ngồi viết.
- Trạng thái tinh thần phải phấn chấn, hứng thú và thoải mái. Không để
học sinh viết bài khi mệt mỏi, buồn ngủ, uể oải, phân tán vì chuyện khác
hoặc gị bó, gượng ép, cưỡng bức. Những lúc như vậy nên cho học sinh
khởi động tập thể dục, sinh hoạt văn nghệ, chơi trò chơi, kể chuyện cười…
- Ánh sáng phải đủ “độ” và thuận chiều, chiếu từ bên trái sang không
bị sấp bóng.
- Tư thế ngồi viết thoải mái, khơng bị gị bó (dễ gây tê mỏi). Hai tay
phải đặt đúng điểm tựa quy định mới điều khiển cây bút theo sự chỉ huy của
não được. Không nên ngồi quá cao, đầu cúi gầm, ngồi quá thấp, đầu phải
nhìn lên (điều này phụ thuộc vào bàn ghế phải thích hợp với kích cỡ của

học sinh). Tuyệt đối không quỳ, nằm, ngồi viết tùy tiện. Khoảng cách từ mắt
đến vở tầm từ 25 - 30 cm là vừa. Khơng được nhìn q gần vở vì sẽ dẫn đến
cận thị.

9


Hướng dẫn khoảng cách nhìn khi viết từ mắt đến vở.
- Cột sống lưng luôn luôn ở tư thế thẳng đứng, vng góc với mặt ghế
ngồi, khơng ngồi vặn vẹo lâu dần thành có tật, dẫn đến lệch cột sống rất khó
chữa sau này.

Hướng dẫn cách ngồi viết.
- Hai chân thoải mái không để chân co, chân duỗi khiến cột sống phải
lệch vẹo và chữ viết lệch theo.
- Tay trái để xuôi theo chiều ngồi, giữ mép vở cho khỏi xê dịch, đồng
thời làm điểm tựa cho trọng lượng nửa người bên trái.
- Tay phải cầm chắc bút bằng 3 ngón tay (cái, trỏ, giữa). Đầu ngón tay
trỏ cách đầu ngòi bút khoảng 2,5 cm. Mép bàn tay là điểm tựa của cánh tay
phải khi đặt bút xuống bàn viết. Điều khiển cây bút bằng các cơ ở cổ tay và
các ngón tay khi viết.

10


Hướng dẫn cách cầm bút.
- Không để ngửa bàn tay quá, tạo nên trọng lượng tỳ xuống lưng của
hai ngón tay út và áp út. Ngược lại không úp quá nghiêng bàn tay về bên
trái


(Nhìn từ trên xuống thấy cả bốn ngón tay: trỏ, giữa, áp út và út).

Các tư thế tay cầm không đúng sẽ dẫn đến các cố tật sau này như: mỏi cơ
gân bàn tay, viết chóng mỏi tay, ra nhiều mồ hôi tay không thể viết lâu, viết
nhanh được…
- Cầm bút xi theo chiều ngồi, góc độ đặt bút so với mặt giấy khoảng
45°. Tuyệt đối không cầm bút dựng đứng 90°.
- Xác định đúng tọa độ điểm đặt bút và điểm dừng bút (dựa trên khung
chữ mẫu làm chuẩn). Hướng dẫn học sinh điểm đặt bút bắt đầu khi viết một
nét trong một chữ cái hay một chữ. Điểm dừng là điểm kết thúc của nét chữ.
Đa số điểm kết thúc ở 1/3 đơn vị chiều cao của thân chữ. Riêng với con chữ
“o” vì là nét cong khép kín nên điểm đặt bút trùng với điểm dừng bút.
- Đưa bút từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, các nét đưa lên hoặc
đưa sang ngang phải thật nhẹ tay, không ấn mạnh đầu bút vào mặt giấy.
- Vở cần đặt nghiêng so với góc bàn (nghiêng về bên phải) một góc
khoảng 25°.Sở dĩ đặt như vậy là vì chiều thuận của vận động tay khi viết
chữ là vận động từ trái sang phải.

11


Hướng dẫn cách đặt vở.
- Bảng con cũng là phương tiện hữu hiệu để học sinh luyện tập kỹ năng
viết chữ trước khi viết vào vở. Trong quá trình viết chữ lên bảng con, học
sinh có thể nhận xét chữ của mình, của bạn và có thể xóa ngay chỗ sai để
viết lại cho đúng. Hoặc giáo viên có thể chữa gần chỗ học sinh viết sai bằng
phấn màu. Khi luyện tập cần lưu ý học sinh không viết quá nhỏ, không viết
sát mép bảng. Học sinh giơ bảng bằng hai tay, khuỷu tay tỳ xuống mặt bàn.
* Thứ năm: Hướng dẫn học sinh cách viết chữ.
+ Chữ viết thường:

- Dùng tên gọi các nét cơ bản để hướng dẫn học sinh viết chữ. Trong
quá trình hình thành biểu tượng về chữ viết và hướng dẫn học sinh viết chữ.
Nên sử dụng tên gọi các nét cơ bản để mô tả hình dạng, cấu tạo và quy trình
viết một chữ cái theo các nét viết đã quy định ở bảng chữ mẫu.
- Chú ý nét viết: Là một đường liền mạch, khơng phải dừng lại để
chuyển hướng ngịi bút hay nhấc bút. Nét viết có thể là một hay nhiều nét cơ
bản tạo thành.
- Mô tả chữ viết để hướng dẫn học sinh viết chữ. Khi dạy học sinh viết
các chữ cái viết thường cỡ vừa và nhỏ. Để giúp học sinh dễ hình dung và
thực hiện quy trình viết chữ lên bảng con hay trong vở tập viết, nên mơ tả
theo dịng kẻ li khơng dùng đến thuật ngữ đơn vị chữ, bởi khả năng tư duy
học sinh lớp 2 còn hạn chế, khi sử dụng lời hướng dẫn cần nói thật đơn giản,
dễ hiểu.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh viết chữ “ m”, giáo viên hướng dẫn như
sau:
12


- Nét 1: Đặt bút giữa đường kẻ 2 và đường kẻ 3, viết nét móc xi trái
trạm đường kẻ 3, dừng bút ở đường kẻ 1.
- Nét 2: Từ điểm dừng bút chì ở nét 1, rê bút lên gần đường kẻ 2 để
viết tiếp nét móc xi thứ hai có độ rộng bằng một ơ li rưỡi; dừng bút ở
đường kẻ1
- Nét 3: Từ điểm dừng bút của nét 2, rê bút lên gần đường kẻ 2 để viết
tiếp nét móc hai đầu (độ rộng bằng nét 2); dừng bút ở đường kẻ 2.
- Nắm vững (độ cao, rộng, khoảng cách ), không viết quá hẹp hoặc quá
rộng.

+ Viết chữ hoa sáng tạo:


13


- Dùng tên gọi các nét cơ bản. Mỗi chữ cái viết hoa có nhiều nét cong,
nét lượn.
- Tạo dáng thẩm mỹ của hình chữ cái hoa sáng tạo cần phải mềm mại,
uốn lượn, uyển chuyển, các nét đưa hết sức khéo léo nhưng vẫn giữ được
mẫu chữ quy định hiện nay.

- Tuy chữ hoa sáng tạo khơng có ngun tắc nào nhưng phải đảm bảo
tính truyền thống và thẩm mỹ.
- Lưu ý nét ghi dấu phải giống như ở các chữ cái viết thường.

14


+ Viết ứng dụng:
- Cần lưu ý hướng dẫn học sinh về kỹ thuật nối chữ (nối nét), viết liền
mạch và đặt dấu thanh để vừa đảm bảo yêu cầu liên kết các chữ cái, tạo vẻ
đẹp của chữ viết vừa nâng dần tốc độ viết chữ phục vụ cho kỹ năng viết
chính tả hoặc ghi chép thơng thường. Ln quan tâm trau dồi cho các em kỹ
năng viết chữ ngày càng thành thạo.
- Khi dạy viết ứng dụng các chữ ghi tiếng có chữ cái viết hoa đứng
đầu (tên riêng, chữ viết hoa đầu câu…) cần hướng dẫn học sinh cách viết
tạo sự liên kết bằng nối nét hoặc để khoảng cách hợp lý giữa các chữ cái
viết hoa và chữ cái viết thường trong chữ ghi tiếng.
- Dạy cho học sinh viết câu ứng dụng cần lưu ý thêm về cách viết và cách
đặt dấu câu như đã thể hiện trong bài tập viết. Cần nhắc nhở các em về cách
trình bày theo mẫu trên trang vở tập viết sao cho đều đặn, cân đối và đẹp.
* Thứ sáu: Tìm hiểu nguyên nhân khi học sinh viết sai và tìm cách sửa

cho học sinh.
+ Tìm hiểu nguyên nhân:

15


Cần nhận xét tìm nguyên nhân vì sao lại sai? Vì sao viết xấu? Tại tư
thế cầm bút, ngồi viết khơng đúng quy định, tay đặt bút khơng có điểm tựa,
tại chỗ ngồi chật, gị bó vì chưa chuyển dịch đúng tầm tay do đưa bút, do
vướng vấp cạnh bàn, mặt giấy không nhẵn, mực không xuống đều, tay đưa
bút chưa thuần thục, nhuần nhuyễn, tại đang viết có bạn hỏi hoặc phân tán
vì chuyện khác hấp dẫn hơn gây nên hỏng chữ hay tại khơng nắm được luật
mẹo chính tả?... Tóm lại có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến chữ xấu, chữ sai
lỗi chính tả trong khi viết. Sau khi phát hiện ra nguyên nhân, cần giúp học
sinh rút kinh nghiệm, tránh vấp phải sai sót tương tự lần sau.
+ Cách sửa:
- Nhóm 1: Nhóm các em viết chữ cái trong cùng một chữ khơng nối
vào nhau vì các em thiếu phần móc của nét móc xi hoặc móc ngược (ví
dụ: Anh) hoặc một số em đưa bút khơng liền mạch. Sau khi phân tích cho
các em biết nguyên nhân viết sai, tôi cho các em quan sát chữ mẫu trên bảng
(Anh). Sau khi viết nét móc các chữ các em cần viết nối liền với nét khuyết
của chữ. Nét móc hai đầu của chữ phải nối liền với nét thẳng của chữ. Tôi
viết mẫu cho các em quan sát cách nối các chữ trong một chữ để đảm bảo
yêu cầu viết liền mạch. Khi viết mẫu xong tôi gọi các em viết sai lên bảng
để luyện viết lại một từ hoặc một câu có trong bài chính tả. Khi các em đã
viết đúng thì cho các em viết lại vào vở.
- Nhóm 2: Nhóm các em mắc lỗi viết nét khuyết của chữ cái, chữ cái
bị vẹo sang trái. Tơi phân tích cho các em biết ngun nhân mà các em viết
sai vì từ điểm đặt bút của nét khuyết các em viết thẳng lên đường kẻ ngang
trên rồi mới lượn cong sang trái, do vậy phần cong của nét khuyết nằm hoàn

toàn sang bên trái khung chữ tạo thành chữ h hay chữ l có nét vẹo sang trái.
Sau khi học sinh thấy được chỗ sai, tôi cho các em quan sát chữ mẫu đúng
và hướng đẫn các em viết đúng. Từ điểm đặt bút đưa nét bút sang phải và
lượn cong lên khi chạm đường kẻ ngang trên thì kéo xuống, các em sẽ viết
được một nét khuyết đúng và đẹp. Khi hướng dẫn xong tôi cũng gọi những

16


em ở nhóm 2 lên bảng tập viết một từ hoặc câu có chữ cái: h, l ( học hành,
lành lặn). Khi các em viết đã đạt yêu cầu thì cho các em viết vào vở.
- Nhóm 3: Nhóm các em có chữ ngửa về phía trước, tơi theo dõi đều
thấy các em đặt vở không đúng (đặt vở hơi nằm ngang) và ngồi viết vẹo
sang trái dẫn đến các em đều viết chữ ngửa về phía trước. Do đó tôi đã sửa
lại cách đặt vở và nhắc các em ngồi lại với tư thế thẳng. Mặt khác tôi hướng
dẫn các em dựa vào các dòng kẻ đứng trong vở để viết chữ có nét thẳng
đứng, trùng hoặc song song với các dịng kẻ đứng, tạo cho chữ viết thẳng
khơng bị ngửa về trước. Đối với các em này vì tư thế đặt vở và tư thế viết
đã thành thói quen nên tôi thường xuyên phải nhắc nhở các em khi bắt đầu
viết.
- Nhóm 4: Gồm nhóm những em có nét viết nguệch ngoạc, cẩu thả. Đa
số các em này đều thiếu kiên trì, khơng nắn nót khi viết bài. Tôi mượn vở
của những em viết đẹp cho các em này nhìn và chép lại vào vở của mình
nắn nót cho giống bạn. Ngồi ra tơi cịn trực tiếp gặp và trao đổi với phụ
huynh học sinh để nhắc nhở phụ huynh rèn luyện thêm cho các em khi ở
nhà.
Khi thấy học sinh mỏi tay, mồ hôi ra nhiều hoặc hoa mắt, nhức đầu,
có nghĩa là ngồi viết quá lâu phải nghỉ giải lao chuyển sang các hoạt động
cơ bắp như: vươn vai, hít thở mạnh, tập thể dục giữa giờ, sinh hoạt văn
nghệ… Sau 5 phút trở lại sẽ có hiệu quả hơn.

- Nhóm 5: Gồm nhóm những em viết sai lỗi chính tả nhiều.
Tơi kiểm tra và nhận thấy nhóm những em này phát âm khơng chuẩn,
khơng phân biệt được các dấu thanh. Có dấu thì bỏ cịn thanh ngang thì
thêm dấu vào (đa số là các em học sinh dân tộc Ê – đê ). Một số em thì
khơng nắm vững được luật mẹo chính tả. Tơi hướng dẫn các em phát âm lại
cho đúng. Nhắc lại một số quy tắc luật mẹo chính tả, yêu cầu các em học
thuộc để không viết sai và nhầm lẫn nữa. Nhờ tìm hiểu rõ ngun nhân và
phân nhóm các em viết sai để kịp thời uốn nắn nên học sinh tơi đã tiến bộ rõ
rệt. Các em ít viết xấu và sai nữa.
* Thứ bảy: Tìm những lỗi chính tả học sinh hay mắc, dùng mẹo luật
chính tả để hướng dẫn và sửa cho học sinh.
17


* Lỗi về dấu thanh: Tiếng Việt có 6 dấu thanh ( ngang, huyền, sắc, hỏi,
ngã, nặng). Nhiều học sinh không phân biệt được 2 thanh hỏi, ngã. Lỗi này
rất phổ biến ở lớp tơi dạy.
Ví dụ:
Uống sữa viết là: Uống sửa.
Mắc lỗi viết là : Mắc lổi.
Lẫn lộn viết là: Lẩn lộn…
Tơi dùng mẹo luật chính tả để hướng dẫn, giúp các em khắc phục lỗi
chính tả một cách hữu hiệu. Tôi dạy cho học sinh thuộc nguyên tắc.
Luật bổng – trầm:
- Ngang – sắc = hỏi
- Huyền – nặng = ngã
- Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh
huyền, nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng
trước mang thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi
( hoặc ngược lại ).

- Ví dụ: Ngang + hỏi: yên ổn, nghiêng ngả, tươi trẻ…
Sắc + hỏi: Mát mẻ, sắc sảo, vắng vẻ…
Hỏi + hỏi: Thủ thỉ, lải nhải, củ tỏi…
Huyền + ngã: Màu mỡ / lững lờ, vồn vã…
Nặng + ngã: Đẹp đẽ, mạnh mẽ, vật vã…
Ngã + ngã: Lẽo đẽo, nhõng nhẽo, lã tã…
Nắm vững luật bổng – trầm rồi học sinh tơi khơng cịn khó khăn trong
việc phân biệt dấu thanh giữa thanh hỏi và thanh ngã nữa.
*Lỗi phụ âm đầu: Học sinh tôi hay viết lẫn lộn một số chữ cái ghi phụ
âm đầu .
Ví dụ :
+ l / n: con nợn ( con lợn), lúi lon ( núi non)
+ g / gh: bếp gha ( bếp ga ), gi chép ( ghi chép), con ngé ( con ghé ).
+ ch / tr: cầu che ( cầu tre ), nghiêng tre ( nghiêng che ).
+ s / x: sa sôi ( xa xôi ), đường xá ( đường sá ).
+ c / k/ q: kon kênh ( con kênh ), cêu gọi ( kêu gọi ), con quốc (con
cuốc).
Tôi cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như:
Để phân biệt âm đầu l / n cần ghi nhớ: Chữ n khơng đứng đầu các
tiếng có vần có âm đệm (oa, oe, uê, uy). Do đó nếu gặp các tiếng dạng này
thì ta chọn (l) để viết, khơng chọn (n).
- Ví dụ: chói lịa, lóa mắt, loắt choắt…
18


 Để phân biệt âm đầu ng/ ngh, g/ gh cần ghi nhớ đơn giản như: Các
âm đầu ng, ngh, chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, ie, iê.
- Ví dụ: nghỉ hè, con nghé, nghiêng ngả, ghi nhớ...
 Để phân biệt âm đầu tr/ch: Các em cần nghi nhớ: Chữ tr khơng đứng
đầu các tiếng có vần âm đệm (oa, oă, oe, uê). Do đó nếu gặp các trường hợp

này ta chọn (ch) để viết, không chọn (tr).
- Ngoài ra đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên gọi con vật đều bắt
đầu bằng ch.
- Ví dụ: Chai, chén, chạn, chõ, chiêng, chóe, chăn, chiếu…
Chồn, chó, chuột, châu chấu, chìa vơi, chào mào…
Để phân biệt âm đầu s/x: Các em cần nghi nhớ: Chữ s khơng đứng
đầu các tiếng có vần âm đệm (oa, oă, oe, uê, uâ). Do đó nếu gặp các trường
hợp này ta chọn (x) để viết, không chọn (s).
- Ví dụ: xuề xịa, xoay vở, xuềnh xồng…
- Ngồi ra đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu bằng s.
- Ví dụ: Sả, si, sui, su su, sấu, sến, sậy, sầu riêng…
Sam, sên, sò, sáo, san hô, sư tử, sán…
Học sinh đã vận dụng mẹo luật một cách linh hoạt, thành thục để
nghe - viết đúng chính tả và để làm các bài tập chính tả khác nhau.
Để phân biệt âm đầu c / k/ q: Các em cần nắm được quy luật:
+ Q bao giờ cũng đi với âm đệm u để thành (qu).
+ C luôn đứng trước các nguyên âm: a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư.
+ K luôn đứng trước các nguyên âm: i, e, ê.
- Ví dụ: Tổ quốc, cơ, có, ca, kể. kẻ…
* Thứ tám: Rèn chữ viết cho học sinh thông qua các môn học khác.
Tôi thường xuyên quan tâm việc viết chữ thông qua các môn học
khác. Kết hợp rèn các em viết chữ số đúng, cân đối và đẹp (mơn tốn), áp
dụng mẹo luật chính tả giúp các em luyện cách phát âm đúng, đọc đúng
(phân môn tập đọc), rèn trau dồi về ngữ pháp, mở rộng vốn từ, dùng từ đặt
câu (phân môn luyện từ câu), phát triển tư duy (phân môn tập làm văn), rèn
luyện những phẩm chất như: tính cẩn thận, ý thức tự trọng và tôn trọng
người khác, tinh thần trách nhiệm (mơn đạo đức), óc thẩm mỹ, sáng tạo
(mơn mỹ thuật)…Tơi nhận thấy chữ viết đúng và đẹp chính là địn bẩy để
giúp các em học tốt các mơn học khác, góp phần quan trọng vào việc giữ
gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.

* Thứ chín: Sử dụng trị chơi trong giờ học.
19


- Với học sinh lớp 2, việc tổ chức trò chơi vào giờ học đặc biệt quan
trọng và cần thiết vì đây là lứa tuổi rất hiếu động. Do đó trị chơi thật sự bổ
ích và lí thú với các em nếu như người giáo viên hướng dẫn học sinh cách
thức lựa chọn và tổ chức trò chơi phù hợp.
- Trị chơi phải thú vị để học sinh tích cực tham gia. Trị chơi khơng
được tốn nhiều thời gian, sức lực để không làm ảnh hưởng đến các hoạt
động tiếp theo của tiết học.
- Tổ chức các trò chơi đảm bảo phát huy được tính tích cực, độc lập
sáng tạo của học sinh, đồng thời kích thích được lịng say mê, hứng thú
trong học tập, xua tan mệt mỏi để tiếp thu bài tốt hơn.
Ví dụ: Khi dạy tiết chính tả bài: “Hai anh em”. Để củng cố và mở
rộng việc viết đúng các từ bằng s/x kết hợp mở rộng vốn từ ngữ cho học
sinh. Tôi đã sử dụng trị chơi: “ Tìm tên cây có chữ s hoặc x ” như sau:
+ Chuẩn bị:
- Chia lớp thành hai nhóm. Mỗi nhóm 4 - 5 học sinh. Giáo viên làm trọng
tài.
- Làm thẻ từ phát cho mỗi nhóm 15 thẻ. Màu thẻ từ của các nhóm khác
nhau để tiện chăm sóc và bình chọn kết quả.
+ Tiến hành:
+ Trọng tài phát thẻ từ cho từng nhóm. Nêu cách chơi:
- Khi trọng tài hơ “bắt đầu” học sinh các nhóm cùng viết tên cây có
chữ bắt đầu bằng s hoặc x trên các thẻ (mỗi thẻ viết một tên cây).
- Sau 3 phút hai nhóm ngừng viết và tham gia đọc:
* Một học sinh nhóm A đọc to tên cây trên thẻ từ rồi dán thẻ từ đó lên
bảng lớp theo từng cột.
Tên cây bắt đầu bằng s. Tên cây bắt đầu bằng x.

* Một học sinh nhóm B sẽ phải đọc nhanh tên cho nhóm A gắn trên
bảng. Nếu thấy tên được viết đúng thì nhóm B sẽ đọc đồng thanh tên cây
vừa mới được nhóm A dán lên. Nếu thấy tên cây viết sai thì cả lớp im lặng.
Nhóm viết (A) và đọc đúng một từ được một bơng hoa. Nhóm viết và đọc
sai một từ khơng được bông hoa nào.
- Việc dán thẻ và đọc thẻ được luân phiên giữa hai nhóm.
+ Thực hành chơi:
- Hai nhóm học sinh tập trung ở hai bàn đầu.
- Khi nghe hiệu lệnh “bắt đầu”, cả hai nhóm cùng viết từ vào thẻ của
nhóm mình.
20


- Hai nhóm luân phiên nhau dán thẻ và đọc thẻ để tính số hoa.
- Trọng tài xác định ngay kết quả, tên cây nào viết sai thì loại ngay ra
khỏi bảng.
- Nhóm A dán thẻ “xoan” vào chỗ ghi x trên bảng rồi xuống, nhóm B
đọc thầm, thấy từ viết đúng thì đồng thanh lại “ xoan ”. Như vậy cả hai
nhóm trong trường hợp này đều được tính 1 bơng hoa.
- Khi cả hai nhóm dán thẻ từ và đọc hết tên cây đã viết, trọng tài theo
dõi, cộng số hoa lại, công bố kết quả.
- Cả lớp ghi vào vở những từ viết đúng chính tả của cả hai nhóm (sâm,
sung, sấu, sung, su su, sú, si, sa nhân, … xoan, xồi, xà cừ…)
* Tóm lại: Để có được “ ngân hàng” trị chơi phân mơn tập viết và
phân mơn chính tả địi hỏi chúng ta phải đầu tư thời gian nhất định thì có
thể thu lượm được hệ thống các loại trò chơi, dễ dàng lựa chọn trị chơi hợp
lý.
Ví dụ:
+ Thi tìm tiếng có vần an / ang, vần âc / ất.
+ Thi tìm tiếng có dấu hỏi / ngã.

+ Thi tìm tiếng bắt đầu bằng n / l.
+ Thi tìm tên con vật bắt đầu bằng tr / ch.
+ Thi viết chữ đẹp.
+ Thi viết đúng, viết nhanh chính tả vv…
Dạy theo hình thức: “Học mà chơi – chơi mà học” tôi thấy lớp học hào
hứng, thoải mái. Giờ học diễn ra nhẹ nhàng, khơng gị bó. Phù hợp với đặc
điểm nhận thức, với lứa tuổi và tính hiếu động của các em. Góp phần thúc
đẩy tích cực hoạt động rèn luyện kỹ năng suy nghĩ độc lập, sự nhanh trí,
sáng tạo và tinh thần đoàn kết, hợp tác cùng bạn bè. Mặt khác các tình
huống của trị chơi tạo cho học sinh khả năng nhớ lâu, chính xác và đảm
bảo tính logic của hệ thống kiến thức. Giờ dạy đạt kết quả cao hơn.
* Thứ mười: Xây dựng nề nếp vở sạch chữ đẹp.
- Dựa theo yêu cầu của ngành, của trường. Tôi luôn hướng dẫn học
sinh một cách thường xuyên các quy định của phong trào “Vở sạch, chữ
đẹp”, khuyến khích động viên các em có tố chất tư duy sáng tạo trong học
tập thì chữ viết mới sạch, đẹp, đúng chính tả và sáng tạo để trở thành những
nghệ nhân hoặc những nhà thư pháp trong tương lai.

21


- Tôi hướng dẫn học sinh bao bọc vở cẩn thận. Mỗi quyển vở viết cần
có một tờ bìa cứng để kẹp khi viết xong trang này thì kẹp sang trang kia.
Kẹp tờ bìa này thuận tiện khi mở khơng phải mở từng trang tránh nhàu vở
và quăn góc. Chỉ lật một lần chỗ kẹp tờ bìa là tới trang cần viết. Mỗi học
sinh cũng cần có một khăn lau tay để lau khi mồ hôi ra nhiều.
- Hướng dẫn học sinh rút nắp bút ra phải rút ở phía dưới bàn tránh mực
văng ra vở. Khi viết xong phải đóng bút lại tránh rơi xuống đất bị tịe ngịi
hoặc dính mực vào vở.
- Trình bày bài khoa học. Nếu sai khơng được tẩy xóa cần gạch chân

bằng bút chì. Không được xé vở, bỏ giấy trống.
- Quy định về giữ vở sạch:
+ Bao bọc, dán nhãn
+ Bảo quản tốt
+ Giữ gìn sạch
+ Trình bày đúng
+ Đủ nội dung bài học
- Quy định về chữ viết đẹp:
+ Viết đúng mẫu chữ và đẹp.
+ Viết rõ ràng.
+ Đúng tiến độ.
+ Chữ đều thẳng hoặc nghiêng sáng tạo đẹp.
+ Tôi hướng dẫn cho học sinh biết cách tự đánh giá “Vở sạch, chữ
đẹp”. Hàng tuần tôi chọn một loại vở để tổ chức cho học sinh tự đánh giá
(đổi chéo vở).
+ Hàng năm tơi động viên, khuyến khích các em tham gia thi “Vở
sạch, chữ đẹp” cấp trường, cấp huyện (nếu cấp huyện tổ chức).
d. Mối quan hệ giữa các biện pháp, giải pháp:
Vận dụng các biện pháp trên trong giờ dạy mơn Tiếng Việt (phân mơn
tập viết, chính tả) ở lớp 2 Trường tiểu học Tô Hiệu từ tháng 9 năm học 2015
- 2016 đến tháng 12 năm học 2016-2017. Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm
ở lớp mình được phân công chủ nhiệm và đạt kết quả như sau:
- Học sinh đã biết khắc phục những hạn chế về cách phát âm, viết đúng
chính tả và rất thích rèn chữ viết đẹp, phong trào “Vở sạch, chữ đẹp” một
cách hứng thú sôi nổi.
- Sách vở của các em đã thực hiện một cách nghiêm túc: 100% học
sinh đã có ý thức thi đua rèn “Chữ viết đẹp - đúng chính tả”. Đã góp phần
22



nâng cao chất lượng học tập của lớp, của trường. Được phụ huynh hưởng
ứng và tin tưởng.
Học sinh đã có ý thức tự rèn chữ viết thông qua việc tự học, thông qua
việc rèn chữ ở các môn học khác. Từ đó góp phần xây dựng được nề nếp
học tập, các em đã có sự tiến bộ về chất lượng, về đạo đức lối sống.
e. Kết quả thực nghiệm thu được qua khảo nghiệm:
- Kết quả xếp loại vở sạch chữ đẹp của học sinh trong thời gian qua:
Lớp
2A
2A

Năm học
2015 - 2016
Học kỳ I

TSHS Loại A
18
8
23
6

%
Loại B
45%
6
26%
9

%
Loại C

%
33%
4
22%
39%
8
35%

2016-2017
- Lớp 2A năm học 2015-2016 do tôi giảng dạy là một trong những
lớp dẫn đầu phong trào: “ Rèn chữ viết đẹp - đúng chính tả” cũng
như đạt được nhiều giải cao trong phong trào: “ Vở sạch, chữ đẹp”
cấp trường trong năm qua cụ thể:
- 1 giải nhất :
Em H Khuôn Ayun.
- 2 giải ba:
Em H Điệp Niê.
Em H Gem Ayun.
- 2 giải khuyến khích:
H Kuim Kbr.
Y Trân Kbr.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Qua tìm tịi nghiên cứu: “Một số biện pháp rèn chữ viết đẹp - đúng
chính tả” tôi đã đúc rút ra được rất nhiều bài học kinh nghiệm cho bản
thân :
- Cần nắm vững nội dung chương trình, mục tiêu của mơn học và quy
trình giảng dạy.
23



- Khơng ngừng học hỏi, tìm tịi, nghiên cứu để nâng cao trình độ
chun mơn nghiệp vụ. Nhiệt tình, gương mẫu trong việc rèn chữ viết, là
tấm gương sáng để học sinh noi theo.
- Phải thực sự điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức hoạt
động dạy học, hoạt động trải nghiệm ngay trong quá trình dạy học theo tinh
thần: “Lấy học sinh làm trung tâm”.
- Kịp thời chấm, chữa bài thường xuyên nhằm phát hiện những cố gắng, tiến
bộ, những ưu điểm nổi bật và những hạn chế của mỗi học sinh để để động viên,
khích lệ và phát hiện những khó khăn chưa thể tự vượt qua của học sinh để có
giải pháp kịp thời nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, rèn luyện của học
sinh.
- Giúp học sinh có khả năng tự đánh giá, tham gia đánh giá, tự học, tự
điều chỉnh cách học, giao tiếp, hợp tác, có hứng thú học tập và rèn luyện để
tiến bộ. Xây dựng nề nếp tự đánh giá của học sinh về việc rèn chữ viết đẹp,
đúng chính tả (mỗi tháng 1 lần) rồi thơng báo kết quả kịp thời đến phụ
huynh. Tiếp nhận ý kiến phụ huynh để tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng, đẩy
mạnh chất lượng phong trào.
- Tham mưu kịp thời với ban giám hiệu nhà trường về điều kiện cơ sở
vật chất, phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh về việc tạo điều kiện
hỗ trợ học sinh trong phong trào: “Rèn chữ viết đẹp - đúng chính tả”,
phong trào “Vở sạch, chữ đẹp ”.
- Quan tâm việc tạo ra môi trường học thật sôi nổi, tạo dựng được nề
nếp việc rèn chữ. Kịp thời động viên, khuyến khích học sinh.Tổ chức cho
học sinh thêm phong trào tự rèn chữ viết (lưu ý cách viết sáng tạo).
- Chú ý việc giúp học sinh khắc phục các hạn chế trong viết chữ, trong
trình bày bài làm. Có biện pháp khắc phục trong quá trình đánh giá chữ viết,
trình bày bài làm, giữ gìn sách vở. Phải làm cho học sinh kịp thời nhận biết
những thiếu sót về chữ viết để có biện pháp khắc phục.
- Phải tìm hiểu nội dung từng bài để lựa chọn cách thức tổ chức dạy

học, tổ chức trò chơi cho phù hợp. Đặc biệt hơn nữa người giáo viên muốn
xây dựng tốt phong trào: “Rèn chữ viết đẹp - đúng chính tả” trước hết phải
là tấm gương về lịng nhiệt tình, u nghề, mến trẻ. Cần phải đầu tư nhiều
24


thời gian, phải thực sự là tấm gương tự học và tự sáng tạo để học sinh noi
theo.
Như vậy chữ viết là phương tiện giao tiếp của con người, không những
chỉ phục vụ riêng cho mơn Tiếng Việt mà cịn góp phần nâng cao chất lượng
dạy học một cách tồn diện. Vì vậy xây dựng một cách thường xun, có nề
nếp phong trào: “Rèn chữ viết đẹp - đúng chính tả ”, phong trào “Vở sạch,
chữ đẹp” là một yêu cầu hết sức quan trọng ở bậc Tiểu học mà mỗi giáo
viên cần quan tâm. Vì vậy trải qua hơn 22 năm công tác chủ yếu là đối
tượng học sinh dân tộc thiểu số và những gì đúc rút được tôi đã đi sâu
nghiên cứu, áp dụng vấn đề này vào thực tế lớp mình dạy và thực tế đã đạt
được kết quả cao.
2. kiến nghị :
* Với cấp quản lý:
- Tạo điều kiện về cơ sở vật chất để phục vụ cho dạy và học.
- Cung cấp tài liệu, chuyên sâu đổi mới kịp thời cho giáo viên nghiên
cứu và áp dụng.
- Hàng năm tổ chức thi : “Vở sạch, chữ đẹp” cho học sinh.
- Tổ chức thi “Chữ viết đẹp” đối với giáo viên.
* Với giáo viên:
- Không ngừng học hỏi, tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ
chun mơn nghiệp vụ.
- Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo mơ hình mới.
- Bản thân giáo viên phải ln có đức tính cẩn thận, đặc biệt là chữ viết
khi trình bày trên bảng, phải là tấm gương sáng để học sinh noi theo.

* Đối với phụ huynh:
- Thường xuyên kiểm tra vở học trên lớp để đôn đốc các em học tập.
- Phối kết hợp chặc chẽ giữa gia đình và nhà trường để nâng cao chất
lượng giáo dục hai mặt.
Trên đây là một số biện pháp “Rèn chữ viết đẹp – đúng chính tả” cho
học sinh mà bản thân tôi đã đi sâu nghiên cứu, thể hiện và trải nghiệm.
Bước đầu sáng kiến có những thành cơng nhất định song do hạn chế của
bản thân nên trong q trình thực hiện khơng tránh khỏi những thiếu sót.
Bản thân tơi rất mong những ý kiến đóng góp quý báu của các cấp quản lý,
các bạn đồng nghiệp để kinh nghiệm này mang lại hiệu quả cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
CưMgar, ngày 14 tháng 03 năm 2017
25


×