Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn dạy học phân hóa đối tượng trong môn tiếng việt 4 theo mô hình trường học mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.29 KB, 15 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn sáng kiến:
Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất ở bậc
Tiểu học. Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh kiến thức ban đầu về Tiếng Việt,
giúp các em hình thành và phát triển tư duy ngơn ngữ. Học tập môn học này các em
sẽ được học cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình một cách chính
xác, được bồi dưỡng tình u Tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách cho con người Việt Nam.
Làm thế nào để các em nắm vững kiến thức mơn học một cách chắc chắn và
có một vốn từ nhất định? Làm thế nào để quan tâm tốt việc hình thành kiến thức
cho học sinh; đến quá trình học sinh sử dụng từ ngữ đã học trong nói, viết và cuộc
sống hàng ngày. Đó chính là sự tích cực đổi mới phương pháp dạy học.
Một trong những phương pháp dạy học đem lại hiệu quả cao trong việc dạy
học các mơn học nói chung và mơn Tiếng Việt nói riêng là dạy phân hóa đối tượng
- dạy học theo tiến độ học tập của học sinh.
Thực tiễn cho thấy: Quá trình dạy học sẽ đạt hiệu quả mong muốn nếu biết
sử dụng các hứng thú của học sinh vào mục đích dạy học và giáo dục. Phân hoá
dạy học phù hợp với học sinh sẽ tạo ra động lực học tập cho các em, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển tối đa tư chất và năng lực của những học sinh có năng
khiếu. Chỉ có phân hố dạy học mới có khả năng loại trừ tình trạng quá tải đối với
học sinh. Phát hiện và bù đắp lỗ hổng kiến thức, tạo động lực thúc đẩy học sinh học
tập. Chính vì vậy, việc dạy học theo nhóm đối tượng (phân hóa đối tượng học sinh)
sẽ giúp cho tất cả học sinh đều tích cực học tập. Từ đó đạt được chuẩn kiến thức, kĩ
năng của bài học, đồng thời phát triển năng lực học tập của từng học sinh.
Đặc thù của dạy học phân hóa là dạy sao cho vừa sức với đối tượng: Học
sinh năng khiếu dạy sao cho các em hứng thú, đam mê với việc học; đối với học
sinh chậm tiến thì tạo động lực để các em vươn lên; bù đắp được chỗ hổng về kiến
thức để lĩnh hội được kiến thức cơ bản. Như vậy, dạy học phân hóa xuyên suốt và
chi phối mọi phương pháp dạy học. Một khi giáo viên thực hiện phương pháp đọc
sáng tạo ở trên lớp thì phải phân hóa cho được các đối tượng học sinh, để áp dụng
từng biện pháp đọc - hiểu văn bản ở những mức độ khác nhau.


Ngoài kế hoạch dạy học, thơng thường phân hóa để có những kế hoạch dạy
học phù hợp, đưa học sinh chậm tiến đạt chuẩn và giúp các đối tượng đã đạt chuẩn
hoặc năng khiếu phát triển ở mức cao hơn.
Tuy nhiên phải thừa nhận rằng, thực tế hiện nay việc dạy các môn học nói
chung và việc dạy học phân hóa theo đối tượng học sinh cịn có rất nhiều hạn chế
và chưa đạt kết quả cao như mong muốn. Giáo viên chưa thực sự chủ động, linh
hoạt và sáng tạo trong đổi mới phương pháp. Đơi lúc, đơi khi cịn rập khn, máy
1


móc, lệ thuộc vào tài liệu hướng dẫn học. Nhiều giáo viên cịn gặp khó khăn trong
việc tổ chức các hoạt động dạy học và đánh giá học sinh. Giáo viên chưa xây dựng
được phương pháp dạy phù hợp với mục đích, nội dung của bài học đề ra. Bên cạnh
đó, ý thức tự giác của học sinh chưa cao, cịn ỉ lại, trong chờ vào cơ giáo,vào bạn
bè, ý thức tự học còn hạn chế.
Tất cả những vấn đề trên là sự trăn trở của bản thân. Bởi vậy trong q trình
giảng dạy tơi đã khơng ngừng tìm tịi, học hỏi để tìm ra các biện pháp dạy học
mang lại hiệu quả tốt nhất. Bản thân tôi đã chọn nội dung "Dạy học phân hóa đối
tượng trong mơn Tiếng Việt 4 theo mơ hình trường học mới” để làm đề tài cho
sáng kiến kinh nghiệm của mình.
1.2. Điểm mới của sáng kiến:
Dạy học phân hóa đối tượng - dạy theo tiến độ học tập của học sinh không
phải là nội dung mới nhưng đổi mới hình thức, phương pháp tổ chức chắc rằng ở
mỡi giáo viên lại có một sáng kiến, một giải pháp riêng. Bản thân tôi đã trực tiếp
giảng dạy, làm công tác chủ nhiệm lớp, được học tập kinh nghiệm của đồng chí
đồng nghiệp, được trải nghiệm và thấy được sự đổi mới không ngừng về phương
pháp dạy học, tôi rất đam mê, tâm huyết về nội dung này. Trong phạm vi sáng kiến
của mình, tơi mong muốn, mạnh dạn được trình bày một số biện pháp đã thực hiện
có hiệu quả ở lớp bản thân đã và đang giảng dạy và áp dụng tại đơn vị trong việc
dạy học phân hóa đối tượng trong mơn Tiếng Việt 4 theo mơ hình trường học mới.

Sáng kiến đã mở rộng và đi sâu nghiên cứu các phương pháp dạy học phân hóa đối
tượng trong mơn Tiếng việt 4 theo mơ hình trường học mới với các quy trình khác
nhau như: Đánh giá, phân loại trình độ, năng lực học tập của học sinh. Xây dựng kế
hoạch, nội dung và lựa chọn hình thức, phương pháp dạy học cho phù hợp với từng
nhóm đối tượng hoặc từng đối tượng đặc biệt. Tổ chức triển khai thực hiện. Kiểm
tra, đánh giá và điều chỉnh, hoàn thiện. Giúp giáo viên chủ động trong từng tiết
dạy; giúp học sinh tiếp cận kiến thức một cách chủ động, tích cực, đặc biệt là học
sinh học đúng năng lực, trình dộ của mình. Sáng kiến hướng tới việc dạy học phát
triển các năng lực cho học sinh, đặc biệt là năng lực Tiếng Việt.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. THỰC TRẠNG
2.1.1. Thuận lợi:
Bản thân tôi đã nhận thức đầy đủ việc đổi mới dạy học và dạy học theo quan
điểm “Dạy học phân hóa” - dạy theo tiến độ học tập của học sinh là tất yếu khách
quan, là việc làm cấp thiết.
Việc quản lý chương trình dạy học ở trường được thực hiện nghiêm túc, có
các biện pháp kiểm tra thường xuyên. Hầu hết các giáo viên đều thực hiện đúng
tiến độ, bám sát phân phối chương trình.
2


Nhà trường luôn tạo điều kiện cho công tác dạy và học, giáo viên đầy đủ
sách giáo khoa, sách hướng dẫn học và được học về sử dụng các phương tiện dạy
học hiện đại. Đội ngũ có nhiều giáo viên yêu nghề, có năng lực sư phạm, có vốn từ
phong phú.
Ngay từ đầu năm học chuyên môn đã đề ra kế hoạch dạy học phù hợp với
thực tế của nhà trường, tổ chức thực hiện kế hoạch tương đối hợp lý, khoa học. Chú
ý coi trọng việc phân công giảng dạy cho giáo viên trên cơ sở năng lực, hoàn cảnh,
nguyện vọng, phù hợp với nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Hàng năm đều tổ
chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên như: việc thực hiện chương

trình, tiêu chuẩn đánh giá giờ lên lớp, đổi mới phương pháp dạy học... Việc dự giờ
thăm lớp, rút kinh nghiệm sau tiết dạy, đánh giá kết quả bài dạy theo quan điểm
phân hóa đã được tổ chức.
Tổ chun mơn đã phát huy hết vai trò trong việc quản lý hoạt động giảng
dạy của giáo viên. Dự giờ thống nhất nội dung bài giảng theo quan điểm phân hóa,
xây dựng tiêu chí thi đua ngay từ đầu năm học.
Ban đại diện cha mẹ học sinh đã tích cực phối hợp với nhau tạo sự gắn kết
trong cơng tác giáo dục.
2.1.2. Khó khăn:
Về phía giáo viên:
Trong dạy học phân hóa cịn lúng túng, chưa bao quát hết học sinh. Việc
kiểm soát tiến độ học tập từng em, từng nhóm trong từng bài, từng hoạt động cịn
gặp khó khăn. Bản thân đơi lúc còn bối rối, chưa tự tin trong việc thiết kế các tiết
dạy theo kiểu phân hóa cho từng đối tượng học sinh. Nếu quan tâm nhiều đến học
sinh chậm tiến khơng có thời gian định hướng cho học sinh năng khiếu phát huy
năng lực của bản thân vơ tình tạo cho các em sự nhàm chán.
Giờ học Tiếng Việt còn diễn ra theo tiến độ chưa đảm bảo. Chưa chú trọng
điều chỉnh một cách hợp lí nhất để phù hợp với đối tượng học sinh. Giáo viên chưa
thực sự chú trọng phát triển các năng lực, đặc biệt là năng lực Tiếng Việt cho học
sinh.
Nhiều tiết dạy, giáo viên chưa đủ khả năng tổ chức nhằm truyền tải đến học
sinh những kiến thức sâu, rộng của từng bài học.
Cách dạy của nhiều giáo viên trong mơn Tiếng Việt cịn đơn điệu, lệ thuộc
một cách máy móc vào sách giáo viên, nhiều khi ít sáng tạo, chưa đổi mới phương
pháp dạy học theo mơ hình trường học mới, nhiều hoạt động cịn nói nhiều, làm
thay học sinh dẫn đến các em chiếm lĩnh kiến thức ít, vận dụng kiến thức vào bài
chưa cao.
Bên cạnh đó giáo viên sử dụng các hình thức dạy học chưa linh hoạt, giờ học
cịn khơ khan chưa gây hứng thú cho học sinh. Trên hết là việc dạy học theo đối
3



tượng học sinh chưa được rõ nét, kiến thức nào cũng dành cho tất cả học sinh nên
gặp phải khó khăn trong quá trình tiếp nhận kiến thức ở các em.…
Việc ra đề kiểm khảo sát chưa thực sự đáp ứng đánh giá các mức độ nhận
thức của học sinh.
Về phía học sinh:
Mặc dù việc đổi mới phương pháp đã được chú trọng triển khai nhưng hiệu
quả và kết quả đạt được sau mỗi tiết Tiếng Việt chưa cao. Mỗi một chủ điểm, mỗi
một bài học các em khắc sâu lại được rất ít nội dung. Việc phân hóa đối tượng học
sinh và vận dụng vào thực tiễn dạy học cịn hạn chế và lúng túng.
Học sinh ít hứng thú học mơn Tiếng Việt. Một số bài học cịn trừu tượng,
khó hiểu, ít gần gũi và quen thuộc với các em. Học sinh trong giờ học còn trầm,
chưa hăng say phát biểu xây dựng bài, nhiều em còn thụ động; một số em chưa
thực sự chủ động trong học tập. Điều này gây tâm lý mệt mỏi, ngại học môn Tiếng
Việt. Các em còn nhiều hạn chế về năng lực giao tiếp, thiếu mạnh dạn tự tin, còn
rụt rè khi bày tỏ ý kiến...
Một phần do học sinh có nhiều đối tượng khác nhau nên mức độ chú ý bài
học cũng khác nhau.
Về phía phụ huynh :
Một số bộ phận phụ huynh chưa quan tâm thích đáng đến việc học của con
em, chưa coi trọng sự tiến bộ của các em (dù là nhỏ nhất); nhiều phụ huynh vẫn
còn tư tưởng so sánh sức học của con mình với bạn, mang nặng về thành tích.
Xuất phát từ thực trạng đó tơi đã tìm nhiều biện pháp để nâng cao hiệu quả
dạy học phân hóa đối tượng trong mơn Tiếng Việt lớp 4. Qua các năm thực hiện, tôi
đã gặt hái được những thành công đáng phấn khởi. Trong khuôn khổ sáng kiến kinh
nghiệm, tôi xin đưa ra một số biện pháp mà bản thân thực sự tâm đắc.
2.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC PHÂN HĨA
2.2.1. Điều tra, nắm tình hình, phân hóa đối tượng học sinh.
Dạy học phân hóa là dựa vào đặc điểm riêng biệt trong học tập của học sinh

về phong cách học tập, năng lực học tập, nhu cầu, hứng thú, động cơ học tập, định
hướng giá trị, đặc điểm văn hóa cá nhân. Dựa vào đó để giáo viên lựa chọn mục
tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện… dạy học thích hợp với từng
nhóm đối tượng.
Xác định điều này, cho nên tơi đầu tư cho biện pháp đầu tiên là phân loại đối
tượng, năng lực học sinh.
Trước hết, tơi đã rà sốt các năng lực thông qua biên bản bàn giao lớp chủ
nhiệm cùng với các bài kiểm tra của học sinh trong năm học trước để phân hóa đối
tượng.
Khi nhận lớp, tơi đã khảo sát chất lượng và kết quả đó là:
4


Số
Lớp

4B

học sinh
đánh giá
25

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn
thành

Số

lượng

Tỉ lệ %

Số
lượng

Tỉ lệ %

Số
lượng

Tỉ lệ %

5

20

15

60

5

20

Song song với các việc làm trên, tôi đã thực hiện phân loại đặc điểm về
phong cách học tập của học sinh. Bởi lẽ tôi thiết nghĩ, giảng dạy dựa trên phong
cách học tập chính là nhận định đúng khí chất của học sinh (hăng hái, bình thản,
nóng nãy, ưu tư), phân loại đặc điểm trí tuệ nổi bật của học sinh gồm ngơn ngữ,

logic - tốn học, khơng gian, hình thể - động năng, âm nhạc, giao tiếp, nội tâm và
tự nhiên học.
Dù biết chắc rằng xây dựng môi trường dạy học dựa vào phong cách học tập
phát huy được thế mạnh của từng học sinh nhưng đây khơng phải là cơng việc dễ
dàng. Do đó tơi đã dùng các phiếu hỏi, bảng kiểm và cả sự quan sát, đánh giá việc
học tập cũng như vui chơi, sinh hoạt của các em để phân loại được học sinh.
Bên cạnh đó, tơi phân loại nhịp độ nhận thức trong học tập từng môn cụ thể của
mỗi học sinh nhanh chậm khác nhau ở từng lĩnh vực trí tuệ.
Khi được phân cơng giảng dạy, tơi có cơ hội gần các em, tôi đã phải ghi chú
nhịp độ này ở từng học sinh, phân thành từng nhóm nhanh chậm khác nhau để có
thực hiện q trình dạy học cho vừa sức từng nhóm, tránh tình trạng những học
sinh nhịp độ tiếp nhận nhanh phải chờ đợi, học sinh chậm cảm thấy giáo viên lướt
nhanh vấn đề.
Phân loại năng lực học tập từng mơn của học sinh nói chung và mơn Tiếng
Việt nói riêng là cách phổ biến nhất trong rà sốt đầu vào mà tơi đã và đang thực
hiện. Tơi chia lớp thành ba nhóm: giỏi, khá - trung bình - yếu kém. (Không thông
báo đến học sinh - đây là cơng cụ giúp tơi trong q trình dạy học). Dựa vào kết
quả phân loại này tôi mới đầu tư xây dựng mục tiêu chung và riêng cho lớp học, lựa
chọn nội dung, phương pháp, hình thức (bồi dưỡng, phụ đạo) cho từng nhóm.
Khơng những thế tơi phải phân loại học sinh trên cơ sở đánh giá nhu cầu, hứng thú,
động cơ học tập, thậm chí ở cả đặc điểm văn hóa, tơn giáo, mơi trường sống…của
học sinh.
Việc phân hóa đối tượng đã góp phần giúp tơi thành cơng trong dạy học phân
hóa đối tượng học sinh.
2.2.2. Phân bậc nhiệm vụ trong thiết kế kế hoạch bài dạy
5


Phân bậc nhiệm vụ học tập đối với nội dung mang tính lí thuyết: Kĩ thuật cơ
bản cho việc thiết kế này là chia nhỏ nội dung học tập ra thành nhiều nhiệm vụ.

Học sinh năng khiếu sẽ thực hiện nhiệm vụ khó hơn, nhiều nhiệm vụ hơn hoặc
thực hiện khơng có sự hướng dẫn. Học sinh chậm tiến sẽ thực hiện ít nhiệm vụ,
đơn giản hơn hoặc được những chỉ dẫn, hỡ trợ nhiều hơn.
Ví dụ: Một số điều chỉnh bổ sung để phân bậc nhiệm vụ trong thiết kế Kế
hoạch dạy học:
Bài 8B: ƯỚC MƠ GIẢN DỊ (Tiết 1)
Mục tiêu: Bổ sung:
Học sinh chậm tiến: Đọc đúng được bài văn “Đôi giày ba ta màu xanh”, ngắt
nghỉ hơi đúng sau các dấu câu.
Học sinh năng khiếu: Đọc diễn cảm dược một đoạn trong bài. Ngắt nghỉ hơi
đúng sau các dấu câu, giữa các cụm từ; nhấn giọng ở những từ ngữ gợi tả, gợi cảm.
Các hoạt động dạy học:
Hoạt động cơ bản:
Hoạt động 1: ( Theo tài liệu )
Đánh giá:
Trả lời đúng nội dung tranh: Cậu bé đeo đơi giày và những người trong
tranh đều rất vui vì: Cậu được tặng mợt món q nên rất vui và mọi người cũng
vui theo.( Học sinh tồn lớp)
Mở rợng đối với học sinh năng khiếu: Mọi người chứng kiến cảnh vui sướng
khi cậu bé nghèo lang thang đã có được đơi giày mà mình ao ước bấy lâu.
Hoạt động 2: Luyện đọc ( Theo tài liệu )
Đánh giá:
Đọc to, rõ ràng, trơi chảy tồn bài, ngắt nghỉ đúng sau các dấu câu:
“Tơi tưởng tượng / nếu mang nó vào / chắc bước đi sẽ nhẹ và nhanh hơn, /…
(Học sinh chậm tiến)
Nhấn giọng ở các từ miêu tả vẻ đẹp của đôi giày: đẹp làm sao, ôm sát
chân... (Đối với học sinh năng khiếu)
Đọc toàn bài với giọng chậm rãi, nhẹ nhàng…
Lắng nghe tích cực, sửa sai cho bạn.
Hoạt động 3: Tìm hiểu bài ( Theo tài liệu)

Đánh giá:
Tham gia tích cực, thảo luận cùng bạn để tìm ra các câu trả lời.
Trả lời to, rõ ràng, lưu loát, mạnh dạn.
Đối với học sinh chậm tiến: trả lời đúng nội dung câu hỏi 1,3; học sinh năng
khiếu trả lời đúng nội dung câu hỏi 2,4 và câu hỏi bổ sung.
Câu 1: Cổ giày ôm sát chân, thân giày làm bằng vải cứng, dáng thon thả.
6


Câu 2: Chị thưởng cho Lái đôi giày ba ta màu xanh trong buổi đầu cậu đến
lớp.
Câu 3: Đáp án d
Câu 4: Đáp án a
Câu hỏi bổ sung đối với học sinh năng khiếu:
Bài văn có nội dung gì?
Đánh giá:
Nêu đúng nợi dung bài văn: Chị phụ trách Đợi có tấm lịng nhân hậu, hiểu trẻ em
nên đã vận đợng được cậu bé lang thang đi học, làm cậu rất xúc đợng, vui sướng vì
được tặng đơi giày mơ ước trong buổi đầu đến lớp.
Hoạt động ứng dụng:
Câu 1: Đọc cho người thân nghe bài văn “ Đôi giày ba ta màu xanh” (Học sinh
chậm tiến)
Câu 2: Trao đổi với người thân về ước mơ của nhân vật trong một truyện mà em
thích. (Học sinh năng khiếu)
Đánh giá:
Câu 1: Đọc đúng bài văn
Câu 2: Biết kể lại câu chuyện mình thích và nói về mơ ước của nhân vật vừa
kể.
Hợp tác tích cực với người thân.
Xây dựng kế hoạch dạy học cụ thể, dự kiến các hoạt động, các bài tập phù

hợp với năng lực, điều kiện thực tế sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Việc
làm này sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; hình thành và
phát triển khả năng tự học cho học sinh; đảm bảo tính phù hợp với đối tượng giáo
dục và đặc điểm vùng, miền; đảm bảo tính trực quan; thực hiện dạy học tích hợp
nhằm khơi dậy hứng thú học tập cho các em.
2.2.3. Tổ chức dạy học phân hóa theo các năng lực:
Sự giống và khác nhau về trình độ phát triển nhân cách của mỡi cá thể học
sinh địi hỏi một q trình dạy học thống nhất với những biện pháp phân hóa nội
tại. Nhiệm vụ của giáo viên là nghiên cứu tìm hiểu những mặt mạnh và yếu trong
năng lực, trình độ phát triển của học sinh để có biện pháp cụ thể tác động đến đối
tượng. Có như vậy mới giúp cho tất cả học sinh đều tiếp thu được những kiến thức
và kĩ năng tối thiểu. Đồng thời phát hiện và đào tạo nhân tài ngay từ trong lớp của
mình.
Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học. Bồi
dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và
ý chí vươn lên.
a) Tổ chức phân hố dạy học theo năng lực chung.
7


Các năng lực chung mà tơi hướng tới để hình thành và phát triển ở các em đó
là nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân (năng lực tự học, năng lực giải
quyết vấn đề, năng lực tư duy, năng lực tự quản lí); nhóm năng lực về quan hệ xã
hội (năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác) và nhóm năng lực cơng cụ (năng lực sử
dụng công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực sử dụng ngôn ngữ).
Tôi luôn xác định: hiệu quả giao tiếp phụ thuộc vào năng lực Tiếng Việt. Vì
thế muốn hình thành và phát triển năng lực giao tiếp tôi đã chú ý nhiều đến sự hình
thành và phát triển năng lực Tiếng Việt. Mặt khác, việc hình thành và phát triển
năng lực Tiếng Việt không thể thực hiện được nếu đặt Tiếng Việt ngoài tư cách là
phương tiện giao tiếp. Nói cách khác, muốn hình thành và phát triển năng lực Tiếng

Việt phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với năng lực giao tiếp.
Việc tổ chức phân hoá dạy học theo năng lực chung có thể căn cứ vào kết quả
học tập của năm học trước mà nhà trường phân học sinh thành các đối tượng có
cùng sức học. Trong môn Tiếng Việt, học sinh tiếp cận nhiều kiến thức, nhiều chủ
điểm và nội dung mới nên sự phân hóa địi hỏi phải được thể hiện rõ. Tổ chức phân
hoá dạy học theo năng lực chung kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học phát
hiện và giải quyết vấn đề, tình huống…nhằm mục đích giúp học sinh tiếp thu tốt
các kiến thức. Các phương pháp này có ưu điểm là tạo ra tình huống gợi vấn đề,
điều khiển học sinh hoạt động tự đánh giá, tích cực chủ động và sáng tạo. Để thu
hút tất cả các đối tượng học sinh trong lớp tham gia tìm hiểu nội dung bài học.
Tôi đã chú trọng rèn cho các em về cách nghe hiểu trong giao tiếp thông
thường và các chủ đề quen thuộc; nói rõ ràng và mạch lạc, kể các câu chuyện ngắn,
đơn giản; đọc lưu loát và đúng ngữ điệu, đọc hiểu bài đọc ngắn; viết được bài văn
ngắn về các chủ đề quen thuộc, điền được thông tin vào các mẫu văn bản đơn giản.
Không những thế, tôi luôn rèn cho các em về cách phát âm đúng các từ; hiểu
những từ thơng dụng và có số lượng từ vựng cần thiết cho giao tiếp hàng ngày; biết
sử dụng các loại câu giao tiếp chủ yếu như câu trần thuật, câu hỏi, câu mệnh lệnh,
câu khẳng định, câu phủ định, các câu đơn, câu phức trong trường hợp cần thiết.
b) Phân hoá dạy học theo năng lực riêng.
Việc tổ chức dạy học phân hóa theo năng lực riêng là sự tập hợp học sinh có
cùng năng lực về một số phân mơn.
Nhóm cùng có năng lực về phân mơn luyện từ và câu.
Nhóm cùng có năng lực về phân mơn tập làm văn.
Nhóm cùng có năng lực về phân mơn tập đọc, chính tả.
Hiện nay chúng ta cịn có khó khăn lớn là: thiếu cơng cụ, phương pháp khách
quan để đánh giá chính xác năng lực của từng học sinh. Vì vậy, khi tiến hành phân
hóa dạy học theo đối tượng cần thực hiện hết sức thận trọng và dân chủ.
8



Trong quá trình dạy học theo năng lực riêng của từng học sinh, từng nhóm
học sinh, bản thân tơi đã tập trung vào việc dạy học theo tiến độ. Việc dạy học theo
tiến độ thường tập trung vào 4 bước:
Bước 1: Học sinh làm bài theo năng lực của từng cá nhân. (Thể hiện theo 4
mức độ).
Bước 2: Sản phẩm bài làm của học sinh được lưu lại.
Bước 3: Học sinh rèn luyện việc nhận dạng, áp dụng các kiến thức. (100 %
học sinh phải hoàn thành).
Bước 4: Tiếp tục làm các bài tập với mức độ khó dần lên phù hợp với khả
năng.
Tùy vào từng hoạt động, tơi có thể giao bài tập áp dụng cho cả lớp, cho từng
cá nhân, hoặc theo nhóm, theo cặp đơi, theo bàn, theo tổ học sinh.
Ví dụ: Hoạt động 3 của Bài 34A: Tiếng cười là liều thuốc bổ (Tiết 2).
Phân môn luyện từ và câu: Mở rộng vốn từ: Lạc quan - u đời. Lớp tơi có 7
nhóm, trong mỡi nhóm tôi chia mỗi đối tượng làm hai câu. Học sinh chậm tiến
(gồm học sinh chậm tiến và cần cố gắng) làm câu a,b. Học sinh năng khiếu (trong
đó có học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt) làm câu c,d.
Hoặc: Bài 15C - Quan sát đồ vật (Tiết 1). Ở hoạt động cơ bản 1, để học
sinh hiểu rõ cách quan sát đồ vật trước hết tôi phải chuẩn bị một số vật thật để học
sinh quan sát rõ hơn, từ đó học sinh sẽ dễ dàng hơn khi làm bài miêu tả đồ vật. Tiếp
theo, tôi sử dụng hệ thống câu hỏi ngoài câu hỏi ở tài liệu hướng dẫn học để giúp
các em hình dung kĩ hơn việc miêu tả một đồ vật như: Khi quan sát đồ vật cần chú
ý những gì? Để quan sát đồ vật tốt nhất chúng ta phải sử dụng những giác quan
nào? Cuối cùng để giúp học sinh hiểu sâu sắc và ghi nhớ tốt hơn, đồng thời giúp
bản thân có cơ sở để đánh giá học sinh hiểu được bao nhiêu phần trăm nội dung bài
học, tôi cho từng đối tượng học sinh nói lên kết quả đạt được sau hoạt động. Học
sinh năng khiếu sẽ mô tả đồ vật một cách đa dạng hơn, phức tạp và sinh động hơn.
Còn với học sinh chậm tiến, chỉ yêu cầu các em nêu được đồ vật muốn miêu tả, các
đặc điểm chi tiết bề ngồi của đồ vật đó và nói thêm một số đặc điểm riêng của đồ
vặt đó so với các đồ vật khác.

Ví dụ: Ở bài 25A - Bảo vệ lẽ phải (Tài liệu HDH Tiếng Việt Lớp 4 - Tập
hai - Trang 76)
Trong hoạt động 7: Học sinh cả lớp làm việc theo yêu cầu của tài liệu: Sau
khi đọc yêu cầu, với học sinh chậm tiến tôi yêu cầu các em trả lời được câu hỏi thứ
nhất: Tìm những câu thuộc kiểu câu Ai là gì?
Cũng trong hoạt động này, đối với học sinh năng khiếu, sau khi các em đã
hoàn thành yêu cầu trong tài liệu, các em sẽ chỉ thêm cho các bạn trong nhóm biết
9


xác định chủ ngữ trong mỡi câu vừa tìm được và thảo luận thêm chủ ngữ trong các
câu trên có ý nghĩa gì?
Với cách làm này học sinh ln cảm thấy thoải mái, không căng thẳng, tạo
cho các em phát huy được năng lực học tập của chính bản thân mình.
2.2.4. Thực hiện dạy học theo tiến độ trong giờ học nhằm phân hóa đối
tượng học sinh.
Trong dạy học, tơi tuyệt đối không để học sinh làm bài xong đợi bạn để chữa
bài.
Nhóm trưởng bao quát để biết dừng lại ở từng thời điểm chữa bài trong nhóm
và kiểm sốt được kết quả của các thành viên. (2/3 số thành viên làm xong thì chữa
bài; tất cả cùng chuyển sang làm bài khác... đến lúc có bạn khơng tiếp tục làm đến
bài khó hơn (Mức 3,4) sẽ quay lại bài trước để làm... Không yêu cầu tất cả học sinh
đều làm số lượng bài giống nhau.
Để học sinh không ngồi chơi trong các hoạt động, khi hoạt động cá nhân xong,
bạn bên cạnh chưa xong, học sinh có thể làm các bài tiếp theo hoặc giúp đỡ các bạn
khác đến khi bạn bên cạnh làm xong, cùng trao đổi cặp đơi.
Khi trao đổi cặp đơi xong, thấy cặp trong nhóm chưa xong, học sinh làm tiếp
các bài tập tiếp theo đến khi các cặp trong nhóm chia sẻ xong, nhóm trưởng cho
trao đổi các cặp trong nhóm.
Trong tiết học, nếu học sinh làm nhanh hơn so với tiến độ chung cả lớp, tơi

hướng dẫn để các em có thói quen tự các em đi lấy bài tập góc hoặc tài liệu tham
khảo ở góc học tập mơn học để làm tiếp.
Bài tập góc có thể chia theo các mức độ khác nhau, bài tập dành cho học sinh
giỏi, bài tập dùng cho học sinh khá (các mức độ khác nhau ghi ở các màu giấy khác
nhau để học sinh phân biệt). Bài tập góc chủ yếu để dành cho cá nhân. Nếu bài học
dễ, đa số học sinh hoàn thành sớm nội dung tiết học thì tơi giao thêm bài tập ở phần
hoạt động thực hành hoặc thêm nội dung kiến thức cho tất cả lớp. Đối với nội dung
hoạt động ứng dụng và những bài giáo viên giao cho học sinh về nhà làm bài, giáo
viên có thể giao cho hội đồng tự quản kiểm tra, chữa bài ở phần truy bài đầu giờ.
Trước khi vào tiết học đầu tiên, hội đồng tự quản báo cáo cô giáo, hạn chế việc
kiểm tra bài tập trong tiết học (trừ những kiến thức có liên quan đến bài mới).
2.2.5. Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra để đánh giá, chuẩn đốn, phân
loại đối tượng học sinh theo trình độ.
Thứ nhất: Kết hợp kiểm tra định kì, kiểm tra thường xuyên và quan sát lớp
học đòi hỏi người giáo viên phải thận trọng khi đưa ra kết luận một học sinh nào đó
thuộc nhóm trình độ nào. Do vậy, cần phải kết hợp nhiều hình thức kiểm tra trong
dạy học để có kết quả khách quan và chính xác. Ngồi việc kiểm tra định kì và
kiểm tra thường xun, tơi cịn có sổ tay ghi chép kết quả quan sát, theo dõi hàng
10


ngày, trong đó lưu ý đến những trường hợp đặc biệt, hoặc quá xuất sắc hoặc quá
yếu để tiến hành dạy học phân hóa phù hợp.
Thứ hai: Kết hợp kiểm tra độ khó và độ nhanh, tăng cường cho học sinh tự
đánh giá. Bản thân đã thiết kế đề kiểm tra kết hợp độ khó và độ nhanh, tức là tăng
số lượng bài tập trong mỗi lần kiểm tra, kết quả đánh giá không theo thang điểm 10
mà là giáo viên ghi nhận trong cùng một khoảng thời gian đó, học sinh làm đúng
được bao nhiêu bài. Cách làm này khuyến khích học sinh phát huy hết khả năng
của mình đồng thời có thể tự đánh giá khả năng của mình so với các bạn.
Ví dụ: Ở bài 3C: Nhân hậu – Đoàn kết (Tiết 2), hoạt động thực hành 3 yêu

cầu học sinh viết một bức thư gửi một bạn ở trường khác để hỏi thăm và kể cho bạn
nghe tình hình lớp và trường em hiện nay. Khi quan sát các nhóm làm việc, tơi thấy
có học sinh rất lúng túng, sau 15 phút nhưng em chưa viết được một câu nào. Điều
ngạc nhiên là em đó khơng phải đối tượng học sinh chậm tiến. Sau khi tìm hiểu
ngun nhân tơi mới biết em đó khơng có bạn bè ở trường khác để viết thư thăm
hỏi. Vấn đề đặt ra là cần dựa vào độ khó dễ của yêu cầu mà giao cho từng đối
tượng học sinh. Phải nắm rõ yêu cầu, nắm rõ từng đối tượng học sinh để hướng dẫn
cho các em. Tôi đã giải quyết tình huống bằng cách gợi ý cho em biết được em nên
tưởng tượng ra mình có một người bạn ở trường khác để viết thư.
Trong kiểm tra, để đánh giá học sinh theo đối tượng, tơi đã thực hiện có hiệu
quả ngay từ khâu ra đề (ma trận, đề kiểm tra). Các đề kiểm tra đã đánh giá được
thực chất năng lực học của học sinh để từ đó, tơi tiếp tục bồi dưỡng, phụ đạo thêm
cho các em những gì mà các em cần.
Trong ra đề tơi đã chú trọng đến 4 mức độ theo thông tư 22/ BGD & ĐT:
Mức 1: Học sinh nhận biết sau đó nhắc lại được kiến thức, kĩ năng đã học.
Mức 2: Học sinh hiểu kiến thức, kĩ năng đã học, trình bày, giải thích được
kiến thức theo cách hiểu của cá nhân.
Mức 3: Học sinh biết vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết những
vấn đề quen thuộc, tương tự trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Mức 4: Học sinh vận dụng các kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết vấn
đề mới hoặc đưa ra những phản hồi hợp lí trong học tập, cuộc sống một cách linh
hoạt. (Vận dụng nâng cao)
2.2.6. Linh hoạt trong tổ chức hoạt động nhóm khi dạy học phân hóa.
Tùy theo mục tiêu dạy học, việc chia nhóm có thể theo nhiều cách: Nhóm
đơi, nhóm ngẫu nhiên, nhóm hỡn hợp và nhóm phân theo trình độ. Trong dạy học
phân hóa, nhóm hỗn hợp được sử dụng khi nhiệm vụ của các nhóm là như nhau,
với mục đích là học sinh năng khiếu sẽ giúp đỡ học sinh chậm tiến. Nhóm theo
trình độ được sử dụng khi mức độ yêu cầu của nhiệm vụ từng nhóm khác nhau, như
11



ví dụ nêu ở trên hoặc trong thực hành giải bài tập để mỡi nhóm được u cầu làm
những bài tập với độ khó khác nhau.
Giáo viên có thể định ra yêu cầu khác nhau về mức độ hoạt động độc lập của
học sinh, hướng dẫn nhiều hơn cho đối tượng chậm tiến, ít hoặc khơng gợi ý cho
học sinh năng khiếu.
Bên cạnh đó, giáo viên cần quan tâm cá biệt: Động viên học sinh nào đó có
phần thiếu tự tin, lưu ý học sinh này hay nhầm dấu, nhắc nhở học sinh kia đừng chủ
quan, hấp tấp, cách trình bày bài,... Với cách làm này, người học được cuốn hút
tham gia vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thơng qua đó
các em tự lực khám phá, tìm tịi kiến thức khơng thụ động trông chờ vào việc
truyền thụ của giáo viên. Người học được hoạt động, được trực tiếp quan sát, thảo
luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề, vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống
theo khả năng nhận thức, khả năng sáng tạo của mỡi cá nhân.
Ví dụ: Đối với phân mơn Tập đọc. Khi các nhóm đều làm chung một hoạt
động là đọc và giải nghĩa các từ cho sẵn trong tài liệu hướng dẫn học thì nhóm hoặc
cá nhân trong nhóm có nhịp độ làm việc nhanh, hồn thành tốt u cầu của hoạt
động đó thì tơi cho các em tìm thêm từ khó khác trong bài để giải nghĩa cho nhau
nghe hoặc tự chọn và đặt câu có hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa với một trong các
từ đó. Với học sinh chậm tiến, tơi cho các em nắm thật chắc kiến thức cơ bản trong
tài liệu hướng dẫn học, làm đầy đủ và đạt yêu cầu các hoạt động với sự gợi ý ở mức
độ hạn chế của giáo viên. Tôi thường xuyên theo dõi, nếu có dấu hiệu bất thường
thì điều chỉnh lại nhân sự trong nhóm khi có hiện tượng tiến bộ hay thụt lùi.
2.2.7. Vai trò của giáo viên trong tiết dạy phân hóa đối tượng học sinh
Nghiên cứu kĩ bài học, hiểu rõ quá trình hình thành kiến thức để tổ chức lớp
học. Dự đốn được các tình huống khó khăn mà học sinh dễ mắc phải trong quá
trình học tập và từ đó có những giải pháp hợp lí nhằm hỗ trợ học sinh kịp thời, dự
kiến ra thêm bài tập bổ sung.
Giáo viên là người tổ chức lớp học; quan sát hoạt động của mỗi cá nhân, của
mỗi nhóm; hỡ trợ học sinh khi cần thiết; chốt lại những điều cơ bản nhất của bài

học; đánh giá quá trình và kết quả học của học sinh.
Giáo viên nói ít, hướng dẫn nhiều; theo dõi, hướng dẫn hoạt động của mỗi
học sinh trong học tập. Trước khi đến các nhóm giáo viên phải quan sát (quan sát
có mục đích), theo dõi, thấy được khó khăn phải trao đổi, kiểm tra kết quả thực
hiện nhiệm vụ của học sinh, nhóm học sinh theo tiến trình dạy học. Vì thế giáo viên
phải di chuyển từ nhóm này sang nhóm khác khi cần thiết nhằm hỡ trợ kịp thời khi
các em có yêu cầu, đặt thêm câu hỏi cho các nhóm để học sâu hoặc giao thêm
việc... Bên cạnh đó, giáo viên đưa ra những đánh giá công tâm giúp học sinh tiến
12


bộ trong mọi hoạt động. Đồng thời phải đánh giá hiệu quả đạt được sau mỡi tiết dạy
để có biện pháp cụ thể khắc phục những tồn tại ở tiết học sau.
Trong các hoạt động, tuyệt đối giáo viên không lạm dụng vai trò của Chủ tịch
Hội đồng tự quản lớp hoặc các nhóm trưởng để “bớt việc” cho mình.
Khi đa số các nhóm giơ thẻ cứu trợ, giáo viên cho học sinh trao đổi chung
trước lớp, có thể bằng các cách: bằng những câu hỏi, giáo viên gợi mở, dẫn dắt để
học sinh giải quyết được nhiệm vụ của bài học; gọi học sinh đã giải quyết được
nhiệm vụ của bài học hướng dẫn các bạn trong lớp.
Mặt khác, lời nói của giáo viên trong dạy học hoặc giao tiếp với học sinh rất
có ý nghĩa vì đặc điểm tâm lí cơ bản của lứa tuổi này là vơ tư và hồn nhiên, các em
đặt rất nhiều niềm tin vào giáo viên. Do vậy, giáo viên cần có kĩ thuật nói rõ ràng,
tốc độ vừa phải, dễ nghe, thân thiện nhưng nghiêm túc và ln khuyến khích.
Khơng nên gay gắt hay nặng lời với những học sinh chậm tiến. Với mỡi trường
hợp, cần tìm hiểu ngun nhân để có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ phù hợp.
2.3. HIỆU QUẢ
Với những phương pháp dạy học phân hóa trên, tơi đã vận dụng ngày càng
nhuần nhuyễn, chủ động hơn trong công tác giảng dạy của mình. Nhờ vào kinh
nghiệm qua giảng dạy những lớp trước, tơi dự tính được các khó khăn mà học sinh
có thể, thường mắc phải. Từ đó, ngày càng bổ sung hơn các khiếm khuyết trong

quá trình dạy học và thu được kết quả kiểm tra chất lượng cuối năm học 2017 2018 như sau:
Số
Lớp học sinh
đánh giá
4B

25

Hoàn thành tốt
Số lượng
11

Hoàn thành

Tỉ lệ % Số lượng
44

14

Chưa hoàn thành

Tỉ lệ %

Số lượng

Tỉ lệ %

56

0


100

Nhờ vào việc dạy học phân hóa mà trong các hội thi cấp trường, cấp huyện
học sinh lớp tôi tham gia thi và đạt giải cao. Cụ thể:
Cấp Trường:
Giao lưu Ngày hội học sinh Tiểu học: 03 giải chữ viết đẹp (01 giải Nhất; 02
giải Nhì).
Kể chuyện về Bác Hồ: 01 giải nhất.
Em yêu Tiếng Việt: (Hình thức Rung chng vàng): 1 giải Nhì; Tập thể xếp
thứ nhất trong khối 4.
Cấp Huyện: Có 01 em đạt bảng Nhản; 01 em đạt giải Ba Viết chữ đẹp (Trong
giao lưu học sinh Tiểu học).
13


Với các biện pháp trên tôi đã áp dụng vào việc dạy và thể hiện trong một số
tiết thao giảng, được các đồng nghiệp có kinh nghiệm đồng tình nhất trí cao.
Giáo viên chủ động, vận dụng linh hoạt các hình thức. Giờ học sơi nổi, học
sinh học tập tích cực tiếp thu kiến thức, nhiều học sinh thuộc đối tượng chậm tiến,
cần cố gắng đã có hứng thú hơn với mơn học, phát huy được tính sáng tạo và năng
lực của các em.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến:
Qua quá trình thực hiện tại đơn vị, bản thân tơi nhận thấy rằng: Phân hố đối
tượng trong dạy học Tiếng Việt 4 là con đường nâng cao chất lượng của q trình
dạy học mơn Tiếng Việt, nó mang lại hiệu quả to lớn trong giảng dạy một môn học.
Tuy nhiên để thực hiện nó khơng hề dễ dàng một chút nào. Việc làm này đòi hỏi
giáo viên phải mất cơng, mất sức nhiều hơn và phải có tâm huyết. Nhà trường phải
tỏ rõ quan điểm, phải bằng mọi cách lấp đầy những lỗ hổng kiến thức cho học sinh.

Những bài học ý nghĩa của phạm vi sáng kiến là:
1. Ưu tiên cho phân loại học sinh, xếp theo từng nhóm: nhóm kiến thức tương
đối hồn chỉnh, nhóm hổng kiến thức nhiều và các năng lực môn Tiếng Việt. Phân
loại đối tượng học sinh trong lớp để có biện pháp giúp đỡ, động viên sự cố gắng
của các đối tượng.
2. Đầu tư về lập kế hoạch dạy học; bổ sung các kiến thức còn thiếu hụt của
học sinh. Xác định rõ mục tiêu của tiết dạy để chuẩn bị bài dạy một cách chu đáo
và đầy đủ các phương tiện dạy học phục vụ cho bài dạy. Ở mỗi bài dạy, giáo viên
phải xác định được: Bài dạy cần những gì? Dạy như thế nào? Để tiết dạy thật nhẹ
nhàng, tự nhiên và hiệu quả từ đó lựa chọn phương pháp và cách tổ chức các trò
chơi phù hợp với nội dung bài học, tâm sinh lý lứa tuổi học sinh.
3. Cần đặt hiệu quả giáo dục thực chất lên hàng đầu, có như thế các giáo viên
của trường mới không nề hà trong việc bỏ thêm thời gian để phụ đạo học sinh.
Nhưng khơng vì thế mà người giáo viên được phép bỏ quên đối tượng học sinh
năng khiếu, những em đã nắm chắc kiến thức và sẵn sàng đón nhận những kiến
thức cao hơn.
4. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học từ
“dạy số đông”, áp đặt, nặng lý thuyết sang “dạy phân hóa” gợi mở, hợp tác trong
dạy và học, giảm lý thuyết, tăng thực hành.
5. Giáo viên phải tự trau dồi, tích lũy cho mình vốn kiến thức về Tiếng Việt.
Phải thực sự đổi mới quan điểm sư phạm, quan niệm về quan hệ thầy trò, về trách
nhiệm của giáo viên trong quá trình giáo dục.

14


6. Trách nhiệm của giáo viên là quyết định cho kết quả quá trình dạy học, giáo
viên phải đánh giá được từng học sinh về sở trường, sở đoản để có biện pháp giáo
dục phù hợp trong từng giờ dạy.
7. Coi trọng nguyên tắc dạy học vừa sức nhằm phát huy tiềm lực và năng

khiếu Tiếng Việt ở mỗi học sinh. Đẩy mạnh đánh giá kết quả học tập của học sinh
một cách khéo léo nhằm khích lệ học sinh học tập tiến bộ.
Tóm lại: Trong điều kiện lớp học thông thường học sinh không thể thỏa sức
phát triển tài năng. Sự phân hoá dạy học đặc biệt cần thiết để làm bộc lộ và phát
triển đầy đủ tư chất và năng lực của các em. Vì vậy việc vận dụng vào công tác dạy
học tuỳ thuộc rất lớn vào năng lực sư phạm và khả năng sáng tạo của mỗi giáo
viên.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
Đối với tổ chuyên môn: Tích cự dự giờ, tư vấn, hỡ trợ cho giáo viên và quan
tâm hơn nữa việc dạy học theo năng lực học sinh, dạy học theo tiến độ góp phần
đổi mới phương pháp dạy học.
Đối với nhà trường: Tăng cường tổ chức chuyên đề dạy học phân hóa đối
tượng học sinh trong mơn Tiếng Việt 4 nói riêng và các mơn học khác nói chung
theo mơ hình trường học mới để giáo viên được học hỏi một cách cụ thể, sát thực,
nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ, hiệu quả trong quá trình dạy học.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng trong các năm giảng dạy, tuy
nhiên trong q trình lên lớp cịn nhiều điều cần phải sữa chữa, bổ sung, tơi kính
mong sự góp ý chân thành của các thầy giáo, cơ giáo và tất cả các bạn đồng nghiệp
để bản Sáng kiến kinh nghiệm của tơi được vận dụng ngày càng có hiệu quả hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRÊN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

15




×