Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học tập làm văn lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313 KB, 18 trang )

PHÒNG GDĐT CHÂU PHÚ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG TH A ĐÀO HỮU CẢNH

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Xã Đào Hữu Cảnh, ngày 24 tháng 11 năm 2018

BÁO CÁO
Kết quả thực hiện sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao
chất lượng dạy học Tập làm văn lớp 4.

I. Sơ lược lý lịch tác giả:
- Họ và tên : Trần Thị Thúy Vân

Nam, nữ: Nữ

- Ngày tháng năm sinh : 20 / 7 / 1977
- Nơi thường trú : Hưng Thới xã Đào Hữu Cảnh huyện Châu Phú tỉnh An
Giang
- Đơn vị công tác : Trường TH A Đào Hữu Cảnh
- Chức vụ hiện nay : Giáo viên
- Trình độ chun mơn : Đại học
- Lĩnh vực công tác : Giáo dục tiểu học
II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:
1. Thuận lợi :
- BGH nhà trường đã quan tâm nhiều đến việc nâng cao chất lượng giảng
dạy. Vì vậy, đã chỉ đạo tốt việc lên kế hoạch, soạn giảng dạy học bồi dưỡng HS
hoàn thành tốt, phụ đạo học sinh chưa hoàn thành.


- Bên cạnh đó, nhà trường đã tạo điều kiện cho tất cả học sinh có đầy đủ
sách vở đồ dùng học tập, nhờ đó mà GV có điều kiện củng cố kiến thức cho học
sinh.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tương đối đầy đủ nên học sinh có
điều kiện tốt cho việc học tập .
2. Khó khăn:
- Năng lực, trình độ chun mơn của giáo viên chưa đồng đều nên có phần
ảnh hưởng đến việc giảng dạy.
1
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh


- Đồ dùng học tập của học sinh sử dụng đã lâu, hư hỏng, mất mát nhiều, bổ
sung chưa kịp thời.
- Một số phụ huynh học sinh đi làm ăn xa (ở Bình Dương) gởi con em ở
nhờ nhà người thân nên việc trao đổi việc học của các em còn hạn chế.
- Việc học tập của học sinh phần lớn các bậc phụ huynh giao phó cho giáo
viên chủ nhiệm, chất lượng học tập của các em không đồng đều thậm chí cịn có
một số em chưa đạt chuẩn kiến thức ở trường, ở từng cấp lớp, còn nhiều em tỏ ra
không ham học.
- Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tập
làm văn lớp 4 .
- Lĩnh vực: Giáo dục tiểu học.
III. Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến:
Dạy học tiếng Việt trong trường Tiểu học nói chung và dạy phân mơn Tập
làm văn nói riêng là một vấn đề vơ cùng quan trọng. Nhất là Tập làm văn là môn
tổng hợp cao nhất của tất cả các phân môn Tiếng Việt khác ở bậc Tiểu học: Tập
đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Mục tiêu của cả người dạy và người
học là “ có cảm xúc” trong mỗi tiết học văn. Người giáo viên giúp cho các em
cảm nhận được cái hay cái đẹp trong các bài văn, bài thơ, cuộc sống xung quanh

và thể hiện “cái đẹp” đó bằng ngơn ngữ giàu hình ảnh. Song một thực tế mà
chúng ta đều biết là hiện nay, trong các cấp học mà đặc biệt là bậc Tiểu học,
phần lớn học sinh viết văn rất khô khan.
Qua thực tế dạy môn Tập làm văn nhiều năm ở lớp 4, tôi nhận thấy bài viết
của các em hầu như chỉ diễn đạt nội dung. Câu văn chỉ mang tính chất thơng báo
chứ chưa có hình ảnh, chưa có cảm xúc. Đây là điều tất nhiên, vì ở lứa tuổi này
vốn sống và vốn kiến thức của các em còn hạn hẹp. Đứng trước thực tế đó, tơi
rất băn khoăn và trăn trở: “ Làm thế nào để giúp các em yêu thích mơn văn? Để
giúp các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, của cảnh vật, thiên
nhiên đất nước? Giúp các em có cơ hội bộc lộ cảm xúc của cá nhân, mở rộng
tâm hồn và phát triển nhân cách cho các em?”.
Trả lời câu hỏi này, ngay từ đầu năm học nhận nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 4A
Trường Tiểu học A Đào Hữu Cảnh. Tôi đã cố gắng dùng mọi khả năng và kinh
nghiệm của mình để khơi dậy những tiềm năng văn học đang ẩn dấu trong mỗi
học sinh. Trong khuôn khổ bài viết này, tơi mạnh dạn trình bày một vài kinh
nghiệm “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tập làm văn lớp 4 “
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến:
Khi bắt đầu tìm hiểu việc học tập Tập làm văn của học sinh, tôi thấy đa số
học sinh rất thụ động, ít phát biểu, khi cần hỏi điều gì các em chậm đứng lên, dẫn
đến việc thực hành làm văn chưa đạt yêu cầu, trình bày bài văn thì chưa rõ bố
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh

2


cục, câu văn thiếu mạch lạc, viết thiếu ý, diễn đạt ý chưa phù hợp, bài văn khơng
có tính sáng tạo, lệ thuộc rất nhiều vào bài văn mẫu. Bên cạnh đó, cịn tồn tại các
em có hồn cảnh gia đình khó khăn, ít quan tâm đến việc học tập của con em
mình đã gây ảnh hưởng khơng nhỏ đến kết quả học tập của các em. Trong khi đó
thì giáo viên chỉ dành ít thời gian để sửa chữa những sai sót cho các em học sinh

chưa hồn thành vì sợ mất thời gian chung cho cả lớp.
Qua khảo sát chất lượng làm văn của học sinh lớp tôi đầu năm học 20162017 tôi đã thu được kết quả như sau với tổng số học sinh của lớp là 31 học sinh:
Kết quả khảo sát đầu năm học 2016-2017
Tổng số HS

31

Hồn thành
tốt bài văn

Hồn thành

SL

TL

SL

TL

SL

TL

3

9,68%

20


64,51%

8

25,81%

bài văn

Chưa hồn
thành bài văn

Tơi thấy học sinh học tập còn thụ động , bố cục bài văn lủng cũng, ý tứ, câu cú
chưa rõ ràng. Kỹ năng thực hành nói, viết cịn nhiều hạn chế các em chưa biết
nhận xét lẫn nhau do vậy khi tiến hành khảo sát kết quả đạt được là không khả
quan .
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến:
Trong quá trình giảng dạy và tìm hiểu tình hình thực tế ở lớp, bản thân tơi
có nhiều trăn trở. Là người nhà giáo đang đứng trên bục giảng và đồng thời là
một người u văn, thích tìm hiểu về bộ môn văn, tôi không khỏi băn khoăn và
lo lắng trước thực trạng học sinh ngày càng yếu môn tiếng việt nhất là bộ môn
tập làm văn.
Bản thân tôi hằng ngày được tiếp xúc trong môi trường giáo dục, trực tiếp
giảng dạy các em do vậy hơn ai hết tôi là người nắm bắt, nhìn thấy thực trạng
học tập của học sinh. Qua việc khảo sát, chấm bài học sinh tơi nhận thấy học
sinh làm bài cịn q yếu, ngơn từ nghèo nàn, ý thức học tập cũng như chất
lượng của bài làm là chưa cao. Các em vẫn chưa hình dung rõ cách thức viết một
bài văn như thế nào. Bên cạnh đó vốn sống, kinh nghiệm thực tế của các em cịn
q ít ỏi. Nội dung chương trình, cấu tạo của sách giáo khoa thiếu tính khoa học,
chưa phù hợp với những đối tượng học sinh ở những vùng có hồn cảnh khó
khăn như trường Tiểu học A Đào Hữu Cảnh .

Xuất phát từ yêu cầu thực tế, nhằm khắc phục những tình trạng đã nêu ở
trên. Tơi nghiên cứu qua đó tìm ra những phương hướng giải quyết nhằm nâng
cao hiệu quả, kích thích hứng thú học tập của học sinh đối với bộ môn Tập làm
văn. Giúp các em nắm rõ được kết cấu, cách thức làm một bài văn hoàn chỉnh …
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh

3


Hình thành ở các em kỹ năng quan sát, phân tích, đưa ra nhận xét, chính kiến của
bản thân.
3. Nội dung sáng kiến:
3.1.Tiến trình thực hiện, thời gian thực hiện
Thơng qua các tiết chuyên đề tổ, trường; dự giờ đồng chí đồng nghiệp và
kinh nghiệm giảng dạy của bản thân trong nhiều năm công tác.
Trên cơ sở nghiên cứu “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học
Tập làm văn lớp 4 “, đề tài bắt đầu thực hiện từ đầu từ tháng 9 năm học 2016
đến hết tháng 5 năm 2017. Trên lớp 4A và học sinh khối lớp 4 trong các năm học
năm 2016 – 2017 của trường Tiểu học A Đào Hữu Cảnh .
3.2. Nội dung chương trình, u cầu kiến thức, kỹ năng của phân
mơn Tập làm văn lớp 4:
a) Nội dung chương trình phân mơn Tập làm văn lớp 4.
Chương trình TLV lớp 4 được thiết kế tổng cộng 62 tiết / năm. Cụ thể như sau:
* Kể chuyện : gồm có 19 tiết được dạy trong học kỳ I.
* Văn miêu tả : gồm có 30 tiết đợc phân bố như sau:
- Khái niệm văn miêu tả 1 tiết.
+ Miêu tả đồ vật 10 tiết.
+ Miêu tả cây cối 11 tiết.
+ Miêu tả con vật 8 tiết.
* Các loại văn bản khác :

+ Viết thư : 3 tiết.
+ Trao đổi ý kiến : 2 tiết.
+ Giới thiệu hoạt động : 2 tiết.
+ Tóm tắt tin tức : 3 tiết.
+ Điền vào giấy tờ in sẵn : 3 tiết.
Như vậy chuơng trình Tập làm văn lớp 4 được chú trọng vào hai thể loại
chính đó là: kể chuyện (19 tiết) và miêu tả (30 tiết). Điều này khẳng định lượng
kiến thức trọng tâm của Tập làm văn lớp 4 là văn kể chuyện và văn miêu tả.
b) Yêu cầu kiến thức, kỹ năng phân môn Tập làm văn lớp 4.
1 Yêu cầu kiến thức:
+ Thể loại văn kể chuyện.
- Học sinh phải hiểu như thế nào là kể chuyện?
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh

4


- Hiểu được nhân vật trong truyện. Kể lại hành động của nhân vật. Tả ngoại
hình của nhân vật trong bài văn kể chuyện. Kể lại lời nói, ý nghĩ của nhân vật.
- Bên cạnh đó học sinh phải hiểu cốt truyện .
- Biết xây dựng đoạn văn, biết mở bài và biết kết bài trong bài văn kể chuyện.
Từ đó, học sinh biết viết và nói một bài văn kể chuyện hoàn chỉnh.
+ Thể loại văn miêu tả.
- Học sinh phải hiểu như thế nào là miêu tả?
- Miêu tả đồ vật : Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả đồ vật.
- Miêu tả cây cối : Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả cây cối.
- Miêu tả con vật : Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả con vật.
+ Các loại văn bản khác.
- Viết thư : Nắm được mục đích của việc viết thư, nội dung cơ bản, cách xưng hơ
và cách trình bày một bức thư.

- Trao đổi ý kiến với người thân: Xác định được mục đích trao đổi, vai trong trao
đổi, lập được dàn ý của bài trao đổi và biết đóng vai trao đổi tự nhiên, tự tin, cử
chỉ thích hợp, lời lẽ có sức thuyết phục để đạt mục đích đề ra.
- Giới thiệu hoạt động địa phương : Biết cách giới thiệu tập quán, trò chơi, lễ
hội, truyền thống của địa phương, quan sát và trình bày đuợc những đổi mới của
quê hương, có ý thức đối với việc xây dựng quê hương.
- Tóm tắt tin tức và điền vào giấy tờ in sẵn ( phiếu khai báo tạm trú, tạm vắng,
thư chuyển tiền, điện chuyển tiền…) : Biết cách tóm tắt tin tức, tự tìm tin, biết
điền nội dung cần thiết vào giấy tờ in sẵn. Qua đó học sinh biết ứng dụng trong
cuộc sống hàng ngày.
c) Yêu cầu kỹ năng:
1. Yêu cầu đối với hoc sinh
• Kỹ năng định hướng hoạt động trong giao tiếp:
+ Nhận diện loại văn bản.
+ Phân tích đề.
• Kỹ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp:
+ Xác định dàn ý bài văn đã cho.
+ Tìm ý và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn kể chuyện.
+ Quan sát đối tượng, tìm và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn kể chuyện.
+ Quan sát đối tượng, tìm và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu tả.
5
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh


• Kỹ năng hiện thực hoá hoạt động giao tiếp:
+ Xây dựng đoạn văn.
+ Liên kết các đoạn văn thành bài văn
• Kỹ năng kiểm tra, đánh giá hoạt động giao tiếp.
+ Đối chiếu văn bản nói, viết của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu
cầu diễn đạt.

+ Sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt.
2. Yêu cầu đối với giáo viên.
- Giáo viên phải nắm được quan điểm đổi mới phương pháp dạy học phân mơn
Tập làm văn theo Chương trình và sách giáo khoa mới.
- Xác định được các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy Tập làm văn.
- Phải thiết kế được một kế hoạch bài học thể hiện sự đổi mới của phương
pháp dạy học phân mơn Tập làm văn.
Đó là tồn bộ u cầu kiến thức, kỹ năng trọng tâm mà học sinh cần đạt
được và những yêu cầu đối với giáo viên lớp 4 cần nắm vững để áp dụng khi dạy
phân môn Tập làm văn.
Để nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4 địi hỏi người giáo viên
phải kiên trì và bền bỉ vì đây là cơng việc rất khó khăn. Xuất phát từ vấn đề đó,
tơi đã tiến hành một số biện pháp như sau:
3.3. Biện pháp thực hiện
3.3.1. Đối với loại bài viết thư:
Trong chương trình làm văn lớp 3 và 4, các em được học kiểu bài viết thư:
Nhiều bạn cho rằng: học viết thư bây giờ là "cổ" q, cần thơng tin gì thì "chat"
qua thư điện tử hoặc điện thoại hỏi thăm. Nhưng viết thư cũng là một nét văn
hóa đẹp mà các em cần biết và cũng cần có thói quen viết thư. Rất nhiều bức thư
đã đi vào lịch sử như: Bức thư của Bác Hồ gửi học sinh nhân ngày khai trường.
Viết thư khơng hề khó, khơng quan trọng ở vấn đề viết dài hay ngắn mà cần thiết
là bày tỏ được tình cảm chân thành của mình với người nhận thư.
Cần phân biệt rằng, một bức thư của học sinh tiểu học không như một bức
thư của người lớn, nghĩa là học sinh tiểu học viết thư ở mức độ đơn giản, đầy đủ
yêu cầu cơ bản của một bức thư. Ở nội dung bài dạy này, giáo viên cần hình
thành chắc cho học sinh mục đích viết thư và viết thư cho ai ?. Giáo viên giải
thích cho học sinh hiểu rõ, có thể viết thư cho bạn bè, cho người thân để thăm
hỏi, động viên, chúc mừng, chia sẻ, thơng báo tình hình học tập, bày tỏ ước mơ
… Để học sinh viết thư đúng theo yêu cầu, tôi đã tiến hành một số cách sau đây:

Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh

6


- Chuẩn bị bài viết thư mẫu các loại của năm học trước đã thu thập được để
đọc mẫu cho học sinh tham khảo.
- Nhận xét bài viết mẫu về việc sử dụng các từ ngữ, diễn đạt nội dung, cách
trình bày một bức thư.
- Giáo viên hướng dẫn, gợi ý cho học sinh có thêm vốn từ phong phú, đa dạng
để kết hợp vào việc viết thư.
- Cho học sinh trao đổi, thảo luận nhóm, thơng tin cho nhau những sự việc có
liên quan đến viết thư.
- Giáo viên có thể dùng bảng phụ trình bày một bức thư mẫu, đủ để học sinh
cả lớp quan sát học tập.
VD: Khi dạy tiết Viết thư ( kiểm tra viết ) trang 52 SGK TV1 tôi cho các em làm
đề sau : Em hãy viết cho người thân ( ông bà, cô giáo cũ, bạn ... ) để thăm hỏi và
kể lại tình tình học tập của em.
Đối với thể loại bài này cũng hấp dẫn với học sinh của lớp tơi vì hầu như
các em phần đơng sống với ơng bà, cha mẹ đi làm cơng nhân ở Bình Dương mỗi
năm chỉ về có dịp tết. Nên các em trong lớp chọn viết thư để gởi cha mẹ rất
nhiều . Sau khi các em viết một bức thư hoàn chỉnh tôi hướng dẫn các em dùng
tờ giấy A4 xếp thành bao thư và cách ghi nơi đi, nơi đến cho các em để lá thư
vào. Giáo viên thu về nhận xét từ đó các em sửa chữa lại thành một bức thư hồn
chỉnh để gửi cho cha mẹ mình. Qua những bài viết của các em tôi thấy được
những lời bày tỏ cảm xúc tình cảm chân thật lứa tuổi nhỏ rất cảm động mà không
thể nào diễn tả hết khi nói chuyện qua điện thoại.
3.3.2. Đối với loại bài kể chuyện:
Hơn bất kì loại hình thức nào khác, kể chuyện bồi dưỡng đời sống tâm hồn
và đem lại niềm vui cho trẻ, đồng thời trau dồi vốn sống, vốn văn học, phát triển

ngôn ngữ của bản thân để các em kể lại truyện.
Ở tiết văn kể chuyện, giáo viên và học sinh được giao hồ tình cảm một
cách hồn nhiên, được sống trong giây phút hồi hộp và xúc cảm.
Nếu người giáo viên dạy tốt tiết văn kể chuyện chính là động lực mang lại
hiệu qủa cho các tiết học khác và các môn học khác. Đồng thời cũng là điều kiện
tốt cho sự phát triển năng khiếu ở nhiều học sinh, tạo điều kiện ươm mầm cho
những nhân tài mai sau.
-Một bài văn kể chuyện bao giờ cũng gồm ba phần :
Mở bài: Có hai cách mở bài. Đó là mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp
.Mở bài trực tiếp tức là kể ngay vào sự việc mở đầu câu chuyện, mở bài gián tiếp
tức là nói chuyện khác để dẫn vào câu chuyện định kể.
7
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh


Thân bài: Đây chính là cốt truyện mà khi viết yêu cầu học sinh phải nhớ
lại được những sự việc chính của câu chuyện và phải biết kể lại theo trình tự hợp
lí.
Kết bài: Có hai cách kết bài là kết bài mở rộng và kết bài không mở rộng.
Kết bài mở rộng là các em phải nêu đựơc ý nghĩa hoặc đưa ra lời bình luận về
câu chuyện. Kết bài không mở rộng tức là học sinh chỉ cho biết kết cục của câu
chuyện mà khơng bình luận gì thêm.
Để học sinh thực hiện tốt được kỹ năng kể chuyện ở lớp 4, giáo viên tạo
điều kiện cho học sinh tiếp xúc trực tiếp với đối tượng kể. Yêu cầu học sinh về
nhà tìm các câu chuyện khác sách giáo khoa để kể hay nhớ lại câu chuyện do
chính học sinh tham gia tìm ra. Giáo viên cần phát huy có hiệu quả đồ dùng dạy
học (tranh ảnh, mơ hình, vật thật …) để học sinh tri giác, từ đó kể được dễ dàng,
chính xác, nhớ lâu câu chuyện đã kể.
Chẳng hạn: Kể chuyện bài: “Ba lưỡi rìu”.
- Giáo viên chuẩn bị 06 tranh minh họa đẹp, tương ứng 06 sự việc của

truyện.

- Yêu cầu học sinh xác định các nhân vật ở từng đoạn văn:
+ Đoạn văn thứ nhất chỉ có một nhân vật là chàng tiều phu.
+ Các đoạn cịn lại đều có hai nhân vật là chàng tiều phu và ông cụ già.
- Cần chú ý vừa kể, vừa tả nhằm góp phần thêm cho bài kể chuyện sinh
động, và hấp dẫn hơn.
- Kết hợp phương pháp thảo luận nhóm trong kể chuyện, tạo khơng khí
hợp tác học tập. Đồng thời, tạo cơ hội cho các em học yếu tham gia hoạt động kể
chuyện.
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh

8


3.3.3. Đối với loại bài miêu tả:
Học sinh phải hiểu như thế nào là miêu tả? Miêu tả là vẽ bằng lời nói nhằm
giúp người đọc, người nghe hình dung những đặc điểm, tính chất nổi bật của sự
vật, sự việc, con người, phong cảnh,…làm cho những cái đó như hiện lên trước
mắt người đọc, người nghe.
Để giúp học sinh tự tin hoàn thành một bài văn miêu tả, giáo viên cần lưu ý:
- Cần nắm được cấu tạo của bài văn miêu tả.
- Vận dụng tối đa kĩ năng quan sát khi miêu tả.
- Cần phát huy trí tưởng tượng (so sánh, nhân hóa) khi miêu tả.
- Biết lựa chọn những chi tiết đặc trưng làm nổi rõ đặc thù riêng của từng
đối tượng.
- Biết biểu lộ sắc thái tình cảm đối với đồ vật, con vật mình yêu thích khi
miêu tả.
a) Cần nắm được cấu tạo của bài văn miêu tả.
Cấu tạo của bài văn miêu tả gồm 3 phần.

1. Mở bài: Tả hoặc giới thiệu bao quát về đồ vật, con vật, cây cối.
2. Thân bài: Tả từng bộ phận của đồ vật, con vật, cây cối (hoặc từng thời kì
phát triển của cây).
3. Kết bài: Nêu cảm nghĩ về đồ vật, con vật, cây cối cần tả.
b) Vận dụng tối đa kĩ năng quan sát khi miêu tả.
Đối với loại bài này, tơi dặn dị học sinh về nhà quan sát các đồ vật, con vật,
cây cối gần gũi mà các em thường thấy ở xung quanh. Vào lớp, tôi cho học sinh
thi đua cá nhân, nhóm tìm nhanh các đồ vật có thể tả. Sau đó gợi ý cho các em
cách lập dàn ý một đoạn, một bài hoàn chỉnh và yêu cầu mỗi em phải tự làm
việc, tự quan sát, tự ghi chép khi quan sát một đồ vật, một con vật và có nhiệm
vụ giúp các em hệ thống lại các ý đã quan sát để lập thành dàn bài chi tiết đạt
yêu cầu, có hệ thống.
Ví dụ 1: Dạy bài:"Quan sát đồ vật" (Tiếng Việt 4/I trang 153). Giáo viên sử dụng
phương pháp trực quan, phương pháp quan sát ở chỗ giáo viên cho học sinh quan
sát đồ chơi mà các em đem tới lớp kết hợp quan sát tranh một số đồ chơi như gấu
bông, con lật đật, con búp bê...
Học sinh đọc phần gợi ý sách giáo khoa (đọc cá nhân) trang 54, sau khi giáo
viên hướng dẫn học sinh phân tích mẫu. Giáo viên sử dụng phương pháp rèn
luyện theo mẫu, học sinh luyện tập theo mẫu đã gợi ý.
Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh:
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh

9


- Hãy quan sát một số đồ chơi em thích và ghi lại những điều quan sát được.
Học sinh vừa quan sát vừa ghi chép lại ý quan sát, sau đó sắp xếp ý để tạo
thành một dàn ý tả đồ chơi mà em thích.
- Giáo viên cho học sinh trình bày những ý đã ghi được sau khi quan sát
theo một dàn bài sẽ luyện thực hành giao tiếp cho học sinh.

Ví dụ về một dàn bài:
1. Mở bài: Giới thiệu đồ chơi mà em thích nhất là gấu bơng.
2. Thân bài:
- Hình dáng bên ngồi: Gấu bơng khơng to, gấu đang
ngồi, dáng trịn.
- Bộ lơng màu nâu mịn như nhung.
- Hai mắt đen nháy rất thông minh.
- Mũi nhỏ màu đen, trông ngộ nghĩnh.
- Trên cổ thắt chiếc nơ màu đỏ chói.
3. Kết luận : Em yêu quý gấu bơng
Ví dụ 2: Kiểu bài tả về đồ vật:“Tả chiếc cặp sách”. (Tiếng Việt 4/I trang
172).
- Ở phần thân bài, tơi thường phân nhóm 4 cho các em thảo luận theo dàn ý chi
tiết, các em nối tiếp, hỗ trợ nhau thực hiện:
+ Phần bao quát (01 em).
+ Phần chi tiết (02 em).
+ Hoạt động liên quan (01 em).
-Yêu cầu thảo luận phần thân bài sau đây:
+ HS1: Tả bao quát, kích thước, màu sắc, chất liệu của cặp ?
+ HS2: Tả bên ngoài cặp gồm: mặt cặp, nắp cặp, quai đeo, ổ khóa.
+ HS3: Tả bên trong cặp có mấy ngăn ? Mỗi ngăn đựng gì ?
+ HS4: Nêu ích lợi chiếc cặp ?
-Sau khi thảo luận xong một nhóm học sinh trình bày:
+ HS1: Cặp hình chữ nhật, làm bằng vải giả da. Dài hơn hai gang tay của
em, rộng khoảng một gang rưỡi. Cặp có nhiều màu rất đẹp.
+ HS2: Ở phía trên cặp có quai xách thật êm tay. Sau lưng là hai quai đeo.
Hai ổ khóa bằng sắt, mỗi khi đóng hoặc mở nghe “tách, tách” rất vui tai. Ngồi
mặt cặp có in hình chú chó đốm rất đẹp.
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh


10


+ HS3: Phía bên trong có ba ngăn. Ngăn lớn đựng sách, ngăn thứ hai đựng
bảng con, đồ dùng khác …, ngăn thứ ba nhỏ nhất đựng bút, thước, và các đồ
dùng như: áo đi mưa, chai nước, …
+ HS4: Chiếc cặp giúp em đựng sách vở không bị rơi rớt và khơng bị mưa
ướt.
Ví dụ 3: Kiểu bài tả về cây cối: “Tả cây có bóng mát”
- Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát cây các cây bóng mát có trên sân sân
trường ( cây bàng, cây phượng … ). Tôi cho học sinh mang giấy viết ra sân ghi
chép những gì quan sát được. Có phân cơng nhiệm vụ cụ thể của từng thành viên
trong nhóm khi quan sát .
- Thảo luận nhóm 4, nêu lên kết quả quan sát.
+ HS1: Tả bao quát cây: hình dáng, cao hay thấp, màu sắc.
+ HS2: Tả cụ thể: thân cây, lá cây, hoa quả, vỏ cây xù xì, rễ cây ngoằn
ngoèo nổi cả trên mặt đất.
+ HS3: Chim chóc, ong bướm bay vịng quanh.
+ HS4: Nêu ích lợi của cây phượng.
Ví dụ 4: Kiểu bài tả con vật.: (Tuần 29) Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật.
Lập dàn ý chi tiết tả một vật nuôi trong nhà (gà, chim, chó, lợn. trâu,). Dạy bài
này, giáo viên cũng dặn học sinh quan sát vật nuôi từ trước. Sau đây là một dàn ý
tả con gà trống
1. Mở bài : Giới thiệu con vật muốn tả : Một chú gà trống lai đã trưởng thành.
2. Thân bài : - Tả bao qt : tồn thân
được bao phủ lớp lơng vàng rực pha lẫn
những chiếc lơng đen óng ánh, nặng
3kg.
- Tả đặc điểm từng bộ phận :
+ Đầu : cổ cao được bao phủ lớp lông

mịn như nhung, mắt sáng, mào đỏ chót.
+ Chân : vừa to vừa cao, có lớp vảy
sừng vàng sậm, có hai cựa nhọn hoắt.
+ Đi : bộ lông đuôi dài, nhiều màu sắc, cong vút về phía sau.
- Tả đặc tính hoạt động :
+ Thói quen sinh hoạt : Buổi sáng thức dậy sớm, gáy vang.
+ Tính nết : chơi thân với gà mái.
11
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh


3. Kết bài : cảm nghĩ của em về vật ni đó : Như chiếc đồng hồ báo thức. Coi
như một thành viên trong gia đình.
c) Cần phát huy trí tưởng tượng (so sánh, nhân hóa) khi miêu tả.
- Bài văn sẽ rất “khô khan” nếu các em chỉ ghi thực lại những điều đã quan sát.
Thực ra, nếu biết liên tưởng so sánh với các sự vật khác, đôi khi biết nhân hóa
một số sự vật, hiện tượng sẽ giúp bài văn trở nên hấp dẫn, sinh động hơn.
- Học sinh chỉ cần so sánh những gì quan sát được với những vật gần gũi quanh
mình cũng đủ cho thấy sự tinh tế của các em đối với cuộc sống.
- Ví dụ: Chiếc cặp chỉ nhỉnh hơn tấm bảng con một chút … Cặp như là người
bạn thân hằng ngày cùng em đến trường.
- Ví dụ : Các em đã biết so sánh màu đỏ của chiếc mào gà với đốm lửa, độ mỏng
của hai cái tích gà so với chiếc lá, đôi mắt được so sánh với hai hòn bi ve thu
nhỏ.
- Khi dạy cho học sinh biết nhân hố sẽ cho thấy trí tưởng tượng của các em vơ
cùng phong phú.Ví dụ: Học sinh đã viết “… Tiếng gáy to, khoẻ đã giúp chú
khẳng định mình là thủ lĩnh của đám gà trong xóm này…”
d) Biết lựa chọn những chi tiết đặc trưng làm nổi rõ đặc thù riêng của từng
đối tượng .
- Khi tả hoạt động của con mèo, cần lưu ý hoạt động đặc trưng của mèo là bắt

chuột . Ví dụ : tả vể hoạt động bắt chuột của con mèo : “Bọn chuột chính là kẻ
thù số một của chú. Một hơm, em thấy chú mèo đang rình ở bồ thóc. Số là hằng
ngày bọn trộm chuột thường đến ăn vụng ở đây. Bỗng chú co mình lại, dặt dặt
cái đi lấy đà rồi “phốc” một cái, tên chuột ngu ngốc kia đã nằm gọn trong
móng vuốt .”
- Hay khi nói về thói quen của con chó “ Buổi chiều, em đang ngồi học bài, Misa
rón rén lại gần, dụi dụi vào tay em như muốn em vuốt ve bộ lông mượt mà của
chú…” và hoạt động giữ nhà của nó khi có người lạ đến nhà .
e) Giúp học sinh biết cách biểu lộ sắc thái tình cảm với đối tượng mình u
thích khi miêu tả.
- Biết u thương và chăm sóc những con vật gần gũi, có ích như chó, mèo. Biết
được những giá trị kinh tế do các con vật mang lại cho gia đình mình như bị,
lợn, gà, vịt,… Giáo viên phải gợi ý, dẫn dắt để học sinh biết dùng từ ngữ diễn đạt
được tình cảm của mình.
- Ví dụ: Khi tả về con lợn một học sinh đã viết như sau:
“… Vào những ngày nghỉ, em thường ra vườn hái cho chú một ít rau lang hay
rau muống, chú ta tỏ vẻ thích chí lắm, phẩy phẩy cái đi ngước nhìn như có ý
cảm ơn em…”
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh

12


Đối với các em học sinh chưa hồn thành, tơi cho các em trình bày phần mở
bài và kết luận. Thường thì học sinh chưa hồn thành tơi gọi trong lúc này là để
các em có thể trình bày ngắn gọn các ý khi sai sót, ngồi những nụ cười cởi mở
giáo viên chỉ nên nhẹ nhàng sửa sai và động viên cho các em này.
Đến tiết trả bài viết, tôi cho học sinh tự do phát biểu ý kiến sửa sai về câu,
từ, ý diễn đạt. Qua việc đọc bài hay, các em nêu lên được chỗ nào hay cần học
hỏi ở bạn, ý nào cịn thiếu sót được các bạn bổ sung và hoàn thiện ngay tại lớp.

Từ đó, các em sẽ có vốn từ để vận dụng vào bài viết phong phú hơn.
g) Hướng dẫn xây dựng mở bài, kết bài trong bài văn kể chuyện và miêu tả.
Để bài viết của các em đạt hiệu quả cao đòi hỏi cả người dạy và người học
hiểu được khái niệm, cấu tạo của từng phần trong bài văn kể chuyện hay miêu tả.
Trong đó, phần mở bài và kết bài là một trong những yếu tố quan trọng giúp học
sinh vào đề và kết thúc vấn đề một cách nhẹ nhàng, tạo ấn tượng cho người đọc.
a) Phần mở bài
- Mở bài là phần đầu tiên, là phần trước nhất đối với người đọc, gây cho người
đọc cảm giác, ấn tượng ban đầu về bài viết, tạo ra âm hưởng chung cho tồn bài.
- Phần này có một vai trị và tầm quan trọng khá đặc biệt vì một mở bài gọn
gàng, hấp dẫn sẽ tạo được hứng thú ở người đọc và thường báo hiệu một nội
dung tốt đúng như câu tục ngữ: “ Đầu xuôi đuôi lọt.”
+ Có hai cách mở bài : Trực tiếp và gián tiếp
- Mở bài trực tiếp : Giới thiệu thẳng với người đọc đồ vật, con vật,cây cối… sẽ
miêu tả. Cách mở bài này nhanh gọn, tự nhiên, giản dị, dễ tiếp nhận và thích hợp
với những bài viết ngắn. Nếu khơng khéo thì sẽ khơ khan, ít hấp dẫn.
- Mở bài gián tiếp : Không đi thẳng trực tiếp vào vấn đề mà gợi mở vào đề bằng
cách đưa ra: một âm thanh ; một câu nói ; một liên tưởng ; một so sánh ; một
đoạn đối thoại ; một mẫu chuyện ; một lí do đưa đến bài viết ; ….Ưu điểm: Nếu
viết khéo, mở bài sẽ rất sinh động, gợi cảm, hấp dẫn, gây hứng thú cho người
đọc. Hạn chế: Nếu viết không khéo, mở bài sẽ lan man, vòng vèo, làm phân tán
sự chú ý của người đọc.
Với hai cách mở bài này sau hướng dẫn giải thích cho các em hiểu tơi
thường đưa vào một ví dụ thực tế thế này: Khi muốn mượn tiền của người khác
đến nhà nói ngay và vấn đề : Chị có tiền làm ơn cho tơi mượn năm chục ngàn.
( trực tiếp) một người lại nói khác: Chị ơi ! Dạo này nhà em khổ quá chồng em
đang bị bệnh. Trong nhà lại hết gạo mấy con em đi học khơng có tiền. Chị làm
ơn cho em mượn năm chục ngàn ( gián tiếp). Học sinh hiểu ngay sự khác biệt
giữa hai cách này và các em làm được mở bài theo hai cách rất tốt.
b) Phần kết bài có hai loại : Mở rộng và khơng mở rộng

13
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh


- Kết bài là phần cuối cùng, là phần sau hết đến với người đọc, gây cho người
đọc cảm giác, ấn tượng cuối cùng về bài viết, tạo ra âm hưởng chung cho tồn
bài.
- Phần này có một vai trị và tầm quan trọng đặc biệt vì một kết bài gọn gàng,
nhẹ nhàng, đặc sắc sẽ lưu lại tình cảm tốt đẹp ở người đọc.
Ví dụ : Em hãy tả cái cặp của em. (kết bài theo hai kiểu )
Với đề bài như trên, thông qua các câu hỏi gợi mở, giáo viên hướng dẫn học
sinh phân tích đề xác định được các yếu tố cần nêu ở kết bài như sau:
- Không mở rộng : hiểu giá trị, lợi ích của cái cặp yêu quý cái giữ gìn, bảo quản
tốt.
- Mở rộng: Nêu một câu hỏi - Nêu một ý mới lạ - Đưa ra một lời bình - Đưa ra
một câu văn hoặc một câu thơ ….
3.3.4. Đối với loại bài tóm tắt tin tức, điền vào giấy tờ in sẵn:
- Tóm tắt tin tức địi hỏi học sinh phải có khả năng phân tích, tổng hợp, trí
nhớ tốt khi đọc qua một đoạn văn đã cho trước. Để lớp học sinh động, tơi phân
nhóm học sinh thi đua nhau tóm tắt một bản tin do giáo viên đưa ra, sau đó chỉ
định 02 nhóm trình bày trên bảng bằng giấy khổ to, các nhóm khác nhận xét, bổ
sung cho nhau, giáo viên bên cạnh uốn nắn, sửa chữa cho hồn thiện.
Ví dụ: Tóm tắt các tin (sách Tiếng Việt 4, tập hai, trang 109) bằng một hoặc hai
câu.
Bản tin a: (thảo luận nhóm 6).
+ Tóm tắt bằng một câu: thỏa mãn những ý thích khác lạ, ở Vát-te-rát (Thụy
Điển), người ta làm một khách sạn treo trên ngọn cây sồi cao 13 mét.
+ Tóm tắt bằng hai câu: tại Vát-te-rát (Thụy Điển), có một khách sạn treo trên
một cây sồi cao 13 mét dành cho những người thích nghỉ ở những chỗ khác lạ.
Giá phịng nghỉ khoảng hơn sáu triệu đồng, một người, một ngày.

Bản tin b: (thảo luận nhóm 6).
+ Tóm tắt bằng một câu: ở Pháp có một phụ nữ mở cư xá dành cho súc vật
đi du lịch theo chủ.
+ Tóm tắt bằng hai câu: thông tin rất đáng chú ý với du khách đi du lịch.
Một phụ nữ ở Pháp vừa mở khu cư xá đầu tiên dành cho các vị khách du lịch bốn
chân.
- Điền vào giấy tờ in sẵn: tôi yêu cầu học sinh đọc trước từng mục trong
bài cần điền, chỗ nào không rõ phải hỏi ý kiến người lớn và phải điền thơng tin
chính xác, rõ ràng. Mỗi học sinh chuẩn bị cho mình một mẫu “Phiếu khai báo
tạm trú, tạm vắng” để thực hành điền vào các thông tin.
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh

14


- Sau một thời gian thảo luận nhóm, học sinh từng nhóm phát biểu và nhận
xét lẫn nhau, giáo viên chốt lại ý các câu trả lời của học sinh.
- Từng học sinh làm bài của mình.
- Giáo viên sửa chữa và nhận xét.
- Giáo viên đọc bài hay.
Song song đó là việc giảng dạy kỹ các phân mơn như: Tập đọc, Kể chuyện,
Chính tả, Luyện từ và câu cũng giúp học sinh thực hành tốt cho phân môn Tập
làm văn. Đây là cả một q trình địi hỏi sự kiên trì giảng dạy của giáo viên cho
tồn bộ mơn Tiếng Việt.
3.3.5. Các vấn đề nảy sinh trong qua trình thực hiện.
Điều này khiến phần lớn giáo viên khi dạy phân mơn Tập làm văn gặp phải
khơng ít khó khăn, về cách sắp xếp các bài trong chương trình sách giáo khoa
như văn kể chuyện chưa dạy hết chuyển sang viết thư chưa hình thành hồn
chỉnh bài viết thư quay lại kể chuyện. Một số dạng khác cũng vậy miêu tả cây
cối xen vào bài tóm tắt tin tức như vậy làm cho mạch kiến thức các em bị gián

đoạn ... Dạng bài tóm tắt tin tức cũng chưa thực tế và phù hợp với học sinh vùng
sâu.
Mặt khác, một số bài học kể chuyện trong phân môn Tập làm văn lớp 4 cịn
có một số điểm chưa thực sự hợp lí, ví dụ trong bài " Luyện tập phát triển câu
chuyện " phần bài tập đã đưa ra những yêu cầu quá khó đối với học sinh, định
hướng phát triển câu chuyện còn mờ nhạt, hay ở bài " Luyện tập xây dựng đoạn
văn trong bài văn kể chuyện" chưa có câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu cốt truyện và
nghĩa của truyện. Điều này ảnh hưởng tới hoạt động dạy và học kiểu bài kể
chuyện.
Phân môn Tập làm văn là phân mơn khó dạy so với các mơn học khác, do
đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học ham chơi, khả năng tập trung chú
ý nhận thức các sự vật còn hạn chế, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa thật phát
triển, nên việc học tập ở phân mơn Tập làm văn gặp những khó khăn như : Thiếu
vốn sống, vốn hiểu biết về đối tượng cần miêu tả, kể chuyện…hoặc không biết
cách diễn đạt về đối tượng cần kể, cần tả.
IV. Hiệu quả đạt được
Sau thời gian thực hiện các “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy
học Tập làm văn lớp 4 ”, tôi đã nhận được những kết quả hơn cả sự mong đợi.
Tất cả các em đều đã nắm được cấu tạo các dạng bài tập văn kể chuyện, miêu tả.
Khi đã nắm vững cách viết một bài văn, các em tỏ ra u thích, ln thi đua nhau
tìm tịi, sáng tạo hơn trong các bài viết.
Lớp học sinh động, vui vẻ, có nền nếp khi học tập làm văn. Các học sinh
chưa hoàn thành cũng đã viết được hoàn thành bài làm văn có đủ ba phần . Tuy
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh

15


lời văn khơng bóng bẩy, mượt mà nhưng các em cũng đã có ý tưởng, dạn dĩ và tự
tin khi làm bài. Tất cả học sinh trong lớp đạt yêu cầu về hoàn thành bài viết văn.

1.Thực tiễn áp dụng năm học 2016- 2017
Qua việc quan sát những giờ dạy của đồng nghiệp và giờ học của học
sinh trên lớp trong thời gian qua tôi nhận thấy: việc dạy học với biện pháp
trên giúp chú ý nghe giảng bài tích cực. Giờ học thật sự lôi cuốn, thu hút đối
với cả ba đối tượng học sinh . Những học sinh chưa hồn thành tích cực hơn
tham gia và các hoạt động học tập tại lớp, bài giảng thật sự hấp dẫn .
- Cũng khảo sát 31 học sinh này khi tơi áp dụng dạy theo kinh nghiệm của
đề tài thì đã gặp những thuận lợi sau :
+ Khả năng quan sát vấn đề của học sinh nâng cao , các em nhạy bén hơn ,
cách nhìn , cách nghĩ bao quát hơn .
+ Cách trình bày , sắp xếp ý tứ theo trình tự hợp lý hơn
+ Đa số các bài viết đã thể hiện trọng tâm , chứa đựng được tình cảm trong
sáng
+ Các em đã tỏ ra say mê , hứng thú hơn trong học tập . Bên cạnh đó khả
năng nói viết của các em đã có những chuyển biến tích cực .
- Kết quả đã đạt được như sau :
Tổng số
HS
31

Hoàn thành tốt
bài văn

Hoàn thành
bài văn

Chưa hoàn
thành bài văn

SL


TL

SL

TL

SL

TL

7

22,58%

24

77,42%

0

0

2. Những bài học kinh nghiệm.
- Vận dụng linh hoạt các phương hướng dạy học giúp học sinh hứng thú,
tranh luận sôi nổi trong giờ học.
- Tạo điều kiện cho học sinh trao đổi, học hỏi nhau qua các bài học.
- Giáo viên có sự đầu tư suy nghĩ trong từng kiểu bài Tập làm văn cụ thể,
điều chỉnh, bổ sung hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt hợp lý giúp học sinh đều
có thể làm bài được và làm bài tốt.

- Hoạt động tổ chuyên môn đều đặn, đi sâu vào các vấn đề khó, bàn bạc
thảo luận nội dung dạy học từng kiểu bài, nhất là đối với các em chưa hoàn
thành.
16
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh


- Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh
học sinh, họp phụ huynh hàng tháng để thơng báo, trao đổi tình hình học tập của
học sinh.
- Tổ chức học sinh ở cùng lớp, gần nhà để hợp nhóm học tập, phân cơng đơi
bạn học tập.
V. Mức độ ảnh hưởng:
-Trong thời gian công tác tại trường TH A Đào Hữu Cảnh nói chung và
khối 4 nói riêng bản thân tơi cùng đồng nghiệp trong khối tích cực đổi mới
phương pháp giảng dạy, ln trao đổi học hỏi kinh nghiệm để nâng cao chất
lượng giảng dạy tập làm văn có hiệu quả qua các tiết dự giờ trong khối.
- Trong đề tài này, tơi trình bày về các nghiên cứu và giải pháp trong viêc
nâng cao chất lượng dạy Tập làm lớp 4 có hiệu quả của bản thân nói riêng và của
tổ khối 4 trường TH A Đào Hữu Cảnh nói chung . Cũng qua nghiên cứu chuyên
đề tôi nhận thấy, chuyên đề không những chỉ áp dụng được với khối lớp 4 mà
còn áp dụng đuợc với cả khối 5 trong toàn trường.
-“Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tập làm văn lớp 4 ” là
một đề tài có thể áp dụng cho bất cứ giáo viên nào đang làm công tác giảng dạy
ở bất cứ nơi nào, địa phương nào .
VI- Kết luận:
Để mỗi giờ dạy Tập làm văn đạt hiệu quả cao, người giáo viên biết sáng
tạo, phối hợp hài hoà nhiều yếu tố. Hơn thế nữa, người giáo viên còn cần tận tâm
với nghề, với bài dạy để tự rút kinh nghiệm sau mỗi tiết học. Để dạy văn được
tốt, trước tiên: Hãy suy nghĩ thật kĩ, dạy thật tốt các phân môn Tập đọc, Luyện từ

và câu, Kể chuyện. Bởi chúng có tác động trực tiếp đến Tập làm văn. Nó giúp
học sinh tích luỹ vốn từ, hiểu và vận dụng từ, vận dụng những câu văn, đoạn văn
hay của bài Tập đọc vào bài văn của các em. Mặt khác thông qua những bài văn
hay cần cho học sinh nhận xét việc sử dụng từ ngữ, các biện pháp nghệ thuật, từ
đó giúp các em tích luỹ được vốn kiến thức văn học. Hay trong giờ Luyện từ và
câu tơi ln khuyến khích, hướng dẫn học sinh tìm các từ hay (theo chủ đề), đặt
câu văn giàu hình ảnh, phân tích từ, so sánh câu. Mơn Tập làm văn quả là khó
đối với học sinh. Bài Tập làm văn là một tác phẩm văn học của các em. Tác
phẩm này hay, dở còn phụ thuộc vào năng lực của mỗi em, kĩ năng giao tiếp,
điều kiện sống của gia đình. Với lịng nhiệt tình, ý thức trách nhiệm, lịng u
nghề, tơi đã khắc phục được khó khăn và giúp học sinh lớp tơi ngày càng u
thích mơn Tập làm văn hơn và tơi thấy các em học văn thực sự có hiệu quả.
Trên đây là một số suy nghĩ tìm tịi của tơi trong q trình dạy học sinh thực
hành Tập làm văn. Do khơng có nhiều thời gian nghiên cứu, và trình độ, kinh
nghiệm có hạn nên những vấn đề nêu trên khơng khỏi những sai sót rất mong
nhận được sự đóng góp để đề tài ngày một hoàn thiện hơn.
Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh

17


Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật.

Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến

Người viết sáng kiến

Trần Thị Thúy Vân

18

Trần Thị Thúy Vân / A Đào Hữu Cảnh



×