Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

skkn một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn lịch sử lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.1 KB, 25 trang )

SKKN/ Lích sử 4

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
l. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Ý nghĩa, tầm quan trọng của môn Lịch sử.
Theo Bác Hồ: “Dân ta phải biết sử ta cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.”
Lịch sử là hồn phách của dân tộc. “Ôn cố, tri tân” là một quá trình phát triển tư duy
và hình thành nhân cách con người.
Trong chương trình Tiểu học, Lịch sử là một mơn học có vị trí đặc biệt. Nó đảm
nhận việc giáo dục nhân cách, đạo đức, nhân sinh quan, thế giới quan, góp phần hình
thành những phẩm chất của con người Việt Nam và bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng
tự tôn, tự cường dân tộc.
Bác Hồ cũng từng tự hào nói rằng: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước.
Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỡi khi Tở quốc bị xâm
lăng thì tinh thần ấy lại sơi nởi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn,
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và
cướp nước.” Duy trì, tiếp nối và phát huy những truyền thống quý báu đó của dân ta
từ ngàn xưa chính là mục đích, là nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng của môn Lịch sử
trong nhà trường.
2. Thực trạng việc dạy học Lịch sử hiện nay.
Hiện nay, các nhà trường Tiểu học đang thực hiện giảng dạy theo nội dung
chương trình SGK mới. Tuy chương trình Lịch sử lớp 4 theo SGK mới được đưa vào
giảng dạy từ năm học 2005 - 2006, nhưng từ đó đến nay, nhiều giáo viên vẫn khơng
tránh khỏi lúng túng trong việc sử dụng và khai thác sách giáo khoa. Mặc dù trong
những năm gần đây, tỉ lệ giáo viên đi học để nâng cao trình độ đào tạo tăng nhiều,
góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Tuy nhiên, hầu hết số giáo viên được đào tạo
để nâng chuẩn đều vừa dạy vừa học theo các hình thức đào tạo tại chức, đào tạo từ
xa nên việc học tập có nhiều hạn chế. Bộ, Sở, Phịng giáo dục và đào tạo cũng đã có
các chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng về phương pháp dạy học
nhưng việc tiếp cận với phương pháp dạy học mới, phát huy tính tích cực của học
-1–


GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

sinh cịn dừng lại ở mức độ.Vì thế, truyền thụ một chiều vẫn là thực trạng diễn ra
hàng ngày trong dạy học Lịch sử và trở thành căn bệnh trầm kha chưa có thuốc chữa
hữu hiệu.
Khơng ít giáo viên chưa nắm kĩ phương pháp đặc thù của các mơn học nói
chung và mơn Lịch sử nói riêng. Cho nên việc dạy học Lịch sử cho học sinh còn
nhiều hạn chế. Học sinh của chúng ta chưa hứng thú trong giờ học lịch sử, chưa nắm
vững các kiến thức, chưa thể hiện rõ tinh thần dân tộc qua các giờ Lịch sử,.. . Một số
giáo viên còn lúng túng khi dạy Lịch sử: Ví dụ như khi dạy bài “Chiến thắng Bạch
Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (938)” giáo viên giới thiệu làng cổ Đường Lâm là quê
của hai vua nhưng ngồi Ngơ Qùn lại khơng biết ơng vua thứ hai là ai. Hay khi
dạy bài “Quang Trung đại phá quân Thanh” giáo viên chưa giải thích rõ được vì sao
Nguyễn Huệ lên ngơi trước khi tiến qn ra Bắc đánh quân Thanh,... Đó là những
trăn trở của mỗi giáo viên trong giờ Lịch sử.
Thực tế mà mọi người đều thấy là một bộ phận lớp trẻ Việt Nam hiện nay ít
hiểu biết về lịch sử nước nhà nhưng lại “thuộc lòng” lịch sử Trung Quốc. Đây là hậu
quả sau một thời gian dài phim ảnh lịch sử nước này được trình chiếu dày đặc trên
sóng trùn hình. Rõ ràng nước láng giềng đã thành công trong việc quảng bá văn
hóa, lịch sử của họ thơng qua phim ảnh. Vậy tại sao Việt Nam lại chưa làm được
điều này? Thêm vào đó, “dư âm” của “cú sốc điểm sử” với hàng nghìn thí sinh thi
đại học được 0 môn sử càng dấy lên trong xã hội sự lo lắng cho lớp chủ nhân tương
lai của đất nước lớn lên mà không biết đến nguồn gốc, truyền thống dân tộc mình.
Nhiều người cho rằng, giáo dục Việt Nam dạy sử quá sớm (bắt đầu từ lớp 4) khi mà
ở cái tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới” liệu các em có cảm nhận được hết khí thế oai
hùng của non sông, đất nước qua những trang sử rực ánh hào quang ấy? Hay ngay
tại bậc học nền móng, các em đã bị những số liệu, những sự kiện lịch sử khơ cứng

làm cho sợ mà sinh ra tâm lí “chán” lịch sử như hiện nay?
Chính vì những lẽ trên, trong trong q trình dạy học, tơi đã miệt mài suy nghĩ
tìm tịi với mong muốn tìm ra: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy
học môn Lịch sử lớp 4” với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học

-2–
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

Lịch sử ở trường chúng tơi, giúp các em yêu thích lịch sử nước nhà, ham khám phá,
tìm tịi những kiến thức lịch sử, bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước,...
II. THỜI GIAN THỰC HIỆN
- Năm học 2010 - 2011, năm học 2011 - 2012
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu thực trạng kĩ năng học Lịch sử của học sinh lớp 4, tình hình dạy
mơn Lịch sử lớp 4 hiện nay của giáo viên trong trường, thực hành, xác định biện
pháp dạy học Lịch sử cho học sinh lớp 4. Đề xuất một số biện pháp thực hiện dạy
học Lịch sử cho học sinh lớp 4 theo hướng tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy
môn Lịch sử lớp 4.
IV. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Học sinh lớp 4.
V. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Với đề tài này, tôi mong muốn được nâng cao nhận thức của bản thân về việc
dạy học Lịch sử cho học sinh, tìm ra các biện pháp khắc phục tồn tại, khó khăn, giúp
giáo viên soạn giảng linh hoạt, trên cơ sở đó giúp học sinh hình thành kỹ năng học
Lịch sử hiệu quả.
- Cung cấp những tri thức thực tiễn về tổ chức dạy học Lịch sử cho học sinh lớp 4.
- Xem xét tính khả thi của đề tài.

VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện được mục đích của để tài đặt ra, tơi mạnh dạn nghiên cứu, học
hỏi, tìm tòi, áp dụng những phương pháp sau:
1. Phương pháp nghiên cứu lí luận (đọc tài liệu)
2. Phương pháp phân tích tổng hợp.
3. Phương pháp điều tra.
4. Phương pháp thực nghiệm.
5. Phương pháp đàm thoại.
-3–
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

6. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
VII. TIẾN TRÌNH NGHIÊN CỨU
1.Dự giờ, thăm lớp, tiếp xúc với học sinh, giáo viên. Tìm hiểu thực trạng dạy học môn Lịch sử.
2. Đề ra phương hướng, các biện pháp để dạy học môn Lịch sử cho học sinh
một cách có hiệu quả.
3. Dạy thực nghiệm, phân tích các kết quả bằng số liệu thống kê.
4. Rút ra bài học kinh nghiệm.

-4–
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TIỂU HỌC

1. Cơ sở tâm sinh lí của việc dạy học Lịch sử.
Để tổ chức dạy học Lịch sử cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về đặc điểm
nhận thức và quá trình tư duy của học sinh. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh là cơ
sở nền móng của việc xây dựng các phương pháp dạy học lịch sử ở Tiểu học.
Lịch sử vốn là một môn học đặc thù, kiến thức lịch sử là những gì đã diễn ra
trong q khứ. Chính vì thế, nhiệm vụ dạy học lịch sử là khôi phục lại bức tranh quá
khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào trong cuộc sống hiện tại và
tương lai.
Do đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học còn non yếu, chưa đầy đủ, sâu sắc
và chưa đạt đến trình độ tư duy khái quát cao nên việc trình bày và giảng dạy kiến
thức phải hết sức đơn giản, nhẹ nhàng, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ. Đặc biệt, tư duy của
các em ln dựa trên các hình ảnh lịch sử cụ thể nên khi trình bày phải hết sức coi
trọng việc tạo biểu tượng cụ thể. Đây là cơ sở để đề xuất các biện pháp hình thành
năng lực học lịch sử cho học sinh Tiểu học.
2. Cơ sở sử học của việc dạy học Lịch sử trong trường Tiểu học.
Dạy học lịch sử phải dựa trên những cơ sở sử học, nó liên quan mật thiết với
các sự kiện, hiện tượng, nhân vật tiêu biểu – người thật, việc thật trong lịch sử.
Trong việc khôi phục lại những bức tranh lịch sử ấy, dù ở cấp Tiểu học vẫn phải đảm
bảo tính chính xác, khoa học; tính tư tưởng chính trị; tính vừa sức; tính thực tiễn học đi đôi với hành.
II. THỰC TRẠNG DẠY - HỌC LỊCH SỬ
1. Địa điểm nghiên cứu
Trường Tiểu học tôi đang giảng dạy thuộc địa bàn dân cư có mặt bằng dân trí
chưa cao, địa phương khơng có các di tích lịch sử, bảo tàng lưu giữ hiện vật lịch sử
để làm tư liệu giảng dạy thực tế.
-5–
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4


2. Đánh giá thực trạng
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở khối 4, tôi nhận thấy việc dạy học Lịch sử
còn một số hạn chế. Học sinh lớp tôi trong năm học 2010 - 2011, qua một số lần
kiểm tra, tôi thấy chất lượng học Lịch sử của các em còn hạn chế ở những điểm sau:
- Chưa biết cách theo dõi kênh chữ kết hợp kênh hình để tìm hiểu nội dung
bài. (chiếm khoảng 25%).
- Các em chưa biết cách học linh hoạt các nội dung chính trong một bài học.
Các em thường học máy móc các ý trong phần ghi nhớ cuối bài nên hiệu quả không
cao. (chiếm khoảng 71,4%).
- Ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, thời gian và ý nghĩa các cuộc khởi nghĩa còn
hạn chế. Học sinh thường bị nhầm lẫn giữa các sự kiện, nhân vật, thời gian lịch sử
với nhau. VD: Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938;
Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi năm 968. Học sinh lại nhớ thành : Ngô Quyền đánh tan quân
Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 968 ; Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi năm 938. (chiếm
khoảng 42,8%).
3. Nguyên nhân của thực trạng
Về phía giáo viên:
- Do trình độ chưa đồng đều, hạn chế khả năng tiếp thu vận dụng phương
pháp dạy học mới nên một số giáo viên quen dạy học theo phương pháp cũ, trong
giờ Lịch sử, giáo viên dạy theo lối truyền thụ một chiều: Thầy giảng- trò nghe, chỉ
chú trọng vào việc học thuộc lòng hay đúng hơn là “học vẹt” để đối phó với các kì
thi.
- Giáo viên tiểu học được coi là một ông thầy tổng thể nhưng trong thực tế
“ông thầy tổng thể” ấy không thể làm tổng thể mọi việc một cách chu đáo, vẹn tồn.
Trong q trình dạy, người giáo viên phải chuẩn bị một lượng kiến thức lớn cho các
mơn Tốn, Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử và Địa lí,… Thời gian lên lớp và chuẩn bị
giáo án đã chiếm trọn thời gian của mỡi giáo viên. Vì vậy, việc tự học, tự bồi dưỡng
kiến thức còn hạn chế. Nhiều giáo viên chưa thực sự nắm vững các kiến thức lịch sử.
-6–
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương



SKKN/ Lích sử 4

- Điều kiện giảng dạy cịn nhiều khó khăn.
Về phía học sinh:
- Học sinh mới làm quen với môn Lịch sử từ lớp 4 nên bước đầu các em còn
nhiều bỡ ngỡ, chưa quen với cách giảng, cách học lớp 4.
- Học sinh ngại học Lịch sử vì học Lịch sử phải ghi nhớ nhiều sự kiện, số liệu.
- Trình độ tư duy của các em cịn non yếu nên việc tiếp thu, lĩnh hội các kiến thức
lịch sử còn hạn chế.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
MÔN LỊCH SỬ LỚP 4
Trong q trình giảng dạy ở lớp 4, tơi nhận thấy rằng việc hình thành kiến
thức lịch sử để tiến tới bồi dưỡng lịng u nước, lịng tự tơn, tự cường dân tộc cho
mỡi học sinh chính là cái đích của dạy lịch sử mà mỗi giáo viên mong muốn. Giáo
viên cần phải có những biện pháp phù hợp để dạy lịch sử cho học sinh. Vì vậy tơi
mạnh dạn xin được trình bày một số biện pháp mà tơi đã sử dụng trong quá trình
thực hiện đề tài nhằm giúp học sinh học tốt môn Lịch sử sau đây:
1. Biện pháp thứ nhất: Không coi Lịch sử là môn phụ.
Trên thực tế giảng dạy, tôi thấy môn Lịch sử chưa tìm được chỡ đứng xứng đáng
trong nhà trường. Lịch sử chỉ được xem là một “môn phụ” trong hệ thống các mơn
học, số tiết vào loại ít nhất. Phải có sự thay đởi mang tính cách mạng về quan niệm
đối với mơn Lịch sử. Phải xây dựng và hình thành quan niệm đúng đắn về vị trí và
tầm quan trọng của mơn Lịch sử từ các cấp quản lí giáo dục đến cha mẹ học sinh và
tồn xã hội. Khơng có quan niệm đúng đắn về mơn học thì tất cả những đề xuất về
đổi mới nội dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn đều
không thể thực hiện để đem lại kết quả như mong muốn. Theo giáo sư Phan Huy
Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam: “Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục
phổ thông mà không yêu mến lịch sử dân tộc, khơng có một vốn hiểu biết cần thiết

về lịch sử và văn hóa dân tộc và nhân loại, khơng có một niềm tự tin dân tộc, thì làm
sao có thể hồn chỉnh được phẩm chất của người công dân Việt Nam. Từ đặc điểm
-7–
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

đó, mơn Lịch sử càng phải được đặt đúng vị thế và chức năng của nó trong hệ thống
giáo dục phở thơng.”
Vì vậy, khi giảng dạy, tơi luôn quan niệm Lịch sử là một môn học quan trọng,
luôn dành thời lượng từ 35- 40 phút cho một tiết lịch sử, không cắt xén thời gian của
Lịch sử cho việc dạy các môn khác.
2. Biện pháp thứ hai: Tìm hiểu chương trình, nội dung dạy học Lịch sử lớp 4.
Từ đó, xác định những phương pháp dạy học đặc trưng riêng cho mỗi dạng bài.
Trong chương trình dạy học Lịch sử ở lớp 4, chúng ta gặp các dạng bài học cơ
bản sau:
2.1. Dạng bài có nội dung về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, tình hình kinh tế
- chính trị, văn hóa- xã hội.
a. Mục tiêu:
Học xong loại bài này, học sinh biết và hiểu:
- Hồn cảnh ra đời, địa phận (cương vực địa lí); thời gian ra đời và tồn tại của nhà
nước; tên vua, tên nước, nơi đóng đơ,…
- Hiểu một cách đơn giản về tổ chức bộ máy nhà nước.
- Biết được những nét chính về đời sống kinh tế, vật chất; văn hóa tinh thần của con
người trong xã hội.
Học sinh có kĩ năng:
- Vẽ hoặc mơ tả đơn giản bộ máy chính quyền nhà nước.
- So sánh ở mức độ thấp tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của các triều đại
hoặc các giai đoạn lịch sử khác nhau.

Học sinh có thái độ: Có ý thức tìm hiểu lịch sử dân tộc qua các triều đại thông
qua phim ảnh, các câu chuyện lịch sử,…
b. Nội dung.
- Nước Văn Lang.
- Nước Âu Lạc.
- Nước ta dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc.
- Nhà Lý dời đô ra Thăng Long.
- Nhà Trần thành lập.
-8–
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

- Nhà Trần và việc đắp đê.
- Nước ta cuối thời Trần.
- Nhà Hậu Lê và việc tở chức, quản lí đất nước.
- Trịnh- Nguyễn phân tranh.
- Cuộc khẩn hoang ở Đàng Trong.
- Thành thị ở thế kỉ XVI- XVII.
- Những chính sách về kinh tế và văn hóa của vua Quang Trung.
- Nhà Nguyễn được thành lập.
c. Những điều cần lưu ý và phương pháp dạy học.
Khi dạy các bài dạng này, cần lưu ý một số điểm sau:
- Phải cho học sinh biết được hoàn cảnh ra đời, địa phận (cương vực địa lí); thời
gian ra đời và tồn tại của nhà nước; tên vua, tên nước, nơi đóng đơ,…
- Giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ được sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước một cách
đơn giản hoặc ở mức độ thấp hơn là mô tả được tổ chức bộ máy nhà nước: Đứng
đầu chính quyền (Nhà nước) là ai? Gồm những tầng lớp nào? Bên dưới chính
quyền trung ương là những đơn vị hành chính nào? Gồm mấy cấp? Đứng đầu

mỡi cấp là tầng lớp nào?....
- Mơ tả được những nét chính về đời sống kinh tế, vật chất, tinh thần của con
người trong xã hội; cách tổ chức quân đội, luật pháp…
- Đối với dạng bài này, tôi thường sắp xếp thành từng ý, gợi mở vấn đề rồi tổ chức
dẫn dắt cho học sinh tìm hiểu thơng tin qua phương pháp vấn đáp- tìm tịi, thảo
luận nhóm, đàm thoại,.. Với dạng bài này, cần áp dụng tối đa phương pháp sử
dụng đồ dùng dạy học. Mặt khác, việc miêu tả, giải thích, phân tích của giáo viên
cũng rất quan trọng vì nó liên quan tới một số thuật ngữ, khái niệm khó.
Để dạy tốt loại bài này, tơi thường thực hiện trình tự bài giảng như sau:
- Mơ tả tình hình nước ta cuối hay sau thời kì nào đó(tình hình đất nước, quan lại,
chính qùn, cuộc sống của các tầng lớp trong xã hội,…).
- Trong tình cảnh đó, chính quyền (hay nhân dân hoặc nhân vật lịch sử,…) đã làm
gì và làm như thế nào?
- Kết quả của những việc làm đó?
-9–
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

 Ví dụ: Bài 15- Nước ta cuối thời Trần.
Hoạt động của giáo viên
- Gv hỏi:

Hoạt động của học sinh
- Hs trả lời:

+ Theo dõi bài, em hãy cho cô

+Cuối thời Trần, nước ta suy yếu, vua quan


biết tình hình nước ta cuối thời ăn chơi sa đọa, đời sống nhân dân khổ cực,
Trần như thế nào?
+ Trong tình hình đó, Hồ Quý
Ly đã làm gì?

nhân dân và một số quan lại bất bình,…
+ Hồ Quý Lý đã truất ngôi vua Trần, lập
nên nhà Hồ, dời thành về Tây Đô, đổi tên
nước là Đại Ngu, thực hiện nhiều cải cách,…

+ Kết quả của những việc làm
đó?

+ Nhà Hồ sụp đổ, quân Minh xâm lược và
đô hộ nước ta.

Trên cơ sở những nội dung cơ bản trên, tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể của
từng bài để vận dụng lịnh hoạt các phương pháp: kể chuyện, thảo luận nhóm, truyền
đạt,….để chuyển tải nội dung bài học một cách hiệu quả.
2.2. Dạng bài có nội dung về nhân vật lịch sử.
a. Mục tiêu:
- Học sinh biết và hiểu: Cơng lao và những đóng góp của một số nhân vật đối với
lịch sử dân tộc.
- Học sinh có khả năng kể lại hoặc mô tả một cách khái quát những đóng góp của
các nhân vật lịch sử đã học hoặc sưu tầm những câu chuyện về họ.
- Học sinh ghi nhớ công ơn của các nhân vật lịch sử.
b. Nội dung:
- Khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
- Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (938).

- Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân.
- Quang Trung đại phá quân Thanh,...
c. Những điều cần lưu ý và phương pháp dạy học.
Chương trình lịch sử tiểu học khơng giới thiệu tiểu sử các nhân vật lịch sử, mà
thông qua cuộc đời hoạt động và sự nghiệp của nhân vật để làm sáng tỏ những sự
- 10 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

kiện cơ bản của lịch sử dân tộc. Ví dụ Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất
đất nước vào năm 968… Như vậy nhân vật lịch sử bao giờ cũng gắn liền với sự kiện
lịch sử, giáo viên phải biết khai thác tốt các sự kiện để làm nổi bật những hoạt động
và công lao to lớn của nhân vật.
Khi dạy những bài về nhân vật lịch sử, giáo viên cần lưu ý một số điểm cơ bản
sau:
- Mỡi bài đều có hình ảnh (tranh vẽ hoặc chân dung) nhân vật lịch sử giúp học sinh
nắm bắt được diện mạo, hình thức bên ngồi của nhân vật. Giáo viên cần sử dụng
và khai thác triệt để những bức ảnh này nhằm phục vụ nội dung bài học.
- Khi trình bày về nhân vật, phải cho học sinh biết nhân vật đó là người như thế
nào? (Sinh ra khi nào? Ở đâu? Làm gì? Có tính cách gì nởi bật? Tài năng, đức độ
ra sao?....)
- Kể chuyện hoặc miêu tả những hoạt động của họ để làm cơ sở cho việc đánh giá
khách quan công lao của các nhân vật đối với lịch sử. Khi kể chuyện hay tường
thuật, miêu tả tình tiết các hoạt động,có thể kết hợp phân tích để học sinh hiểu
hơn nội dung, bản chất sự kiện.
- Trên cơ sở khai thác những nội dung đó, giáo viên tiến hành giáo dục tư tưởng,
tình cảm, thái độ cho học sinh về lịng biết ơn, sự khâm phục, kính trọng đối với
nhân vật lịch sử một cách tự nhiên, có hiệu quả nhất. Thông thường, đối với dạng

bài này phương pháp chủ đạo là kể chuyện, miêu tả, tường thuật kết hợp với hỏi
đáp để khắc sâu hình ảnh nhân vật trong tâm trí học sinh.
 Ví dụ: Bài 7- Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân.(Lịch sử, lớp 4)
Hoạt động 1: Tình hình nước ta sau khi Ngơ Qùn mất.
Ở hoạt động này, tôi tập trung sử dụng phương pháp hỏi- đáp để học sinh nêu
được tình cảnh đất nước bị chia cắt.
Hoạt động 2: Vài nét về tiểu sử của Đinh Bộ Lĩnh.
- Thực hiện hoạt động này cần sử dụng phương pháp kể chuyện. Khi giảng dạy,
tôi thường tổ chức học sinh đọc nội dung sách giáo khoa kết hợp với hiểu biết
của bản thân để kể lại tiểu sử của Đinh Bộ Lĩnh. Nếu trường hợp học sinh không
kể được, tôi sẽ dẫn dắt, gợi mở cho các em bằng các câu hỏi gợi ý: Đinh Bộ Lĩnh
- 11 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

sinh ra khi nào? Ở đâu? Làm gì? Có tính cách gì nởi bật? Tài năng, đức độ ra
sao?....
Hoạt động 3: Công lao của Đinh Bộ Lĩnh.
Tôi thường tở chức cho học sinh thảo luận nhóm để thấy được những đóng góp
của Đinh Bộ Lĩnh.
2.3. Dạng bài có nội dung về các cuộc khởi nghĩa, kháng chiến, chiến thắng,
chiến dịch, phản công,…
a. Mục tiêu:
Học sinh biết và hiểu:
-

Thời gian, địa diểm diễn ra các cuộc khởi nghĩa, chiến thắng, chiến dịch…


-

Những nét chính về diễn biến và ý nghĩa của các thắng lợi đó.
Học sinh có khả năng: Tường thuật, miêu tả những nét chính của cuộc khởi nghĩa

hay chiến dịch đã học.
Học sinh có thái độ: biết ơn những người đã làm nên những sự kiện vĩ đại của
lịch sử dân tộc và có ý thức bảo vệ những thành quả của cách mạng.
b. Nội dung:
- Khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
- Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (938).
- Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược. (lần 1, lần 2)
- Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên.
- Chiến thắng Chi Lăng.
- Nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long.
- Quang Trung đại phá quân Thanh,...
c. Những điều cần lưu ý và phương pháp dạy học.
Loại bài này chiếm một tỉ lệ khá cao trong chương trình. Với loại bài này, cần cho
học sinh biết, hiểu những nội dung sau:
-

Nguyên nhân, hoàn cảnh dẫn đến cuộc khởi nghĩa/kháng chiến/ chiến dịch,…

-

Khái lược diễn biến cuộc khởi nghĩa/ kháng chiến/ chiến dịch,…
Để học sinh hiểu sâu hơn những nội dung trên, giáo viên nhất thiết sử dụng bản

đồ, lược đồ, tranh ảnh,… dẫn dắt học sinh xác định và mô tả được vị trí, khu vực, địa
- 12 –

GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

bàn diễn ra cuộc khởi nghĩa/ kháng chiến/ chiến dịch,…, phải trình bày diễn biến của
các sự kiện trên hệ thống kênh hình. Đặc biệt phải coi hệ thống kênh hình là nguồn
tri thức để khai thác.
 Ví dụ: Bài 16- Chiến thắng Chi Lăng (Lịch sử 4)
Khi dạy bài này, người giáo viên không thể tường thuật hay mơ tả “chay” mà
phải sử dụng kênh hình (VD hình 29-SGK) để học sinh thấy được vị trí của ải Chi
Lăng trên cơ sở đó bằng câu hỏi gợi ý: Em có nhận xét gì về vị trí của ải Chi Lăng?
Tại sao nghĩa quân Lam Sơn lại chọn ải Chi Lăng làm trận địa đánh địch?...
Như vậy, theo tôi, phương pháp chủ đạo khi dạy dạng bài học này là tường
thuật, miêu tả kết hợp với kể chuyện và khai thác kiến thức từ hệ thống kênh hình để
làm sống dậy diễn biến của cuộc khởi nghĩa/ kháng chiến/ chiến dịch hay cuộc tiến
cơng.
2.4. Dạng bài có nội dung về thành tựu văn hóa- khoa học.
a. Mục tiêu:
- Học sinh biết và hiểu một số thành tựu trong lĩnh vực văn hóa, khoa học điểm
hình của dân tộc qua các thời kì lịch sử.
- Học sinh có khả năng kể, mô tả những nét khái quát nhất về các thành tựu đó.
- Có ý thức trân trọng, giữ gìn, bảo vệ những thành tựu văn hóa, khoa học của dân
tộc.
b. Nội dung:
- Chùa thời Lý.
- Trường học thời Hậu Lê.
- Văn hóa, khoa học thời Hậu Lê.
- Kinh thành Huế.
c. Những điều cần lưu ý và phương pháp dạy học.

Khi dạy dạng bài này, cần lưu ý những điểm sau:
-

Phải mô tả được những đặc điểm nổi bật của cơng trình kiến trúc (Q trình
xây dựng, quy mô, cấu trúc, kiểu dáng, nét điêu khắc, chạm trổ,…)

-

Mô tả cách giáo dục, thi cử hay nội dung thi cử của mỡi thời kì.
Nêu được các thành tựu cơ bản về văn hóa, khoa học trong thời kì lịch sử ấy.
- 13 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

Trên cơ sở đó, giáo dục ý thức, trách nhiệm bảo vệ các cơng trình nghệ thuật
kiến trúc, văn hóa, khoa học cho học sinh.
Ở loại bài này, thường có nhiều tranh ảnh về các cơng trình kiến trúc, các thành
tựu về văn hóa… Vì vậy, tơi thường hướng dẫn học sinh đi từ quan sát đến mô tả và
nêu ra nhận xét. Như vậy, khai thác kiến thức từ kênh hình là phương pháp cực kì
quan trọng với dạng bài này.Tuy nhiên, để tăng tính hiệu quả cho tiết học, tơi cịn kết
hợp tở chức cho học sinh hợp tác làm việc theo nhóm, tở chức các trị chơi.
2.5. Dạng bài có nội dung ơn tập, tổng kết.
a. Mục tiêu:
- Hệ thống hóa và củng cố những kiến thức đã học.
- Học sinh có khả năng nhận thức lịch sử một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn và
làm bài kiểm tra tốt hơn.
- Học sinh có ý thức ghi nhớ lịch sử dân tộc.
b. Nội dung:

- Bài 6: Hệ thống lại những sự kiện điển hình từ thời kì dựng nước tới năm 938.
- Bài 20: Tổng hợp những nét cơ bản của lịch sử dân tộc trong các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa- xã hội và những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân
tộc ta từ buổi đầu độc lập đến thời Hậu Lê.
- Bài 29: Tổng kết lịch sử từ thời vua Hùng đến giữa thế kỉ XIX.
c. Những điều cần lưu ý và phương pháp dạy học.
Loại bài ôn tập, tởng kết là loại bài nhằm hệ thống hóa và củng cố lại những
kiến thức đã học cho học sinh sau mỡi thời kì hay giai đoạn lịch sử nhất định, giúp
các em nắm vững kiến thức cơ bản, nhận thức lịch sử một cách sâu sắc và toàn diện
hơn, đồng thời chuẩn bị tốt cho bài kiểm tra, thi cử.
Để dạy tốt dạng bài này, mở đầu bài học, tôi thường nêu nhiệm vụ cần giải
quyết rồi tiến hành tổ chức cho học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Trong quá trình tiến hành bài học, tôi phải thu hút được tất cả học sinh vào các hoạt
động, phát huy cao nhất tính tích cực của mỗi học sinh trong việc trao đổi những câu
hỏi mà giáo viên đặt ra, thực hiện các công việc như: vẽ sơ đồ, lập bảng niên biểu,
thống kê, tìm các dẫn chứng… Đây là yếu tố quan trọng để phát triển tư duy, rèn
luyện kĩ năng thực hành.
- 14 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

Thơng thường, với dạng bài ơn tập, tổng kết phải vận dụng tổng hợp nhiều
phương pháp. Tuy nhiên cũng tùy từng phần, từng nội dung cụ thể trong từng bài mà
giáo viên lựa chọn phương pháp hay hình thức dạy học phù hợp. Riêng tơi lại thấy
trị chơi là một phương pháp rất thích hợp với dạng bài này vì nó có thể tởng hợp
kiến thức từ nhiều bài học khác nhau, đồng thời cũng tạo ra khơng khí sơi nởi, hấp
dẫn cho học sinh trong q trình học tập. Qua những hoạt động “học mà chơi, chơi
mà học”, học sinh sẽ ghi nhớ một cách tự giác những kiến thức lịch sử đã học.

 Ví dụ: Bài 20- Ơn tập (Lịch sử 4), tơi tở chức dưới hình thức trị chơi “Ơ chữ kì
diệu”
* Mục đích:
- Hệ thống lại kiến thức lịch sử học sinh đã học.
- Khai thác vốn hiểu biết của học sinh.
- Tạo sự hứng thú trong học tập.
*Chuẩn bị:
- Gv chuẩn bị các thẻ chữ dùng làm đáp án khi học sinh đã tìm ra đáp án cho từng ơ
chữ.
- Bảng ơ chữ.
- Hệ thống 12 câu hỏi hàng ngang như sau:
Câu hỏi:
1.

Ai là người có cơng dẹp loạn 12 sứ qn?

2.

Vị vua đầu tiên nhà Lý tên là gì?

3.

Thời Lê, nước ta có tên là gì?

4.

Tên một vị tướng giỏi được Thái hậu họ Dương mời lên làm vua?

5.


Tên một con sông- nơi diễn ra trận đánh quân Tống xâm lược lần thứ 2.

6.

Tên vị chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn làm nên chiến thắng Chi Lăng.

7.

Tên kinh đô nước ta do Lý Thái Tở đặt.

8.

Đây là tên người có cơng trong cuộc lớn kháng chiến chống quân xâm

lược Mông – Nguyên.
9.

Nhà Hậu Lê quy định tổ chức thi Hội ở đâu?

10.

Ai là tác giả cuốn “Đại Việt sử kí tồn thư”?

- 15 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

11. Tên một nhà thơ, nhà khoa học lớn thời Hậu Lê.

12. Ai là người có câu nói nởi tiếng:”Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ
hạ đừng lo”?
 Học sinh tìm ra ơ chữ hàng dọc.

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Đ

I

N

H

B



L

Y
T
H
Ư
Ơ
N
G
K
I
Ê
T

Ĩ

N

H

* Cách tiến hành: Chia lớp làm 2 đội chơi, bầu ban giám khảo. GV phổ biến luật
chơi:
+ Khi GV đọc câu hỏi, đội nào tìm ra đáp án trước, đội đó được ghi 10 điểm.
+ Sau khi giải xong ơ chữ hàng ngang, tìm ơ chữ hàng dọc. Tuy nhiên, nếu đội nào
đốn được ơ chữ hàng dọc trước thì có thể giơ lá cờ để trả lời và sẽ 50 điểm.
+ Trọng tài ghi điểm cho từng đội.
+ Mỗi câu hỏi, mỗi đội chỉ được trả lời một lần. Nếu trả lời sai thì quyền trả lời
thuộc về đội kia.
+ Thời gian cho mỗi câu là 20 giây.
- Kết thúc trò chơi,đội nào ghi được nhiều điểm nhất sẽ thắng cuộc.

3.Biện pháp thứ ba: Chuẩn bị chu đáo cho giờ dạy - học Lịch sử.

3.1 Đối với học sinh:

- 16 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

Để giúp các em học tốt một bài lịch sử, cuối tiết dạy lịch sử trước, tôi thường
hướng dẫn các em chuẩn bị một cách chu đáo, cụ thể như sau:
- Trước tiên các em cần đọc thành tiếng ít nhất 3 lần, sau đó đọc thầm.
- Đọc kỹ phần giải nghĩa từ ngữ khó ở cuối bài.
- Tập trả lời miệng các câu hỏi về tìm hiểu nội dung trong sách giáo khoa, từ
đó các em có thể nêu được những ý chính của bài học.
3.2 Đối với giáo viên.
Cùng với phương pháp dạy học mới nói chung, phương pháp dạy mơn Lịch sử
nói riêng, kết hợp với kinh nghiệm giảng dạy và sự học hỏi, giúp đỡ của đồng
nghiệp, tôi nhận thấy rằng để tổ chức dạy - học thành công một tiết Lịch sử, học sinh
hiểu bài và ghi nhớ được theo mục tiêu, yêu cầu của tiết học, giáo viên cần chuẩn bị
những việc sau:
- Soạn bài cụ thể, chi tiết rõ hoạt động của thầy, của trò. Xây dựng các phương
pháp giảng dạy kết hợp với phương tiện dạy học một cách linh hoạt để giờ dạy nhẹ
nhàng và đạt hiệu quả.
- Nắm chắc mục tiêu, yêu cầu ở từng bài. Đọc kỹ nội dung sắp dạy, trao đổi
học tập bổ sung thêm kiến thức liên quan, dự kiến các tình huống học sinh sẽ mắc
phải và cách xử lí những tình huống đó.
- Nắm vững hệ thống câu hỏi trong bài Lịch sử. Chuẩn bị hệ thống câu hỏi
phù hợp với từng đối tượng học sinh để học sinh hiểu nội dung bài một cách hiệu
quả nhất, từ đó tìm ra nội dung cần ghi nhớ.
- Liên hệ, tích hợp với kiến thức Địa lí để tăng hiệu quả dạy học.

Ví dụ: Khi dạy bài “Nhà Lý dời đô ra Thăng Long”, giáo viên hỏi vì sao nhà Lý
chọn Thăng Long làm kinh đơ, học sinh có thể vận dụng kiến thức về Địa lí bài
Đồng bằng Bắc Bộ để trả lời.
4. Biện pháp thứ tư: Sử dụng hiệu quả các phương tiện trực quan, đồ dùng
dạy học kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Lịch sử.
- 17 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

Học tập lịch sử là một quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ
của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Đặc trưng nổi bật của nhận
thức lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì thuộc về quá khứ. Mặt
khác, lịch sử là những sự việc đã diễn ra, là hiện thực trong quá khứ, là tồn tại khách
quan, không thể “phán đốn”, “suy luận”,… để biết lịch sử. Vì vậy, nhiệm vụ đầu
tiên, tất yếu của bộ môn Lịch sử trong nhà trường là tái tạo lịch sử, tức là cho học
sinh tiếp xúc với những chứng cứ vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học
sinh những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử,
tạo ra những biểu tượng về con người và hoạt động của họ trong bối cảnh thời gian,
không gian xác định, trong những điều kiện lịch sử cụ thể.
Vậy tái tạo lịch sử bằng những phương thức nào? Theo tôi, trước hết phải kể
đến lời nói sinh động, giàu hình ảnh của giáo viên, tức là giáo viên dùng phương
pháp tường thuật, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử. Có thể nói,
chỉ có miêu tả, tường thuật, kể chuyện mới tái hiện được những biến cố lịch sử quan
trọng, đem đến cho học sinh những hứng thú mạnh mẽ. Do sách giáo khoa viết rất cô
đọng, trừu tượng nên tôi đã sử dụng nhiều tư liệu, kết hợp với đồ dùng trực quan
(tranh ảnh, bản đồ) để miêu tả, tường thuật. Các phương tiện trực quan sẽ tạo ra hình
ảnh lịch sử cụ thể, sinh động, chính xác hơn, giúp học sinh thuận lợi hơn trong việc
tạo biểu tượng lịch sử.

Tuy nhiên, các phương tiện trực quan phục vụ việc dạy học lịch sử còn nhiều
hạn chế. Phương tiện vừa thiếu lại vừa khơng phù hợp. Thử lấy ví dụ về hệ thống
bản đồ, chúng ta có thể khẳng định một điều rằng hệ thống bản đồ và tranh ảnh lịch
sử trong danh mục đồ dùng do Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành không đủ. Các
tranh ảnh ở sách giáo khoa màu sắc còn đơn điệu, thiếu đồng bộ. Trước những khó
khăn đó, việc dạy học theo hướng ứng dụng cơng nghệ thơng tin là một giải pháp
tích cực, là hướng đi kịp thời để giải quyết những khó khăn nêu trên. Nhận thấy
điều đó, tơi thường soạn giáo án Lịch sử trên phần mềm PowerPoint. Qua các năm,
trao đổi giáo án giữa giáo viên trong khối nên các bài giảng soạn bằng phần mềm
PowerPoint tăng cả về số lượng và chất lượng. Khi giảng dạy, hiệu quả tiết dạy thấy
- 18 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

rõ ràng. Học sinh hăng hái, sơi nởi, tích cực hoạt động. Được tiếp xúc với tranh ảnh
lịch sử sinh động, các em chủ động tiếp thu và nắm vững kiến thức hơn.
5. Biện pháp thứ năm: Tổ chức cho học sinh làm việc hợp tác theo nhóm để tự
phát hiện kiến thức.
Học tập lịch sử để hình dung rõ ràng, giải thích đúng, có cơ sở khoa học về
tiến trình lịch sử. Các sự kiện, hiện tượng lịch sử, biến cố lịch sử,… không phải xuất
hiện một cách tùy ý, hoàn toàn ngẫu nhiên mà là sản phẩm của những điều kiện lịch
sử nhất định, có những mối quan hệ nhân quả nhất định, tuân theo những quy luật
nhất định.
Học tập lịch sử khơng chỉ hình dung được hình ảnh của quá khứ mà điều cốt
yếu là phải hiểu lịch sử, tức là nắm được bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Trên cơ sở đó hình thành khái niệm, phát hiện mối quan hệ, rút ra các bài học lịch
sử….
Bởi vậy, khi dạy học, tôi thường tạo điều kiện cho học sinh độc lập suy nghĩ,

tự tìm tịi, phát hiện kiến thức chứ khơng áp đặt những kết luận có sẵn. Để làm được
việc này, tôi không chỉ sử dụng các phương pháp diễn giải mà tổ chức bài học thành
những vấn đề rồi dùng hệ thống câu hỏi, kích thích học sinh tự tìm tịi, tự phát hiện
kiến thức một cách độc đáo, sáng tạo. Phương pháp dạy học vấn đáp- tìm tịi này
giúp học sinh có thể lĩnh hội kiến thức một cách chắc chắn. Để sử dụng phương
pháp này hiệu quả, tôi thường đầu tư xây dựng các câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, tường
minh, tránh những câu hỏi rườm rà, khơng có tác dụng phát triển tư duy. Trong một
bài hoặc một phần khơng nên đặt q nhiều câu hỏi.
Ngồi ra, tơi cịn sử dụng phương pháp thảo luận nhóm. Giáo viên đưa ra các
ý kiến khác nhau để học sinh trao đổi, thảo luận, lựa chọn, nêu ý kiến riêng của
mình. Tuy nhiên, khơng phải bất cứ bài học nào, phần kiến thức nào cũng đem ra
thảo luận. Tùy từng dạng bài, tùy từng phần kiến thức mà giáo viên cho học sinh
thảo luận.Thông thường chỉ những phần kiến thức phức tạp, có nhiều cách hiểu khác
nhau, hay những câu hỏi, những bài tập khó cần có sự hợp tác giữa các cá nhân thì
nên tở chức cho học sinh thảo luận nhóm. Khi thảo luận nhóm, giáo viên cần lưu ý
đến thời gian tiết học, không gian lớp học và số lượng học sinh … để tổ chức thảo
- 19 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

luận nhóm một cách hợp lí. Khơng nên lạm dụng phương pháp này trong suốt tiết
học cũng như phải hết sức tránh tính hình thức trong thảo luận nhóm.
 Ví dụ: Bài 10- Chùa thời Lý.
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động 2: Sự phát triển của đạo

Hoạt động của trò


Phật dưới thời Lý
- Gv chia học sinh thành các nhóm 4, - Hs chia thành nhóm 4 cùng thảo luận để
yêu cầu học sinh đọc SGK và thảo luận tìm câu trả lời.
để trả lời câu hỏi: Những sự việc nào cho
ta thấy dưới thời Lý, đạo Phật rất thịnh
đạt?
- Gv gọi đại diện các nhóm phát biểu.

- Đại diện học sinh một nhóm nêu ý
kiến,các nhóm khác bổ sung và thống
nhất câu trả lời đúng là:
+ Đạo Phật được truyền bá rộng rãi
trong cả nước, nhân dân theo đạo Phật rất
đông, nhiều nhà vua thời này cũng theo
đạo Phật. Nhiều nhà sư được giữ cương
vị quan trọng trong triều đình.
+ Chùa được mọc lên khắp nơi, năm

- Gv kết luận: Dưới thời Lý, đạo Phật 1031, triều đình bỏ tiền xây dựng 950
rất phát triển và được xem là Quốc giáo. ngôi chùa, nhân dân cũng đóng góp tiền
(là tơn giáo của quốc gia)
6. Biện pháp thứ sáu:

xây chùa.
Tạo điều kiện cho học sinh học tập qua việc tiếp xúc

các nguồn sử liệu trong thực tế.
Lịch sử đã đi qua nhưng khơng hồn tồn biến mất mà cịn để lại dấu vết của
nó qua kí ức của nhân loại(văn học dân gian, phong tục tập quán, lễ hội); qua những
thành tựu văn hóa vật chất (thành quách, nhà cửa; đình, chùa, miếu mạo, tượng đài,

…); qua các hiện tượng lịch sử, qua ghi chép của người xưa; qua tên đất, tên làng,
tên đường phố; qua tranh ảnh, báo chí đương thời; qua thái độ của người đương thời
- 20 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

đối với các sự kiện lịch sử (những ngày kỉ niệm, những ngày lễ lớn,…) Chỉ có trên
cơ sở những chứng cứ vật chất nói trên mới có sự nhận thức và trình bày về lịch sử.
Ngày nay, ngồi những hình thức dạy học trùn thống, người ta hết sức quan tâm
đến các hình thức tở chức dạy học tại thực địa, bảo tàng, khu di tích,… tạo điều kiện
cho học sinh tiếp xúc với các nguồn sử liệu nói trên.
Tại địa phương tơi, những dấu vết cở xưa của lịch sử phong kiến khơng cịn
nữa. Những mái đình, mái chùa qua hàng chục năm đằm mình trong bom đạn nay đã
được xây dựng lại, khang trang hơn, to đẹp hơn. Tuy nhiên, những nét đặc trưng của
ngơi chùa từ thời Lý vẫn cịn vẹn ngun. Vì vậy, khi dạy bài Chùa thời Lý, tôi đã
yêu cầu các em quan sát và nhận xét về đặc điểm ngơi chùa ở làng mình rồi từ đó đối
chiếu với nội dung tìm hiểu trong bài, các em sẽ có nền tảng kiến thức thực tế vững
chắc hơn.
Đối với những bài học về nhân vật lịch sử, các cuộc khởi nghĩa,… tơi
thường u cầu học sinh tìm hiểu qua suy nghĩ của ông, bà, cha, mẹ về những anh
hùng lịch sử ấy, những chiến công oanh liệt ấy. Sự kế thừa lòng yêu nước, ngưỡng
mộ các danh nhân lịch sử Việt Nam của các em qua ông bà, cha mẹ sẽ tốt hơn nhiều
việc các em được giáo dục, bồi đắp qua các câu chữ khơ khan, qua lời nói “suông”
của giáo viên.
7. Biện pháp thứ bảy: Dạy Lịch sử qua các hoạt động ngoại khóa.
Bên cạnh những giờ học trên lớp chật hẹp, ngoại khóa là điều cần thiết để giải
tỏa những căng thẳng và bổ sung thêm nhiều kiến thức cho học sinh. Nếu dạy học
Lịch sử lớp 5 với những câu chuyện, những kỉ niệm chân thực về một thời lửa đạn

được các nhân chứng- những cựu chiến binh trở về từ bom đạn kể lại sẽ thu hút học
sinh đến với lịch sử mạnh mẽ hơn, tích cực hơn. Nhưng Lịch sử lớp 4, nội dung là
kiến thức các triều đại phong kiến, ta không thể mời nhân chứng từ quá khứ về kể
chuyện cho học sinh nghe. Vì vậy, tở chức cho học sinh thăm quan các khu di tích
lịch sử như Đền Hùng, Cở Loa, Hoa Lư, …, các viện bảo tàng lịch sử đề các em
được tận mắt nhìn, được sờ tận tay các di vật từ lịch sử, được cảm nhận khí thế
Đông A hùng thiêng của dân ta thời Trần,… các em sẽ hứng thú hơn với Lịch sử
nước nhà, hình thành thói quen tự giác tìm hiểu Lịch sử quốc gia. Tất cả các kiến
- 21 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

thức ấy sẽ thấm dần vào nhận thức của học sinh một cách tự giác chứ không phải
nhồi nhét một cách thụ động, tiêu cực.
Vẫn biết phương pháp trên mang lại hiệu quả giáo dục tích cực nhưng trên thực
tế, việc tổ chức cho học sinh thăm quan các khu di tích lịch sử vượt quá tầm khả
năng của chúng tơi.Vì địa phương tơi cơng tác rất xa các các khu di tích lịch sử, các
em học sinh lại q nhỏ, kinh phí eo hẹp. Vì vậy, trong q trình giảng dạy, tơi
thường tở chức các b̉i triển lãm tranh ảnh lịch sử theo giai đoạn. (Phần lớn tranh
ảnh là do tôi sưu tầm trên mạng, trên sách báo), tở chức các trị chơi “Theo dịng lịch
sử” dưới hình thức “Rung chng vàng”, “Đường lên đỉnh Olympia” để củng cố
kiến thức lịch sử cho học sinh. Tổ chức các buổi kể chuyện lịch sử cho học sinh
nghe. (Nguồn truyện lấy từ cuốn Đại Việt sử kí tồn thư, Các triều đại Việt Nam)
nhằm tăng sự hứng thú học Lịch sử cho học sinh trong lớp.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Từ khi thực hiện chương trình sách giáo khoa mới lớp 4, tôi nhận thấy nội
dung môn Lịch sử của học sinh được các tác giả biên soạn có tính ưu việt hơn so với
chương trình cũ, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học, học

sinh được làm việc nhiều hơn với kênh hình, kênh chữ trong sách giáo khoa.
Được sự chỉ đạo của Ban giám hiệu, sự cố gắng nỗ lực của bản thân, với các
biện pháp trên tôi đã tiến hành thường xuyên và thực sự chu đáo nên năm học 2010
– 2011; 2011- 2012, theo chủ quan đánh giá của tôi đã thu được một số kết quả sau:
- Các em học sinh trong lớp đều rất thích học Lịch sử và thích được gọi trả lời,
nêu cảm nghĩ trong giờ học Lịch sử, khơng khí những tiết Lịch sử rất sơi nởi.
- Các em được phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, hứng thú trong các
giờ học, được tự tìm ra kiến thức mới dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Từ đó bồi
dưỡng cho các em lịng u q hương, đất nước, lịng tự tơn, tự cường dân tộc.
- Chất lượng học Lịch sử của lớp được nâng cao rất nhiều. Hiện tại, 100% học
sinh trong lớp đã biết sử dụng sách giáo khoa, biết khai thác hiệu quả kênh chữ, kênh
hình phục vụ cho bài học. Học sinh nắm vững các kiến thức lịch sử nước nhà, bộc lộ
được thái độ tình cảm đối với các nhân vật, sự kiện lịch sử đã học, tự rút ra được cho
mình bài học, ý chí quyết tâm, kiên cường trong cuộc sống ... Trong các lần kiểm tra,
- 22 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

các em thường đạt điểm cao. Ngay cả những em học sinh vốn học yếu, nhưng nhờ
học tập có phương pháp và được các bạn giúp đỡ nên các em có tiến bộ rất nhiều.
Chất lượng này được thể hiện qua kết quả như sau: (Do môn Lịch sử và Địa lí kiểm
tra trên cùng một bài thi, thang điểm mỗi phần là 5 điểm. Để tiện theo dõi, tôi đã lấy
riêng điểm phần Lịch sử nhân theo hệ số 2 thành thang điểm 10)
Năm
học

20102011


20112012

Tổn

Lần kiểm

g số

tra

Điểm 9-10
SL

HS

Cuối HKI

8

CuốiHKII

12

Cuối HKI

10

CuốiHKII

15


30

28

%

26,6
6
40
35,7
2
53,5
7

Điểm 7-8

Điểm 5-6

SL

%

SL

11

36,67

8


13

43,33

5

8
11

28,5
7
39,2
8

9
2

%

26,6
6
16,6
7
32,1
4
7,14

Điểm 4 trở
xuống

SL
%

3

10

0

0

1

3,5
7

0

0

- Trong năm học này, năm học 2012 - 2013, tôi tiếp tục thực hiện áp dụng đề
tài trên, đến thời điểm này, theo đánh giá của bản thân, tơi thấy các em có tiến bộ rõ
rệt về kĩ năng học lịch sử và một điều quan trọng là các em sẵn sàng đón nhận giờ
Lịch sử với tâm thế hào hứng, ngay cả những em vốn học yếu và nhút nhát cũng đã
mạnh dạn xung phong trả lời và trả lời tương đối tốt.
 Từ kết quả thu được thông qua bảng thống kê trên, và qua thực tế giảng
dạy, tôi thấy rằng đề tài đã đem lại kết quả tương đối khả quan. Kết quả này cho thấy
các biện pháp được đề xuất trong đề tài mang tính khả thi. Những tiết dạy thực hiện
các biện pháp đã nêu được tổ khối chuyên môn đánh giá cao. Nếu đề tài được thực
nghiệm một cách qui mô hơn, phạm vi rộng hơn, tôi tin rằng nó sẽ mang lại kết quả

cao hơn trong điều kiện thực tế của địa phương trường chúng tôi. Góp phần nâng cao
trình độ chun mơn, nâng cao chất lượng dạy – học của giáo viên và học sinh.

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- 23 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4



Kết luận

Một dân tộc phát triển là một dân tộc biết gìn giữ và phát huy những truyền
thống lịch sử. Nhiệm vụ ấy đang đặt nặng trên “đôi vai” ngành giáo dục nước nhà,
mà cụ thể là trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo chúng ta. Dạy học sinh biết, hiểu, tự
hào về những trang sử hào hùng của dân tộc là góp phần giữ gìn, phát huy những
truyền thống quý báu của dân tộc, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam thành một
khối đoàn kết vững chắc.
Có được kết quả như trên, bên cạnh sự nỗ lực của giáo viên, ý thức vươn lên
trong học tập của học sinh cịn có sự chỉ đạo đúng hướng, nhiệt tình, sát sao của Ban
Giám hiệu nhà trường, của lãnh đạo các cấp. Chính vì vậy mà giờ Lịch sử khơng
phải là giờ học khó, giúp các em phấn khởi, tích cực, tự tin trong học tập, giúp chất
lượng môn Lịch sử được nâng cao, làm nền tảng cho khả năng học Lịch sử sau này
của các em ở những cấp học cao hơn.
Để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức Lịch sử tốt, không chỉ dạy học lịch sử
trong giờ Lịch sử mà tơi cịn kết hợp giảng dạy trong các tiết Tập đọc, Kể chuyện,
Đạo đức, …
 Kiến nghị:

Để các biện pháp trên được thực hiện có hiệu quả, tơi xin đề xuất một số kiến
nghị sau:
- Cần quan tâm bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ giáo viên về mặt kiến thức
cũng như chuyên môn để đội ngũ giáo viên có đủ khả năng, trình độ đáp ứng được
những yêu cầu đòi hỏi trong giai đoạn mới hiện nay.
- Bổ sung thêm đồ dùng dạy học: Băng đĩa , tranh ảnh, máy chiếu đa năng,...
để giáo viên học hỏi, vận dụng vào tiết dạy đạt kết quả tốt hơn.
- Tổ chức các buổi giao lưu, ngoại khóa để động viên phong trào học tập lịch
sử cho học sinh.
- Về phía giáo viên cũng cần nghiên cứu, tham khảo thêm các tài liệu có liên
quan đến dạy và học môn Lịch sử. Lập kế hoạch và điều chỉnh dạy học phù hợp với
điều kiện cơ sở vật chất, trình độ học sinh lớp mình. Mạnh dạn áp dụng các phương
- 24 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


SKKN/ Lích sử 4

pháp dạy học mới vào giảng dạy. Phải đầu tư sức lực, trí tuệ cho cơng tác soạn
giảng, có soạn tốt thì mới dạy tốt.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về việc dạy học lịch sử cho học sinh
lớp 4 nhằm nâng cao chất lượng dạy môn Lịch sử. Đề tài đã được thực hiện bằng sự
nỗ lực cố gắng hết sức của bản thân tôi, cùng với sự chỉ đạo của Ban giám hiệu, sự
giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp. Tuy nhiên, do thời gian và năng lực bản thân còn
hạn chế nên khơng tránh khỏi những thiếu sót. Tơi rất mong được sự góp ý, chỉ bảo
của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp để đề tài được được hồn thiện hơn,
góp phần nâng cao chất lượng dạy và học mơn Lịch sử, góp phần giáo dục học sinh
trở thành con người phát triển toàn diện, xứng đáng là những chủ nhân tương lai của
đất nước.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !


- 25 –
GV: Nguyễn Thị Huyên. Trường Tiểu học Ngọc Liên. Cẩm Giàng- Hải Dương


×