Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn một số biện pháp nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 15 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐÊ
Năm học 2016-2017 là năm thứ ba thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của
BCH TW Đảng (Khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Phát triển phẩm chất, năng lực của từng học sinh
là một trong những nhiệm vụ mà Nghị quyết đề ra.
Năm học 2016-2017, cùng với sự ra đời của thông tư 22- sửa đổi của thông tư
30 về đánh giá học sinh tiểu học, ngành giáo dục và đào tạo đã có nhiều giải pháp
học tập, quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện theo thông tư và tiếp tục thực hiện
theo Nghị quyết 29, nội dung đổi mới được thực hiện từ Bộ GD&ĐT cho tới mỗi
cơ sở giáo dục. Nằm trong lộ trình đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm
tra, đánh giá ở các trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực, phẩm
chất của từng học sinh trên tinh thần của Nghị quyết, Bộ GD&ĐT chỉ đạo các cơ
sở giáo dục khuyết khích giáo viên dạy học theo hướng phát huy tích cực và phát
triển năng lực, phẩm chất của từng học sinh.
Không những thế, một trong những nhiệm vụ của xây dựng “Trường học thân
thiện, học sinh tích cực” hiện nay của trường tiểu học là phải xây dựng môi trường
dạy học an toàn, tổ chức các hoạt động dạy học ở trường tích cực giúp học sinh
“Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
Bên cạnh đó, Ban lãnh đạo trường Tiểu học Nghi Hương luôn đề cao phương
châm: dạy chữ kết hợp dạy người; phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự tin, mạnh
dạn, dám nghĩ, dám làm của mỗi giáo viên, mỗi học sinh trong nhà trường; tăng
cường đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo bước chuyển mới về chất lượng
giáo dục, với mục đích tạo niềm cảm hứng cho học sinh, phát triển tối đa năng
lực, phẩm chất của từng học sinh trong lớp.
Đứng trước những yêu cầu đó, nhiệm vụ đặt ra cho tất cả người giáo viên
trong nhà trường nói chung và bản thân tôi nói riêng: bên cạnh truyền đạt kiến thức
thì việc giúp các em phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo trong học tập, tạo
môi trường học tập tích cực, thân thiện cũng vô cùng quan trọng, giúp từng học
sinh trong lớp phát triển năng lực, phẩm chất của mình một cách bền vững. Nhiệm
vụ này góp phần không nhỏ trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục hiện nay. Vì thế


trong dạy học tôi luôn chú ý nhiều đến sự phát triển năng lực, phẩm chất của từng
học sinh trong lớp. Đó cũng là lí do tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm “ Một số
biện pháp nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh lớp 4”.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
1. Thực trạng vấn đề:
Như chúng ta đã biết, đất nước ta đang trong giai đoạn mở cửa, hội nhập với
các nước trên thế giới. Nền khoa học thế giới lại đang chuyển động và phát triển
đến độ chóng mặt và có sự cạnh tranh quyết liệt. Nó đang đòi hỏi cần có gấp
những con người lao động đầy bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm, tự tin, quyết đoán,
thích ứng với mọi hoàn cảnh của xã hội đang trở mình. Bên cạnh việc tiếp nhận
các thành tựu khoa học - kĩ thuật hiện đại từ các nước thì các nguồn văn hóa ngoại
lai cũng ồ ạt xâm nhập vào từng góc phố, làng quê. Khoa học kĩ thuật phát triển, cả
thế giới đang chạy theo trào lưu sử dụng công nghệ thông tin. Nhiều thông tin
được chuyển tải trên các phương tiện nghe nhìn, các trang báo điện tự, các trang
mạng xã hội và được nhiều người tham gia như: Facebook, Zalo, Tango,...Không ít
người bị mê hoặc và sử dụng công nghệ thông tin không đúng mục đích. Người
học đang dần xa rời truyền thống, quên lãng lịch sử. Thật đau lòng khi nghe những
chủ nhân tương lai của đất nước trả lời “Quang Trung - Nguyễn Huệ” là “hai cha
con, hai anh em, hai người bạn....”. Thật đau lòng trước những vụ án thương tâm
chỉ vì những lí do rất đơn giản. Thật xót xa trước những cuộc ẩu đả giữa những học
sinh nữ với nhau. Đó cũng là những hồi chuông cảnh báo sự cần thiết của việc giáo
dục kĩ năng, giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ.
Đầu năm học 2016- 2017, tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 4Bmột lớp đại trà, tôi nhận thấy các em đã bước đầu biết tự học, tự quản và tự thực
hiện các hoạt động học tập theo tài liệu, đã có những biểu hiện tích cực về phẩm
chất cần thiết của người học sinh song những năng lực và phẩm chất đó chỉ thể
hiện ở một số em và mức độ thể hiện chưa rõ, chưa nổi bật. Nhiều em có năng lực

nhưng chưa mạnh dạn, thiếu tự tin trước tập thể hoặc khả năng tự học, tự giải quyết
vấn đề của bản thân cịn hạn chế, cịn phụ tḥc vào sự nhắc nhở, hướng dẫn của
cô giáo, bố mẹ...Trao đổi với đồng nghiệp, tôi biết đây là vấn đề chung ở nhiều lớp,
nhiều trường chứ không riêng gì ở lớp tôi. Để khắc phục vấn đề này không phải dễ
vì các em đã thành thói quen từ lâu rồi. Đã là thói quen thì việc khắc phục không
thể một sớm, một chiều mà nó phải trải qua một quá trình lâu dài, bền bỉ, kiên trì
của tôi, của gia đình các em, của xã hội và của cả chính các em học sinh.
Những thực trạng trên là những cơ sở để tôi đề ra những biện pháp thực hiện
trong năm học này.
2. Các biện pháp thực hiện:
Phẩm chất và năng lực là hai thành phần cơ bản trong cấu trúc nhân cách nói
chung và là yếu tố nền tảng tạo nên nhân cách của một con người. Các năng lực và
phẩm chất của học sinh được hình thành và phát triển trong quá trình học tập, rèn
luyện, hoạt động trải nghiệm cuộc sống trong và ngoài nhà trường. Các năng lực và
phẩm chất cần thiết đối với HS tiểu học là tự phục vụ, tự quản; năng lực tự học;
năng lực tự giải quyết vấn đề và sáng tạo; năng lực hợp tác, năng lực tính toán;
2


năng lực công nghệ thông tin và truyền thông...; tự trọng, tự tin, tự chịu trách
nhiệm; trung thực, kỉ luật; chăm học, chăm làm, thích hoạt động văn nghệ, thể dục
thể thao hoặc thái độ, tình cảm đối với cuộc sống...Để phát triển được các năng lực
và phẩm chất đó, qua quá trình dạy học bản thân tôi đã rút ra những biện pháp sau:
Biện pháp 1: Thành lập Hội đờng tự quản, xây dựng nợi quy lớp học, trang
trí mơi trường lớp học và phát huy vai trị của Hợi đờng tự quản, tác dụng của
các góc đã trang trí .
Theo mơ hình trường học mới, Hợi đờng tự quản là tổ chức của học sinh, vì
học sinh, do học sinh bầu ở từng lớp, dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Hội đồng
tự quản được thành lập một cách dân chủ và tự nguyện, do học sinh tự đứng ra tổ
chức, điều hành mọi hoạt động tự quản của lớp học. Hoạt động tự quản góp phần

giúp học sinh hình thành tính tự chủ, tinh thần đoàn kết, hợp tác lẫn nhau; giúp học
sinh hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình; rèn luyện các kĩ năng điều hành,
lãnh đạo, kĩ năng đánh giá, kĩ năng tổ chức, kĩ năng ra quyết định,...trong các hoạt
động ở lớp. Hiểu rõ được mục đích của việc thành lập Hội đồng tự quản, ngày từ
đầu năm học, tôi đã dành trọn một buổi học để hướng dẫn và tổ chức cho các em
thực hiện. Hội đồng tự quản gồm 1 Chủ tịch, 2 phó chủ tịch và các ban chuyên
trách. Số lượng các ban do học sinh trong lớp quyết định. Khi đã thành lập được
Hội đồng tự quản, tôi tổ chức tập huấn cho các em những kĩ năng cơ bản, cho các
em biết được vai trò, nhiệm vụ cụ thể của mình. Từ đó, tôi mạnh dạn giao cho Hội
đồng tự quản thực hiện các nhiệm vụ quản lí lớp, duy trì tổ chức sinh hoạt lớp, giờ
chào cờ đầu tuần; khuyến khích các em tích cực tham gia trang trí lớp, tự tổ chức
các hoạt động vui chơi, đăng kí tham gia các câu lạc bộ. Tôi không làm thay, làm
hộ học sinh mà chỉ đóng vai trò là người theo dõi, kiểm tra và tư vấn giúp đỡ. Cuối
mỗi tuần tôi đều tổ chức sinh hoạt lớp để các em tự đánh giá những việc làm được
và những việc chưa làm được. Qua đó các em có cơ hội bộc lộ khả năng điều hành,
khả năng hợp tác, xây dựng ý kiến của bản thân, rèn luyện các phẩm chất, năng lực
cần thiết.
Muốn xây dựng một ngôi nhà bền vững, chắc chắn phải có nền móng kiên cố,
vững chắc. Để xây dựng một lớp học thân thiện, học sinh tự tin mạnh dạn, hịa
đờng, ta cũng phải xây dựng một nề nếp lớp đảm bảo đúng kỉ cương, tình thương,
trách nhiệm. Đồng thời với việc thành lập và phát huy vai trị của Hợi đờng tự
quản, ngay những ngày đầu nhận lớp, tôi ổn định nề nếp lớp bằng cách tổ chức cho
các em thảo luận để xây dựng nội quy lớp học theo Nên - Khơng nên. Phịng trào
thi đua về các mặt: học tập, nề nếp - kỉ luật, vệ sinh, văn nghệ - thể dục thể thao, an
toàn giao thông ...cũng được phát động. Như vậy, những hoạt động trên đã góp
phần tạo niềm đam mê trong những ngày đầu đến lớp của học sinh, các em đã được
phát triển những phẩm chất và năng lực cần thiết.
Để phát huy được tối đa vai trị của Hợi đờng tự quản và tất cả những học sinh
trong lớp, đồng thời vận dụng được sự giúp đỡ, đồng hành của phụ huynh học sinh,
tôi đã tổ chức trang trí lớp học. Lớp học được trang trí theo các góc: góc học tập,

3


góc sinh nhật, hộp thư vui, hội đồng tự quản, nội quy lớp học, thư viện tự quản,
nhật kí lớp học...Chính những góc trang trí đó vừa tạo cơ hội cho các em thể hiện
năng khiếu, khả năng sáng tạo, óc thẩm mỹ, bàn tay khéo léo,...vừa là công cụ để
Hội đồng tự quản hoạt động, vừa tạo môi trường thân thiện, đẹp mắt khích thích
hứng thú, niềm vui đến lớp của các em.

Biện pháp 2: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học
tích cực
Người thầy giáo có thể say mê giảng bài suốt 40 phút của một tiết học mà
không có cảm giác mệt mỏi. Nhưng với học sinh việc tập trung nghe thầy giảng bài
suốt 40 phút trong một buổi học thường có từ 3 - 4 tiết học lại không phải là điều
dễ dàng. Hiện tượng uể oải, ngáp vặt, ngủ gục, nói chuyện riêng trong lớp sẽ diễn
ra. Vậy để một tiết học diễn ra nhẹ nhàng, sinh động, thu hút sự chú ý của học sinh
và đem lại hiệu quả cao, tôi luôn lưu ý những điểm sau đây:
+ Bao quát tốt lớp học để nhận biết đối tượng học sinh thiếu tập trung hoặc
có tâm trạng không tích cực do tác động của hoàn cảnh khách quan (có chuyện
không vui trong gia đình, sức khỏe kém, cơ thể mệt mỏi), từ đó lường được thái độ
nóng giận ảnh hưởng chung tới sinh khí của cả tập thể; Không rập khuôn theo một
trình tự mà học sinh đã quá quen thuộc; Linh hoạt thay đổi khẩu khí, thay đổi cách
thức hỏi, giảng giải đối với học sinh; Tăng tính trực quan sinh động bằng trình
chiếu hh́ình ảnh, minh họa đúng lúc, đúng chỗ; Vào đầu mỗi tiết học, tôi chuẩn bị
một câu chuyện nhỏ để kể cho các em nghe nhằm tạo động lực học tập ở các tiết
tiếp theo. Cũng có thể cho các em khởi đợng bằng các trị chơi hoặc một bài
hát...Nếu bài hôm đó khó tiếp thu hay nét mặt các em thể hiện sự mệt mỏi. Lúc đó,
tơi tở chức mợt trị chơi tại chỡ để các em lấy lại hứng thú. Nếu có em làm bài chưa
đạt nên buồn, chán nản thì tôi động viên bằng những câu tục ngữ, ca dao, thành
ngữ có trong chương trình để thổi vào tâm hồn em một luồng sinh khí nhằm làm

xua tan chán nản, rụt rè và đánh thức niềm đam mê trong học tập của em... Chẳng
hạn: “Thua keo này bày keo khác”, “Thất bại là mẹ của thành công”, “Chớ thấy
sóng cả mà rã tay chèo”,...Như vậy vừa động viên, vừa giúp các em biết cách vận
4


dụng bằng những kiến thức đã học vào trong thực tế để giúp câu chuyện trở nên
hấp dẫn, tạo sự hưng phấn cho các em. Kinh nghiệm cho thấy, để giúp các em thích
học thì tôi luôn dùng lời động viên hết mình là chính. Trong đó, tôi luôn đề cao
tính tự học, tự thi đua giữa các em với nhau nên các em rất thích. Đặc biệt khi
luyện đọc đúng hoặc đọc hay trong môn Tiếng Việt, tôi hay sử dụng câu “con thi
đọc với bạn A, B, C,… xem ai đọc đúng và hay hơn nhé?” thì nét mặt các em vui
và sẵn sàng chấp nhận một cách rất tự nhiên và tích cực. Thậm chí có nhiều em
nhanh nhảu tự giác bắt cặp, chọn người để thi đọc. Lúc đó, tôi thấy tiết học nhẹ
nhàng nhưng học sinh hoạt động tích cực, bằng chính những năng lực của mình và
hiệu quả tiết dạy cũng đạt cao hơn. Hoặc trong môn Toán: để ôn dạng bài cơ bản,
học sinh có nhiệm vụ giao bài tập cho bạn làm bài rồi kiểm tra nhau. Học sinh
thường xuyên tự kiểm tra những kiến thức mà các em vừa học hoặc học đã lâu để
giúp nhau tiến bộ. Thời gian kiểm tra do các em tự quy định với nhau. Và đặc biệt
nên cho các em phải kiểm tra qua lại với nhau, nhằm tạo tính thân thiện, công
bằng, không có em nào tự cảm thấy là mình quá tệ. Mà ngược lại, em nào cũng có
sự hãnh diện riêng vì được giúp bạn. Làm thế, tôi thấy các em rất hứng thú học tập,
vì em nào cũng muốn thể hiện năng lực của mình.
+ Vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học tích cực. Không
có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy
học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhựơc điểm và giới hạn
sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy
học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính
tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm và dạy
học cá thể là những hình thức của dạy học tích cực cần kết hợp với nhau, mỗi một

hình thức có những chức năng riêng. Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành
động của của giáo viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực
hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ
nhất của phương pháp dạy học. Có những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ
thuật đặc thù của từng phương pháp dạy học, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm
thoại. Ngày nay người ta chú trọng phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học phát
huy tính tích cực, sáng tạo của người học như “động não”, “tia chớp”, “bể cá”,
XYZ, Bản đồ tư duy…Đây là các phương pháp, kĩ thuật dạy học tương đối dễ áp
dụng ở tiểu học, khơng địi hỏi phải đầu tư nhiều phương tiện, đờ dùng học tập,
song lại là cơ hội tốt để các em rèn kĩ năng hợp tác, kĩ năng chia sẻ, lắng nghe, óc
tư duy, kĩ năng ra quyết định.
+ Triển khai thực hiện dạy học môn Khoa học theo phương pháp dạy học
“Bàn tay nặn bột”: Đây là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm
nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên. “Bàn tay nặn
bột” chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm
tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong
cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát nghiên cứu tài liệu hay điều
tra...Mục tiêu của phương pháp “Bàn tay nặn bợt” là tạo tính tị mị, ham ḿn
5


khám phá và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức
khoa học, phương pháp “Bàn tay nặn bợt” cịn rèn lụn kỹ năng diễn đạt thông
qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh. Đứng trước một sự vật, hiện tượng, học
sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các hiểu biết từ những giả thuyết ban đầu, tiến hành
các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông
qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức. Từ việc tự thực hiện các hoạt
động học tập giúp học sinh tự khám phá, phát triển tư duy sáng tạo để các em tự
phát hiện, chiếm lĩnh kiến thức của bài học. Thông qua hoạt động hợp tác cùng các
bạn, giúp các em hình thành tốt các kỹ năng như thảo luận, tổ chức, hành động,

tranh luận, thực hành... Trên cơ sở đó hình thành và phát triển cho học sinh năng
lực tự học, tự phát hiện tri thức và chiếm lĩnh tri thức một cách bền vững.

Thảo luận nhóm 4

Tìm hiểu tính chất của nước theo
PP “Bàn tay nặn bột”

Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh học theo hướng tự phát hiện kiến thức:
Trong quá trình dạy học trên lớp, giáo viên có thể thực hiện theo trình tự:
+ Giúp học sinh nắm được mục tiêu nhiệm vụ học tập; Tự mình giải quyết
nhiệm vụ học tập;
+ Khi gặp khó khăn mới trao đổi với bạn (khi đó nhóm học tập hình thành
một cách tự nhiên theo nhu cầu của chính các em).
+ Các bạn trong nhóm trao đổi bài kiểm tra cho nhau, nói cho nhau kết quả,
cách làm của mình.
+ Báo cáo kết quả học tập trước lớp cho các bạn và cô giáo; thực hiện nhiệm
vụ học tập mới.
Trong khi học sinh học, tôi chọn vị trí thích hợp quan sát thái độ, cử chỉ nét
mặt để phát hiện em nào gặp khó khăn, kịp thời có biện pháp giúp đỡ. Nếu nhiệm
vụ học tập là vấn đề khó với đa số học sinh, tôi hướng dẫn chung với cả lớp. Để
học sinh thuận lợi trong trao đổi, tương tác, việc kê bàn ghế cần bố trí phù hợp.

6


Ngoài ra để hướng dẫn các em học tập theo hướng tự phát hiện kiến thức tôi
tạo cho học sinh có sự hứng thú trong học tập. Theo tôi, để học sinh có hứng thú
trong học tập không chỉ có làm tớt ở phần nợi dung của bài mà cịn phải làm tốt các
khâu như giới thiệu bài, củng cố bài.

+ Ở phần giới thiệu bài để tạo hứng thú cho các em ta cần có nhiều cách giới
thiệu bài khác nhau theo từng ngày, từng tiết để tránh sự nhàm chán, có thể vận
dụng những cách sau: Lấy mục đích, yêu cầu để giới thiệu; Tạo một cuộc hội thoại
nhỏ giữa giáo viên và học sinh về những vấn đề có liên quan đến nội dung bài học,
tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở và tích cực; Nêu một vấn đề có liên quan
đến nội dung bài để học sinh trải nghiệm, để huy động vốn hiểu biết của các em
vào việc tiếp nhận kiến thức mới; Kể một câu chuyện ngắn có liên quan đến bài
mới; Tở chức mợt trị chơi nhỏ có liên quan đến nội dung bài học để khởi động vào
bài mới; Đưa ra “câu đớ” địi hỏi học sinh làm xong bài sẽ trả lời;
+ Ở phần tìm hiểu nội dung bài: Để huy động tối đa sự tham gia tích cực và
phát huy tố đa năng lực của tất cả học sinh trong quá trình học tập, tôi thường tách
nhỏ câu hỏi. Đây là cách dẫn dắt học sinh nhận thức từng bước, từng chi tiết đến
tổng thể. Cách làm này giúp ta thực hiện dạy học phân hóa đối tượng học sinh
trong lớp và huy động nhiều học sinh tham gia tìm hiểu bài. Qua đó cũng giúp học
sinh tự nhận thức, chiếm lĩnh kiến thức theo từng bậc, từ dễ đến khó, từ cơ bản đến
phức tạp và luôn có bổ sung thêm câu hỏi phụ.
+ Ở phần củng cố bài: Thực tế cho thấy, nếu thực hiện tốt bước củng cố bài, ta
sẽ từng bước rèn luyện cho học sinh phương pháp tích lũy vốn kiến thức. Củng cố
kiến thức phải đảm bảo hai yếu tố sau: tái hiện và sáng tạo (vừa củng cố kiến thức
đã học vừa có sự liên quan đến kiến thức ngày mai để khêu gợi tính tị mị, đánh
đợng sự khám phá hứng thú học tập ở học sinh có năng khiếu). Trong một tiết học,
học sinh có thể thực hiện nhiều hoạt động, có thể làm nhiều bài tập, các em khó
lòng ghi hết những gì đã học. Do vậy, ta cần giúp các em tự rút ra và tự ghi nhớ
một số nội dung cốt lỏi của bài học cũng như ý nghĩa thực tiễn. Tôi thực hiện nhiều
cách làm để tránh sự nhàm chán. Cụ thể: Chốt theo nội dung, yêu cầu của bài học,
khắc sâu kiến thức, kĩ năng mà bài học yêu cầu; Đưa ra một số câu hỏi về ý nghĩa
của bài học, học sinh suy nghĩ và liên hệ thực tế; Tổ chức một số trò chơi học tập
để bước đầu học sinh biết vận dụng, thực hành kiến thức kĩ năng vừa học...
Với phương châm vừa học vừa chơi, trong nội dung trang trí lớp học, tôi cho
các em thoải mái trao đổi với nhau qua góc “Hộp thư vui”. Tôi thấy đây là một

hình thức rất tốt để các em được chia sẻ, tâm sự, và nêu lên những ý kiến, mong
muốn của bản thân mình với bạn bè, với cô giáo.
Với cách dạy học như trên tất cả các em học sinh có cơ hợi ḥịa nhập và được
thể hiện năng lực của mình, kể cả những học sinh yếu.

7


Biện pháp 4: Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ
thông tin hợp lý để hỗ trợ dạy học:
Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp
dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học.
Việc sử dụng các phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa phương
tiện dạy học và phương pháp dạy học. Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy
học mới cho các trường phổ thông từng bước được tăng cường. Tuy nhiên các
phương tiện dạy học tự làm của giáo viên, học sinh luôn có ý nghĩa quan trọng, cần
được phát huy. Trong mỗi tuần học, bản thân tôi luôn rà soát chương trình các môn
dạy, kiểm tra đồ dùng cần thiết trong các tiết học xem đồ dùng nào đã có, đồ dùng
nào cần bổ sung, đồ dùng nào giáo viên tự làm, đồ dùng nào có thể gởi ý để học
sịnh làm. Khi hoạt động này đã thành thói quen thì học sinh tự chủ động xem trước
bài, chuẩn bị bài bao gồm cả việc chuẩn bị đồ dùng học tập. Ví dụ khi học bài
“Tính chất của nước”, các nhóm trưởng sẽ chủ động phân công nhau đưa các đồ
dùng như muối, nước, đường, khăn bông, tấm nhựa...Chính việc làm này tạo tâm
thế chủ động, tự tin cho học sinh khi đến lớp.
Bên cạnh những đồ dùng dạy học thủ công, từ nhiều năm nay, tơi cịn vận
dụng mơ hình giảng dạy sử dụng bài giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác
như máy tính, máy chiếu … Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có thể coi là
những công cụ dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy
học truyền thống (tranh vẽ, bản đồ, mô hình,…) đến hiện đại (cassette,ti vi,…).
Hơn nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây dựng cẩn thận thì sẽ đem lại

hiệu quả hơn hẳn. Chẳng hạn khi mô phỏng một trận đánh lịch sử, trên bản đồ giấy
chỉ có thể diễn tả được bằng các mũi tên chỉ hướng tấn cơng, cịn trên phần mềm
có thể diễn tả được hình ảnh của các đoàn quân di chuyển, nên tạo được sự hấp dẫn
và học sinh có thể tiếp thu bài giảng dễ dàng hơn. Khác với các phần mềm giáo
dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần mềm dạy học, nó chỉ trợ giúp cho
việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử dụng là giáo viên, không phải là học
sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức vẫn dựa trên giao tiếp thầy – trị, chứ
khơng phải giao tiếp máy – người. Mặt khác, vì giáo viên là người trực tiếp điều
hành việc sử dụng phần mềm nên có thể khai thác tối đa được những kiến thức cần
chuyển tải trong phần mềm, tuỳ thuộc vào trình độ của học sinh và phương pháp
giảng dạy của giáo viên. Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu
quả đáng kể đối với các tiết dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những
ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống và của các công nghệ hiện đại.
Tóm lại, trong quá trình dạy học tôi đã khai thác triệt để các đồ dùng, thiết bị
dạy học đã có và tự làm, tăng cường các bài giảng trình chiếu để tạo hứng thú cho
học sinh, giúp các em ghi nhớ bài tốt hơn.

8


Biện pháp 5: Rèn kĩ năng sống thông qua các tiết học, chú trọng đề cao kịp
thời thành công của học sinh và khen ngợi đúng lúc
Phương châm của giáo dục là dạy chữ kết hợp dạy người. Rèn luyện khả năng
ứng xử hợp lí với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và các kĩ năng làm
việc trong nhóm. Đối với các bài dạy, tôi luôn giáo dục theo chủ đề, chủ điểm hoặc
theo nhân vật có tính cách tích cực, loại bỏ những tính cách không tốt thông qua
nhân vật có trong bài học. Giáo dục theo kiểu tích hợp nhưng phải tích cực bằng
các câu hỏi Ở lớp em đã làm gì để giúp đỡ bạn bè? Hoặc Ở lớp em đã làm gì để
giữ gìn lớp sạch sẽ?...Từ đó tôi biết đích thực các em trả lời thật hay không. Nếu
học sinh có làm thì tôi tuyên dương trước lớp. Sau khi tuyên dương, các em rất vui

và hãnh diện về việc làm có ích của mình. Khi đó niềm vui và hứng thú trong việc
học của các em được nhân lên bợi lần. Cịn đối với các tiết học ngoại khóa, ví như
tiết học về An toàn giao thông, cho học sinh xem một số hình ảnh về tai nạn giao
thông và yêu cầu học sinh nói về hậu quả của nó. Hướng dẫn học sinh biết cách
tham gia giao thông, ra sức thực hiện tốt an toàn giao thông. Hỏi trong lớp có em
nào đã thực hiện an toàn giao thông. Học sinh kể ra, từ đó giáo dục các em: khi
tham gia giao thông phải có văn hóa, đi bên phải, chạy xe hàng một, qua đường
phải biết xem trước, ngó sau, biết giúp đỡ cụ già, em nhỏ qua đường ... Nghĩa là
người thật gắn liền với việc thật.
Với các tình huống trên, tôi muốn đem đến cho các em biết sống đẹp, có văn
hóa. Từ đó, học sinh học tập được việc làm có ý nghĩa từ người bạn của mình. Khi
học sinh có cảm hứng trong học tập thì học sinh sẽ ra sức quyết tâm chứng tỏ với
tôi là mình không thua kém bạn, mà mình chưa nghĩ đến mà thôi. Nhân rộng thêm
ở lớp, các em sẽ sống “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”, biết “Sống có
trách nhiệm với bản thân, gia đình, nhà trường, xã hội, đất nước”.
Không những thế, việc thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp
giữa cô - trò, giữa trò - trò với nhau cũng sẽ tạo hứng thú cho học sinh, giúp các
em tự tin mạnh dạn hơn. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn, hịa với bầu khơng
khí thân ái, hữu nghị trong giờ học sẽ tạo ra sự hứng thú cả cô và trò. Chính vì vậy,
bên cạnh việc giáo dục có mục đích, tính kỉ luật, ý thức trách nhiệm cho học sinh,
chúng ta phải tổ chức cho học sinh có một cuộc sống ở trường thật hấp dẫn, thoải
mái, gần gũi, tạo được nhiều niềm vui, phấn khởi sao cho học sinh mỗi ngày đến
trường có nhiều niềm vui. Học sinh tiểu học có tính tò mò nhiều, rất thích khen và
được khen. Vì vậy cần chú trọng về mặt thành công của trẻ. Nếu các em học có
tiến bộ, làm bài tập tốt thì tôi tặng cho các em một lời khen. Chẳng hạn: Con học
có tiến bộ, cô rất vui hoặc con giỏi quá! Con giỏi lắm!...Như vậy, các em sẽ rất
thích. Khi các em mắc phải lỗi lầm hoặc học hành chưa tiến bộ, tôi thường dùng
những lời nói nhẹ nhàng nhằm khuyến khích các em là chính. Đặc biệt là những
học sinh yếu, tôi quan tâm nhiều hơn bằng cách giúp đỡ, lắng nghe các em nói,
động viên khen ngợi, khuyến khích các em, trân trọng những cớ gắng, dù vẫn cịn

nhỏ, phát triển cái ưu. Đối với những em chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao, tôi
9


không ghi nhận xét mà chỉ động viên. Hình thức đó, tạo cho các em có tâm thế
bình yên trong học tập.
Biện pháp 6: Tổ chức các hoạt động trải nghiệm:
Việc phát triển năng lực, phẩm chất và các kĩ năng sống cho học sinh không
chỉ được phát triển ở những tiết dạy trên lớp mà còn được phát huy mạnh qua các
hoạt động trải nghiệm, các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động tập thể.
Hoạt động trải nghiệm là hoạt động giáo dục, trong đó dưới sự hướng dẫn và tổ
chức của giáo viên, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt
động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội
với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm
chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Trải nghiệm sáng
tạo là hoạt động được coi trọng trong từng môn học; đồng thời trong kế hoạch giáo
dục cũng bố trí các hoạt động trải nghiệm sáng tạo riêng, mỗi hoạt động này mang
tính tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục, kiến thức, kỹ năng khác nhau.
Bằng hoạt động trải nghiệm của bản thân, mỗi học sinh vừa là người tham
gia, vừa là người thiết kế và tổ chức các hoạt động cho chính mình nên học sinh
không những biết cách tích cực hoá bản thân, khám phá bản thân, điều chỉnh bản
thân mà cịn biết cách tở chức hoạt đợng, tổ chức cuộc sống và biết làm việc có kế
hoạch, có trách nhiệm. Hoạt đợng trải nghiệm có vai trị quan trọng trong việc giáo
dục đạo đức, giáo dục truyền thống và hình thành nhân cách, rèn luyện kỹ năng
sống cho học sinh. Giáo viên được chủ động trong việc bố trí thời gian, nội dung
và hh́ình thức hoạt động theo điều kiện của lớp, của trường.
Khi tổ chức hoạt động trải nghiệm, tôi lựa chọn những nội dung phù hợp để
học sinh cả lớp được tham gia; khuyến khích, động viên, tạo cơ hội để các em
được bàn bạc từ khâu chuẩn bị đến khâu thực hiện và viết thu hoạch cho bản thân
sau mỗi hoạt động. Đặc biệt tôi tư vấn các em phân công công việc phù hợp cới sở

trường, năng khiếu của mỗi bạn để các em thuận lợi trong hoạt động và phát huy
được năng lực sở trường. Từ đó hình thành được ở các em năng lực phán đoán, óc
tổ chức, năng lực tổng kết đánh giá cũng như các phẩm chất tự tin, tự chịu trách
nhiệm, tinh thần hợp tác chia sẻ.
Ví dụ 1: Cuối tuần này, lớp dự định tổ chức một gian hàng để tham gia hội
chợ cùng với các lớp khác, tôi gợi ý để các em bàn bạc thảo luận xem mình cần
chọn những mặt hàng nào? Nguồn hàng lấy ở đâu ra? Sắp xếp gian hàng cần chuẩn
bị những gì? Ai là người bán? Khi bán hàng cần có thái độ ra sao? Khi người mua
chê, hoặc trả giá thấp thì xử lí thế nào? Dự đoán mặt hàng nào bán chạy nhất?...
Ví dụ 2: Trước kì nghỉ lễ Tết Nguyên Đán, tôi tổ chức cho học sinh tổng dọn
vệ sinh lớp học, thực hiện trồng cây và chăm sóc công trình măng non. Để thực
hiện hoạt động này, tôi đã tổ chức hội ý thảo luận để các em xác định sẽ phải làm
những công việc gì, cần những dụng cụ và vật liệu nào, phân nhóm ra sao.

10


Ngoài ra, tơi cịn tở chức các hoạt đợng vui chơi tập thể lành mạnh thông qua
các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp. Tôi “bày trận” ở những tiết hoạt động tập thể,
đa dạng về hình thức. Các em có thể đá bóng, chơi cầu lông, đọc truyện tranh, chơi
trị chơi dân gian: ơ ăn quan, cờ tướng, đá cầu, nhảy sạp...(chọn những trị chơi dân
gian bở ích, thiết thực)...Khi theo dõi các em chơi, tôi rất vui và đã chủ động tham
gia cùng các em. Khi tham gia các trị chơi bở ích, tơi để ý và phát triển năng lực
và sở trường từng em. Đây là việc làm hết sức quan trọng để tôi hiểu được mặt
mạnh của từng em, từng nhóm để có biện pháp giáo dục tích cực và toàn diện,
thông qua những niềm vui, niềm hân hoan hiện rõ trên khuôn mặt từng em.
Khuyến khích học sinh tham gia chủ động, tự giác.
Bên cạnh đó, tơi cịn tạo sân chơi lành mạnh, dựa vào chủ điểm tháng trong
chương trình:
- Tháng 9 tham gia “Vui Tết trung thu”, thi làm lồng đèn, trình bày và chọn

những sản phẩm đẹp và có ý nghĩa giáo dục, thi kể chuyện, hát về chị Hằng, chú
Cuội.
- Tháng 11: Phối hợp với giáo viên mĩ thuật tổ chức vẽ tranh về đề tài Ngày
Nhà giáo Việt Nam. Vật liệu là giấy, bút, màu...Các em tự làm, trình bày- trưng
bày- bình chọn. Ban giám khảo là các em, các em tự chọn sản phẩm đẹp, nhằm
phát triển tính sáng tạo, óc thẫm mĩ, thể hiện tình cảm tình thầy trò và trưng bày ở
góc nghệ thuật của lớp. Thi viết báo tường- những lời tri ân tới ngày Nhà giáo Việt
Nam. Thi văn nghệ, thi viết chữ đẹp trong lớp...
-Tháng 12: Phối hợp với Liên đội tổ chức các hoạt động theo chủ điểm về
truyền thống anh bộ đội Cụ Hồ như thi nghi thức đội, tổ chức cho các em tổng dọn
vệ sinh khu nghĩa trang liệt sĩ, dâng hoa, dâng hương tới nghĩa trang liệt sĩ.
-Tháng 1 và 2: Thi làm thiệp chúc mừng năm mới; kí cam kết đón tết an toàn.
Tổ chức cho cả lớp góp quỹ “Tết vì bạn nghèo”, đến thăm các bạn để thể hiện nét
tốt đẹp ngàn đời của dân tộc ta Thương người như thể thương thân.
- Tháng 3: Tổ chức làm thiệp chúc mừng để tặng bà, mẹ, cô giáo…Ngày 26/3
tổ chức cho học sinh thi “Rung chuông vàng”..
- Tháng 4: Tìm hiểu về ngày giải phóng miền Nam, mùa du lịch Cửa Lị..
- Tháng 5: Tở chức hái hoa dân chủ mừng ngày sinh nhật Bác và ngày thành
lập Đội thiếu niên Tiền Phong
Qua đó, tôi muốn giáo dục học sinh tham gia tốt những hoạt động xã hội, biết
đem đến niềm vui cho người khác, các phong trào đó chính là sân chơi lành mạnh,
cần thiết để các em được thể hiện mình. Nó còn là tiêu chí để tôi giúp các em học
sinh phát huy tối đa năng lực vốn có thực sự của mình ở trong học tập cũng như
trong mọi hoạt động. Sau khi trải nghiệm, tôi tổ chức cho các em ghi chép lại
những cảm xúc của mình.

11


Hoạt động Hội chợ quê


Thi trò chơi dân gian

Thi trò chơi dân gian

Vui Tết trung thu của học sinh lớp 4B

Hội diễn văn nghệ

Đọc sách sân trường

Thi Rung chuông vàng

Thi Vở sạch - chữ đẹp

Thi vở sạch - chữ đẹp

Hái hoa dân chủ tìm hiểu ngày
thành lập Đội TNTP
12


PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Những kết quả đạt được:
Những biện pháp trên được tôi áp dụng trong năm học này, bước đầu tôi nhận thấy, các em
học sinh lớp 4B có nhiều chuyển biến tích cực sau:

Đầu năm
Năng lực


Cuối năm

Hoàn
thành tốt

Hoàn
thành

Hoàn
thành tốt

Hoàn
thành

Tự phục vụ, tự quản

7/36

29/36

21/36

15/36

Giao tiếp, hợp tác

11/36

25/36


25/36

11/36

Tự học và giải quết các vấn đề

9/36

27/36

23/36

13/36

Phẩm chất

Đầu năm
Tốt

Đạt

Cuối năm
Tốt

Đạt

Đoàn kết, thương yêu

15/36


11/36

28/36

8/36

Tự tin, trách nhiệm

12/36

24/36

24/36

12/36

Trung thực, kỉ luật

19/36

17/36

26/36

10/36

Chăm học, chăm làm

12/36


24/36

25/36

11/36

- Hầu hết các em đều chủ động trong học tập, biết làm việc theo tài liệu học,
khơng cịn rụt rè, thiếu tự tin trong các hoạt động.
- Nhiều em phát huy được các năng lực sở trường: năng lực điều hành hoạt
động học tập và các hoạt động tập thể, năng lực tự quản, năng lực hợp tác, năng
lực đặt câu hỏi...
- Không khí lớp học vui vẻ, đoàn kết, hợp tác, học sinh hứng thú và có tinh
thần học tập tốt hơn, nhiều em chủ động đề xuất hoạt động tập thể theo các chủ
điểm. Kết quả học tập cao dần theo các kì.
2. Bài học kinh nghiệm
Trải qua những năm thực hiện kế hoạch “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” và thực hiện theo thông tư 30, thông tư 22 của Bộ GD&ĐT về đánh
giá học sinh tiểu học, tôi thấy mình đã có sự thành công nhất định với các biện
pháp đã đề ra. Trong năm học này, học sinh thích đi học, tự tin, mạnh dạn, chuyên
cần hơn, làm bài tốt hơn và lễ phép, trật tự hơn. Các em biết sống có trách nhiệm,
biết giúp đỡ bạn bè, kính trọng thầy cô và biết chia sẻ nhiều hơn. Chính những kết
quả trên là động lực để bản thân tôi không ngừng học hỏi để tiếp tục tìm ra những
13


biện pháp hữu hiệu hơn nữa, giúp các em học sinh phát huy tối đa năng lực, phẩm
chất vốn có và hình thành những năng lực, phẩm chất mới phù hợp với yêu cầu của
xã hội.
Nghề dạy học là nghề sáng tạo trong những nghề sáng tạo. Ngoài sáng tạo, tôi
cũng phải rèn luyện tính kiên nhẫn, luôn tìm ra những biện pháp phù hợp với từng

đối tượng học sinh. Quyết tâm biến những điều không thể thành có thể bằng những
phương pháp dạy học tích cực. Tất cả những điều này khơi dậy lòng ham học ở các
em, tạo cho các em một sự hứng thú thi đua trong học tập.
Chúng ta luôn tạo một môi trường thuận lợi và tốt nhất cho các em để các em
được phát tiển năng lực của mình và thấy rằng “Mỗi ngày đến trường là một niềm
vui”. Càng gần gũi các em thì mình sẽ thấy được ở thế giới quanh các em có nhiều
điều thú vị.
3. Kiến nghị, đề xuất
* Đối với cơng tác quản lí:
- Hiệu trưởng phải xây dựng văn hóa nhà trường, trọng tâm là mối quan hệ
thân thiện giữa các thành viên, đồng thời xây dựng môi trường học tập cho giáo
viên, từ đó giúp cho: giáo viên thay đổi → Giờ học thay đổi → Học sinh thay đổi
→ Trường học thay đổi.
- Cần có kế hoạch tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để giáo viên có
đủ phương tiện dạy học theo phương pháp mới.
- Tăng cường làm tốt công tác chỉ đạo, tổ chức cho giáo viên đi tham quan học
tập kinh nghiệm, hoặc mời giáo viên cốt cán, giáo viên giỏi cấp tỉnh, huyện của
trường bạn về trao đổi phổ biến tại trường trong điều kiện cho phép.
- Có chính sách, biện pháp thúc đẩy ý thức tự học ở mỗi người.
- Xây dựng kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động trải nghiệm cụ
thể, tích cực, phù hợp với học sinh tiểu học trong mỗi năm học.
* Đối với giáo viên:
- Cần mạnh dạn tự tin và chủ động chia sẻ với đồng nghiệp về những tình
huống, những khó khăn mình gặp phải trong quá trình dạy học trên lớp, những khó
khăn khi đánh giá học sinh để tích lũy được nhiều kinh nghiệm.
- Tích cực tự học và nâng cao trình độ nghiệp vụ của bản thân, góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục toàn trường.
- Dựa vào kế hoạch hoạt động dạy học và kế hoạch ngoài giờ lên lớp của
chuyên môn nhà trường, giáo viên chủ động xây dựng kế hoạch các tiết hoạt động
ngoài giờ lên lớp và hoạt động tập thể của lớp phù hợp với đối tượng học sinh, phát

huy triệt để năng lực, phẩm chất của của từng học sinh.

14


Trên đây là kinh nghiệm của tôi trong việc phát triển năng lực và phẩm chất
của học sinh tiểu học. Rất mong sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học và các
đồng nghiệp để bổ sung thêm những biện pháp và kinh nghiệm mới hữu ích hơn
trong dạy học hiện nay./.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Nghi Hương, ngày 28 tháng 5 năm 2017
Người thực hiện:

Võ Thị Thùy Dương

15



×