UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN NHƯ THANH
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG ĐỌC DIỄN
CẢM CHO HỌC SINH LỚP 4”
HỌ VÀ TÊN:
VŨ THỊ MAI
CHỨC VỤ :
GIÁO VIÊN
ĐƠN VỊ CÔNG TÁC : TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH TÂN I
SKKN THUỘC MƠN:
TIẾNG VIỆT
S¸ng kiÕn kinh nghiệm thuộc năm học: 2010 - 2011
1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI MỞ ĐẦU:
Tập đọc là một phân mơn của chương trình tiếng Việt bậc Tiểu học.
Đây là một phân mơn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Tiếng
Việt vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc,
một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh bậc Tiểu học.
Biết đọc ( đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm) giúp các em
học sinh có khả năng tiếp nhận kiến thức lên nhiều lần, giúp học sinh phát
triển tư duy, hình thành các phẩm chất tốt đẹp như : yêu cái thiện, cái đẹp, phê
phán cái xấu, cái ác...Từ đây, các em biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận
thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy; có những rung động tình cảm
và nảy nở nhiều ước mơ tốt đẹp trong cuộc sống,...
Đọc tốt, giúp các em học tốt các môn học khác và sử dụng được nhiều
nguồn thông tin quan trọng, bổ ích, lí thú. Do đó, đọc trở thành một địi hỏi cơ
bản đầu tiên đối với mỗi học sinh. Việc dạy đọc có hiệu quả là một trong các
yêu cầu cần thiết. Tuy vậy, qua thực tế giảng dạy ở trường Tiểu học Thanh
Tân 1, tôi nhận thấy rằng: việc dạy đọc (đặc biệt là phần luyện đọc diễn cảm)
bên cạnh những thành cơng, cịn gặp khơng ít những khó khăn và hạn chế.
Kết quả đọc của các em còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình
thành kĩ năng đọc. Ngay cả với đối tượng học sinh lớp 4 - là lớp mở đầu cho
giai đoạn thứ hai của bậc Tiểu học, nhưng còn nhiều em đọc bài chậm và sai
lỗi, số lượng học sinh biết đọc diễn cảm rất ít…Bên cạnh đó, một số giáo viên
cịn lúng túng khi hướng dẫn học sinh rèn đọc phần luyện đọc diễn cảm, nên
còn đặt ra nhiều câu hỏi như: cần đọc bài tập đọc với giọng như thế nào? Làm
thế nào để các em đọc hay, diễn cảm hơn? Khi đọc diễn cảm một bài văn, bài
thơ, một câu chuyện, đọc lời tác giả, lời nhân vật phải đọc như thế nào? Làm
sao để những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống của các em.v.v...Đó
cũng là những câu hỏi còn trăn trở của nhiều giáo viên khi giảng dạy phân
mơn Tập đọc ở Tiểu học. Chính vì vậy, nhằm bổ trợ thêm kiến thức về chun
mơn nghiệp vụ cho mình trong q trình dạy nói chung, dạy học mơn Tiếng
Việt ở Tiểu học nói riêng, tơi đã lấy việc tìm hiểu: “ Một số biện pháp rèn
luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
1. Thực trạng dạy- học phần luyện đọc diễn cảm trong phân môn Tập
đọc ở Trường Tiểu học Thanh Tân 1
Trường Tiểu học Thanh Tân 1 là một trường thuộc xã vùng sâu, vùng
xa của huyện Như Thanh. Do địa bàn xã rộng, nên trường chia thành nhiều
khu, cách xa nhau. Hơn 90% học sinh có bố mẹ sống bằng nghề trồng trọt,
khơng có nghề phụ nên đời sống kinh tế cịn rất nhiều khó khăn. Phần lớn
2
nhận thức của phụ huynh học sinh chưa cao, chưa ý thức được việc dạy dỗ,
tạo điều kiện quan tâm, giúp đỡ con cái mình học tập. Nhiều gia đình cịn có
tư tưởng phó mặc con cái cho nhà trường .
Một số ít gia đình có quan tâm đến con cái thì lại khơng biết cách dạy
hoặc do học sinh không chịu học. Mặt khác, phần lớn học sinh của trường
Tiểu học Thanh Tân 1 là người dân tộc thiểu số, vốn từ ngữ của các em rất
nghèo nàn do ở gia đình các em thường giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh
đó, có một số học sinh chuyển đến từ các huyện: Thường Xuân, Nông Cống,
Tĩnh Gia, Quảng Xương...bị ảnh hưởng rất nhiều của tiếng địa phương nơi
các em đã sinh ra. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục
của xã nhà.
Ở trường chúng tôi, mặc dù phân môn Tập đọc là môn học được chú
trọng nhiều trong quá trình dạy học của tất cả giáo viên nhưng phần luyện đọc
diễn cảm vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Điều này do nhiều nguyên
nhân: Từ việc xác định mục tiêu, nội dung chương trình SGK, vai trò của giáo
viên khi giảng dạy đến việc lĩnh hội kiến thức của học sinh.
Qua trò chuyện, trao đổi với giáo viên và học sinh, qua quan sát một số
giờ dạy phân môn Tập đọc của giáo viên, tơi nhận thấy rằng: Khả năng đọc
của học sinh cịn rất thấp, phần lớn các em mới chỉ đạt được ở mức độ đọc
trơn nhưng chưa đảm bảo được yêu cầu về tốc độ, âm lượng đọc, chưa ngắt
nghỉ hơi hợp lí và cịn đọc sai lỗi chính tả tương đối nhiều. Số lượng học sinh
biết đọc diễn cảm rất ít, thậm chí có nhiều lớp khơng có học sinh nào, ngay cả
ở các lớp 4- 5.
Kết quả kiểm tra đọc thành tiếng của học sinh khối lớp 4 năm học
2009- 2010( theo số liệu bài KTĐK giữa học kì II):
Mức độ đọc
Tổng số
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
học sinh
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
85
4
4,7%
14
16,5%
51
60%
16
18,8%
2. Kết quả rèn đọc diễn cảm của học sinh lớp 4A Trường Tiểu học
Thanh Tân 1:
Năm học 2010- 2011, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 4A, gồm có
29 học sinh, trong đó: Dân tộc (Thái, Mường): 14 em; Dân tộc Kinh : 15 em.
Đây là lớp thuộc khu chính- nằm ngay trung tâm của xã. Các em sống trên địa
bàn của các thôn: Tiền Tiến, Vườn Dâu, Tân Tiến, Tân Thành, Dồng Dẻ,
Đồng Lấm và một số học sinh của xã Yên Mỹ( huyện Nông Cống). Dẫu
khoảng cách về địa lý nằm bên cạnh nhau nhưng cách phát âm của các em
cũng có những điểm khác nhau (do đặc điểm về phương ngữ, q trình di
dân). Bên cạnh đó, các em cịn đọc sai ở nhiều âm, tiếng, từ; độ sai so với
chuẩn phát âm (chuẩn chính âm) là tương đối nhiều, nhất là đọc lẫn lộn ở
những từ ngữ có dấu hỏi, dấu ngã..... Kĩ năng đọc đúng, đọc nhanh chưa tốt
và tất nhiên đọc diễn cảm cũng không tốt.
3
Mặt khác, ý thức tự học, đọc sách báo của các em cũng rất ít nên hạn
chế tầm hiểu biết, hạn chế khả năng đọc các loại văn bản khác nhau nên cũng
ảnh hưởng đến việc đọc các bài học trong nội dung chương trình quy định.
Sau một thời gian giảng dạy ( từ giữa tháng 8 đến đầu tháng 10 năm
2010), tôi đã khảo sát khả năng đọc diễn cảm của học sinh lớp tôi, kết quả thu
được như sau:
Mức độ đọc
Tổng số
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
học sinh
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
29
1
3,4%
3
10,4% 12 41,4%
13
44.8%
Ở thời điểm khảo sát, mỗi mức độ đọc cần đạt được những yêu cầu cơ
bản sau đây:
* Tốt: Học sinh đọc trôi chảy toàn bài với tốc độ khoảng trên 75 tiếng/ phút,
phát âm đúng, rõ lời; ngắt nghỉ hơi đúng ở các dấu câu và giữa các cụm từ, có
ngữ điệu phù hợp với nội dung bài đọc.
* Khá: Học sinh đọc trơi chảy tồn bài với tốc độ khoảng 75 tiếng/ phút, phát
âm đúng, rõ lời; ngắt nghỉ hơi đúng ở các dấu câu và giữa các cụm từ, bước
đầu biết thể hiện giọng đọc phù hợp với nội dung bài đọc.
* Trung bình: Học sinh đọc trơi chảy tồn bài với tốc độ khoảng 70 - 75 tiếng/
phút, phát âm đúng, rõ lời; ngắt nghỉ hơi đúng ở các dấu câu.
* Yếu: Không đạt được một trong các yêu cầu trên.
Cùng với u cầu đó, tơi đã khảo sát khả năng đọc diễn cảm của học
sinh lớp 4B ( một lớp cùng khu trường), kết quả thể hiện như sau:
Mức độ đọc
Tổng số
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
học sinh
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
28
1
3,6%
2
7,1%
13
46,4%
12
42,9%
3. Nguyên nhân:
Sau khi khảo sát thực trạng, tơi tiến hành phân tích, thâm nhập thực tế
cuộc sống của các em và tìm ra những nguyên nhân dẫn đến tồn tại nêu trên
là: Phần lớn học sinh lớp tơi có hồn cảnh kinh tế cịn nhiều khó khăn, trong
đó có 3 em bố mất sớm, 4 em ở với ông bà( bố mẹ đi làm ăn xa). Nhiều gia
đình chưa thực sự quan tâm tới việc học tập của con cái, phó mặc mọi việc
cho nhà trường. Thời gian học của các em chủ yếu chỉ có một buổi ở trường,
cịn ở nhà gần như là khơng có, nên phần nào đó đã ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đến việc học tập văn hoá của các em (trong đó có phân mơn tập đọc
- phần luyện đọc diễn cảm).
Bên cạnh đó, lớp tơi có 48,3% học sinh là con em dân tộc thiểu số, rất
rụt rè trong giao tiếp với mọi người xung quanh nên vốn từ ngữ rất nghèo nàn.
ë gia đình, các em thường giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, khả năng phát triển
ngôn ngữ tiếng Việt của các em rất hạn chế. Có 6 học sinh chuyển đến từ
huyện Nơng Cống thì bị ảnh hưởng nhiều của cách phát âm địa phương nơi
4
các em đã sinh ra nên thường mắc lỗi khi đọc bài. Trong khi đó, việc chữa lỗi
cho học sinh của giáo viên chưa được tiến hành một cách thường xuyên và
triệt để trong tất cả các giờ học. Giáo viên thường sửa các lỗi mà sách giáo
viên gợi ý theo một lối mòn xáo rỗng, chứ chưa sửa được các lỗi mà thực tế
học sinh lớp mình mắc phải.
Một thực tế cho thấy, khả năng đọc diễn cảm của nhiều giáo viên còn
hạn chế do ảnh hưởng của phương ngữ. Trong khi đó, phần hướng dẫn đọc
diễn cảm (đọc hay) trong sách giáo khoa và sách giáo viên chưa thật cụ thể, rõ
ràng cho từng thể loại văn học; Chưa nêu yêu cầu cụ thể cần đạt được và các
biện pháp tiến hành rèn đọc diễn cảm... Nên việc rèn luyện kĩ năng đọc diễn
cảm cho học sinh là một vấn đề khó. Các em có đọc đúng- đọc nhanh, hiểu
được nội dung- ý nghĩa bài học thì các em mới từng bước tiến hành đọc diễn
cảm tốt. Trong khi đó thời gian dành cho phần luyện đọc diễn cảm trong một
tiết tập đọc lại ít( 5- 7 phút), không đủ để giáo viên hướng dẫn cụ thể cho học
sinh cách luyện đọc, học sinh chưa thẩm thấu hết được yêu cầu, ý nghĩa của
việc đọc diễn cảm (từ, ngữ, câu, đoạn, bài) trong một bài văn cụ thể thì đã hết
giờ. Vì vậy, số lượng các em được đọc ít và chỉ chú trọng vào các em đọc khá
giỏi với hình thức đọc lại bài, cịn học sinh trung bình, yếu thì dường như
khơng có.
Bên cạnh đó, cơng việc chuẩn bị cho việc luyện đọc diễn cảm trong
một giờ tập đọc cũng khá cơng phu như: phải có bảng phụ viết sẵn đoạn văn,
đoạn thơ cần luyện đọc, bút dạ, phấn màu, bút chì...nên giáo viên thường có
tư tưởng “ngại” vì mất nhiều thời gian, đa số giáo viên chỉ chuẩn bị đầy đủ đồ
dùng dạy học ở các tiết học có người dự giờ, cịn lại thì thực hiện dạy “chay”
nội dung này.
Vì vậy, luyện đọc diễn cảm trong giờ tập đọc ở bậc Tiểu học đã và đang
là vấn đề cần được quan tâm đúng mức, cần làm sáng tỏ, để tìm ra được
những biện pháp, hình thức dạy học có hiệu quả nhất cho từng thể loại văn
bản, từng bài học cụ thể, phù hợp với từng đối tượng học sinh, nhằm đạt được
hiệu quả giáo dục cao nhất trong mỗi giờ tập đọc ở Tiểu học.
5
B . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
Đứng trước thực trạng đó, tơi ln ln trăn trở, khơng ngừng tìm tịi,
học hỏi, tham khảo các tài liệu, kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp và
mạnh dạn đưa ra các giải pháp thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả đọc diễn
cảm cho học sinh lớp 4 như sau:
1. Nắm bắt khả năng đọc cũng như hoàn cảnh gia đình của từng học sinh
để có biện pháp phối hợp trong quá trình dạy học:
Việc biết được khả năng đọc của từng học sinh, thường xuyên liên lạc,
trao đổi với phụ huynh học sinh về kết quả học tập của các em giúp giáo viên
có được thơng tin ngược để điều chỉnh quá trình dạy học cho phù hợp và có
hiệu quả hơn. Đồng thời, biết thơng cảm và chia sẻ với những học sinh có
hồn cảnh khó khăn, giúp các em xoá bỏ được mặc cảm và biết vươn lên
trong học tập.
2. Giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy, mạnh dạn đổi mới
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp với từng đối
tượng học sinh.
Trước khi lên lớp, giáo viên phải đọc bài nhiều lần để đọc mẫu chuẩn
cho học sinh và hiểu thấu đáo nội dung bài đọc. Căn cứ vào đối tượng học
sinh của lớp mình, giáo viên phải lường trước những chỗ ngắt nhịp ở các câu
dài, những từ ngữ cần nhấn giọng ... Đồng thời phối hợp các phương pháp
dạy học thích hợp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động
luyện đọc.
3. Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học cần thiết cho tiết học.
Đây là bước quan trọng phục vụ cho giờ dạy mà lâu nay giáo viên
thường bỏ qua, chỉ chú trọng thực hiện khi có người đến dự giờ, thăm lớp.
4. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh một cách sáng tạo
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một việc làm
nhằm điều chỉnh các phương pháp, biện pháp dạy học cho phù hợp và có hiệu
quả hơn, nhất là với phân môn Tập đọc.
II . MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
Để nâng cao chất lượng dạy học phần luyện đọc diễn cảm – phân môn
Tập đọc cho học sinh lớp 4, tôi đã áp dụng những biện pháp rèn luyện kĩ năng
đọc diễn cảm cho học sinh như sau:
* Biện pháp 1: Giúp học sinh nắm chắc nội dung bài đọc:
Học sinh chỉ có thể đọc diễn cảm một đoạn hay một bài tập đọc khi đã
hiểu thấu đáo nội dung bài đọc đó. Vì vậy, việc giúp học sinh hiểu được nội
dung bài đọc là một việc làm rất quan trọng và cần thiết. Tôi đã hướng dẫn
học sinh tìm hiểu nội dung bài đọc bằng một hệ thống câu hỏi phù hợp với
6
trình độ nhận thức của học sinh (dựa vào các câu hỏi trong SGK). Sau khi học
sinh đã nắm vững nội dung bài học tôi hướng dẫn các em cách đọc thể hiện
nội dung đó.
Ví dụ:
Bài “Người ăn xin” – tập 1, trang 30
Tôi giúp học sinh hiểu:
- Đây là câu chuyện của một người ăn xin và một cậu bé qua đường.
- Hình ảnh người ăn xin: già lọm khọm, đôi mắt đỏ đọc, giàn giụa nước mắt,
đôi môi tái nhợt, áo quần tả tơi, xấu xí, bàn tay sưng húp, bẩn thỉu, giọng rên
rỉ cầu xin.
- Hành động của cậu bé: Lục tìm hết túi nọ đến túi kia nhưng khơng có gì để
cho ơng, đành nắm chặt lấy bàn tay ơng xin lỗi.
- Cậu bé khơng có gì cho ơng lão, cậu chỉ có tấm lịng. Ơng lão khơng nhận
được vật gì, nhưng q tấm lịng của cậu. Hai con người, hai thân phận, hoàn
cảnh khác xa nhau nhưng vẫn cho được nhau, nhận được từ nhau.
- Học sinh hiểu nội dung bài đọc: Ca ngợi cậu bé có tấm lịng nhân hậu, biết
đồng cảm, thương xót trước nỗi bất hạnh của ông lão ăn xin nghèo khổ.
Sau khi hiểu được nội dung bài đọc, tôi hướng dẫn các em đọc bài văn
với giọng nhẹ nhàng, thương cảm; lời cậu bé đọc với giọng xót thương ơng
lão; lời ơng lão xúc động trước tình cảm chân thành của cậu bé.
*Biện pháp 2: Đọc mẫu
Để giúp học sinh có thể đọc diễn cảm được một câu, một đoạn hay cả
bài tập đọc trước hết giáo viên ( hoặc một học sinh giỏi) phải đọc mẫu. Việc
đọc mẫu như vậy nhằm giới thiệu, gây cảm xúc, tạo hứng thú và tâm thế học
tập cho học sinh. Bài đọc mẫu chính là cái đích mà giáo viên đưa ra cho học
sinh luyện để đạt được. Vì vậy, việc đọc mẫu là rất quan trọng, yêu cầu người
đọc mẫu phải đọc thật diễn cảm để diễn đạt được đúng ý nghĩa và tình cảm
mà tác giả muốn gửi gắm trong bài tập đọc.
Ví dụ: Khi đọc mẫu bài “Con sẻ” ( tập 2, trang 90), giáo viên cần chuyển
giọng đọc một cách linh hoạt cho phù hợp với diễn biến câu chuyện:
- Đoạn 1: 2 câu đầu đọc với giọng kể khoan thai, 3 câu sau chuyển
giọng hồi hộp, tò mò.
- Đoạn 2 và 3: Tả sự đối đầu của sẻ mẹ và chó săn – cần thể hiện giọng
đọc hồi hộp, căng thẳng, nhấn mạnh các từ ngữ gợi tả hình ảnh sẻ già gan góc,
lao xuống cứu con bất chấp hiểm nguy.
- Đoạn 4 và 5: Nói lên sự ngưỡng mộ của tác giả trước tình mẹ con
thiêng liêng, hành động dũng cảm bảo vệ con của sẻ mẹ – cần đọc giọng
chậm rãi, thán phục, nhấn giọng những từ ngữ thể hiện sự bối rối của chó săn,
sự thán phục của tác giả.
*Biện pháp 3: Phân tích, giúp học sinh hiểu và thực hiện được các yêu
cầu về đọc diễn cảm trong một đoạn hay một bài văn cụ thể:
7
Đọc diễn cảm là hình thức đọc thành tiếng một cách rõ ràng, chính xác,
có ngữ điệu đọc phù hợp với nội dung văn bản, nhằm truyền cảm được nội
dung bài học đến người nghe. Do đó, sau khi giúp học sinh nắm vững nội
dung bài đọc, tôi hướng dẫn các em hiểu và thực hiện tốt các yêu cầu đọc diễn
cảm trong một đoạn hay một bài văn cụ thể được viết trên bảng phụ như sau:
a) Ngắt nghỉ giọng đọc đúng lúc, đúng chỗ, nhằm bộc lộ được ý tứ, nội
dung bài đọc:
Sau khi học sinh đọc đúng, rõ ràng, trơi chảy tồn bài tơi hướng dẫn học
sinh biết ngắt nghỉ hơi đúng ở các dấu câu và giữa các cụm từ. Cụ thể: nghỉ ít
hơn ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm; phải ngắt nghỉ hơi một cách tự
nhiên, tránh kiểu đọc nhát gừng .
Đối với các bài văn xuôi: chỗ ngắt giọng phải trùng hợp với ranh giới ngữ
đoạn, nên khi đọc phải dựa vào nghĩa của các tiếng, các từ để ngắt hơi cho
đúng, không được tách từ ra thành hai phần. Khi đọc một bài thơ, chỗ ngắt
nhịp phải tương ứng với chỗ kết thúc một tiết đoạn. Sự phân chia lời ở dạng
nói được hình thức hố bằng chỗ ngắt giọng, sự phân chia lời ở dạng viết
được hình thức hố bằng dấu câu. Chỗ ngắt giọng cũng là một căn cứ để
người nghe xác định được ý nghĩa từ vựng, ngữ pháp, nội dung bài đọc. Vì
thế, trước khi dạy một bài tập đọc cụ thể, ngoài việc giáo viên cần luyện đọc
diễn cảm cho thật chuẩn còn phải dự tính được những chỗ học sinh hay ngắt
giọng sai để xác định điểm cần luyện ngắt giọng.
Việc làm này tôi đã tiến hành theo mức độ từ thấp đến cao như sau: Thời
gian đầu, tôi treo bảng phụ ghi sẵn câu văn cần hướng dẫn, dùng bút dạ vạch
chỗ cần ngắt hơi, giáo viên đọc mẫu rồi yêu cầu học sinh luyện đọc cho đúng.
Khi học sinh đã đọc tốt hơn và được làm quen nhiều với cách ngắt, nghỉ hơi
tôi đã nâng dần yêu cầu lên bằng cách gợi ý để học sinh tự phát hiện và chỉ ra
chỗ cần ngắt hơi, tổ chức cho học sinh thảo luận để đi đến thống nhất, gọi một
học sinh khá giỏi đọc mẫu - giáo viên nhận xét, chỉnh sửa, sau đó yêu cầu học
sinh luyện đọc. Để thể hiện chỗ ngắt, nghỉ hơi tơi dùng kí hiệu: ngắt một nhịp
(/), ngắt hai nhịp (// ).
Ví dụ 1:
Đêm nay / anh đứng gác ở trại.// Trăng ngàn và gió núi bao la / khiến
lòng anh man mác nghĩ tới trung thu / và nghĩ tới các em.//
Anh mừng cho các em vui Tết trung thu độc lập đầu tiên / và anh mong
ước ngày mai đây,/ những tết trung thu tươi đẹp hơn nữa /sẽ đến với các em.//
(Trung thu độc lập - tập 1, trang 66)
Ví dụ 2:
Nhìn thấy gió/ vào xoa mắt đắng/
Thấy con đường/ chạy thẳng vào tim/
Thấy sao trời/ và đột ngột cánh chim/
Như sa,/như ùa vào buồng lái.//
Khơng có kính, /ừ thì ướt áo/
8
Mưa tn,/ mưa xối như ngồi trời/
Chưa cần thay,/ lái trăm cây số nữa/
Mưa ngừng,/ gió lùa / mau khơ thơi.//
(Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính- tập 2, trang 71 ).
b) Thể hiện nhịp điệu đọc phù hợp với nội dung bài học:
Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh ngắt giọng thể hiện đúng quan hệ
ngữ nghĩa- ngữ pháp còn cần phải dạy cho học sinh đọc đúng tốc độ, ngắt
giọng biểu cảm. Điều này thể hiện ở chỗ: khi đọc cần thay đổi nhịp điệu lúc
chậm rãi, lúc dồn dập khẩn trương; chỗ đọc nhanh hoặc ngừng lâu hơn bình
thường, hay chỗ dừng khơng do lơgíc ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc
nhằm gây ấn tượng về cảm xúc, nhằm tạo nên những chỗ ngừng “gây bão tố”,
tập trung sự chú ý của người nghe vào những từ ngữ sau chỗ ngừng, những từ
ngữ mang trọng âm ngữ nghĩa.
Ví dụ :
Sơng La / ơi sơng La
Trong veo / như ánh mắt
Bờ tre / xanh im mát
Mươn mướt / đôi hàng mi
Bè đi / chiều thầm thì
Gỗ lượn đàn thong thả.
(Bè xi sơng La- tập 2, trang 26).
Chọn cách ngắt nhịp “Sông La/ ơi sông La” để “ơi” được ngân dài tha
thiết, làm nổi bật cách nhân hố sơng La bằng cách gọi tên, giúp biểu hiện
tình cảm thân thương của tác giả với con sơng q hương... Cách so sánh
dịng sơng “ trong veo như ánh mắt” cũng có tác dụng đem đến cho sắc màu
trong xanh của nước sơng La tình cảm của con người. Vẫn nhịp 2/3 “ Bè đi/
chiều thầm thì” làm cho câu thơ sống động hơn với nhiều đối tượng được
miêu tả, nhiều hoạt động được lột tả và để không hạn chế thời gian “ Bè đi”
mà tạo một kết hợp bất thường “ chiều thầm thì” cho thời gian cất lên thành
lời, để âm điệu câu thơ bỗng vang động, ngân dài và bay bổng mê say...
c) Thể hiện cường độ đọc :
Tôi giúp học sinh hiểu: đọc chậm quá, nhanh quá hoặc đọc liến thoáng
đều làm cho người nghe khó theo dõi, khơng hiểu đúng và đầy đủ nội dung
của bài đọc. Âm lượng đọc (độ to nhỏ của giọng đọc) phải phù hợp, không
nhỏ quá hoặc to quá. Vì thế cần hướng dẫn học sinh điều chỉnh âm lượng đọc
ở từng từ ngữ, câu, đoạn, bài cho phù hợp với nội dung bài học và ẩn ý của
tác giả được gửi gắm sâu kín sau lớp vỏ ngơn từ.
Ví dụ 1:
Nịi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông / lạ thường.
Lưng trần phơi nắng / phơi sương
Có manh áo cộc, tre nhường cho con.
Măng non là búp măng non
9
Đã mang dáng thẳng / thân tròn của tre.
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu.
Mai sau,
Mai sau,
Mai sau,
Đất xanh / tre mãi xanh màu tre xanh.
( Tre Việt Nam - tập 1, trang 41)
Ở khổ thơ trên cần đọc với giọng nhẹ nhàng, tha thiết thể hiện được dụng ý
của tác giả trong cách ngắt nhịp, cách ngắt dòng độc đáo. Sự trùng điệp của
ba dịng thơ “Mai sau” có một giá trị biểu đạt đặc biệt: ý thơ âm vang bay
bổng, câu thơ gợi ra những liên tưởng phong phú. Ngày xưa đã có bờ tre
xanh, hơm nay rồi cả mai sau, mai sau nữa vẫn có bờ tre xanh. Dịng thơ cuối
cùng với ba từ “xanh” trong những kết hợp cú pháp đặc sắc (Đất xanh, xanh
màu, tre xanh) gợi một màu sắc trường tồn của tre Việt Nam, của con người
Việt Nam, của truyền thống cao đẹp về con người Việt Nam trong suốt chiều
dài hơn bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta...
Ví dụ 2 :
Cơng chúa nhìn chú hề, mỉm cười:
- Khi ta mất một chiếc răng, chiếc mới sẽ mọc ngay vào chỗ ấy. Khi ta cắt
những bông hoa trong vườn, những bơng hoa mới sẽ mọc lên. Có đúng khơng
nào?
Chú hề vội tiếp lời:
- Tất nhiên rồi. Khi một con hươu mất sừng, cái sừng mới sẽ mọc ra. Sau
khi đêm thay thế cho ngày, ngày lại thế chỗ của đêm.
- Mặt trăng cũng như vậy, mọi thứ đều như vậy…// - Giọng cơng chúa nhỏ
dần, nhỏ dần. Nàng đã ngủ.
(Có rất nhiều mặt trăng - tập 1, trang 168).
Khi đọc đoạn văn trên, cần thể hiện giọng đọc của chú hề nhẹ nhàng,
khôn khéo; lời công chúa hồn nhiên, tự tin, thông minh ( ở câu trước); giọng
đọc chậm rãi, nhỏ dần, nghỉ hơi lâu sau dấu ba chấm ( ở câu sau).
d) Thể hiện giọng đọc lên cao hay xuống thấp:
Để thực hiện được yêu cầu này, trong giờ tập đọc giáo viên không nên xem
nhẹ khâu nào ( từ đọc đúng- đọc hiểu- đọc diễn cảm ); thực chất cả ba q
trình đọc này có mối quan hệ chặt chẽ và biện chứng với nhau để đạt đến cái
đích cuối cùng trong một giờ tập đọc.
Tuy vậy, để học sinh có giọng đọc ( ngữ điệu) phù hợp, chính xác cần phải
thực hiện tốt kĩ năng đọc hiểu như: hiểu nghĩa từ, tìm được “từ khố”, “câu
khố” trong bài, tóm tắt được nội dung của đoạn, bài; phát hiện ra những yếu
tố văn và giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung. Cần chú ý đến các
biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng trong văn thơ như: nhân hố, so
sánh, điệp từ, điệp ngữ,...
Ví dụ 1:
10
Đọc những câu sau, lời dẫn chuyện đọc thấp, lời tên Chúa tàu giọng
đọc lên cao và giằn giọng, còn đọc lời bác sĩ Ly giọng đọc điềm tĩnh nhưng
dứt khốt:
Chúa tàu trừng mắt nhìn bác sĩ, qt:
- Có câm mồm không?
Bác sĩ điềm tĩnh hỏi:
- Anh bảo tôi phải không?
Khi tên chúa tàu cục cằn bảo “phải”, bác sĩ nói:
- Anh cứ uống rượu mãi như thế / thì đến phải tống anh đi nơi khác.
(Khuất phục tên cướp biển- tập 2, trang 66).
Ví dụ 2:
Trăng ơi... // từ đâu đến?
Hay từ đường hành quân
Trăng soi chú bộ đội
Và soi vàng góc sân.
Trăng từ đâu... // từ đâu?
Trăng đi khắp mọi miền
Trăng ơi, có nơi nào
Sáng hơn đất nước em.
( Trăng ơi ... từ đâu đến?- tập 2, trang 107)
Khi đọc hai khổ thơ trên cần đọc với giọng nhẹ nhàng, tình cảm. Cần
chú ý đọc đúng các câu hỏi: Trăng ơi...// từ đâu đến? Trăng từ đâu...// từ đâu?
nghỉ hơi dài sau dấu ba chấm và lên giọng ở cuối câu nhằm thể hiện sự ngạc
nhiên, ngưỡng mộ của nhà thơ đối với trăng.
e) Thể hiện sắc thái giọng đọc:
Thơng qua giọng đọc, người đọc có thể biểu hiện được những sắc thái tình
cảm đa dạng của con người như: buồn, yêu, ghét, lo lắng, hờn giận, khinh bỉ,
hóm hỉnh, phẫn nộ... phù hợp với từng thể loại văn học, nhân vật trong tác
phẩm và dụng ý của tác giả được gửi gắm sâu kín sau lớp vỏ ngơn từ.
Ví dụ 1:
... Cáo kia / đon đả ngỏ lời:
“ Kìa / anh bạn quý, xin mời xuống đây
Để nghe cho rõ tin này
Mn lồi mạnh yếu từ rày kết thân
Lịng tơi sung sướng mn phần
Báo cho bạn hữu xa gần đều hay
Xin đừng e ngại, xuống đây
Cho tôi hơn bạn, tỏ bày tình thân.”
Nghe lời Cáo dụ thiệt hơn
Gà rằng: “ Xin được ghi ơn trong lịng
Hịa bình gà cáo sống chung
Mừng này cịn có tin mừng nào hơn
Kìa, tơi thấy cặp chó săn
11
Từ xa chạy lại, chắc loan tin này.”
Cáo nghe, hồn lạc phách bay
Quắp đi, co cẳng chạy ngay tức thì.
Gà ta khối chí cười phì:
“ Rõ phường gian dối, làm gì được ai.”
( Gà Trống và Cáo- tập 1, trang 50)
Đoạn thơ trên cần đọc với giọng vui, dí dỏm, thay đổi sắc thái giọng
đọc một cách linh hoạt cho phù hợp với tâm trạng và tính cách từng nhân vật.
Lúc đầu, giọng cáo tinh ranh, xảo quyệt, giả giọng thân thiện. Cịn giọng gà
thơng minh, ăn nói ngọt ngào- giả vờ tin để hù dọa cáo. Đoạn sau, giọng đọc
thể hiện sự khiếp sợ của cáo khi nghe gà nói đến “ cặp chó săn”, phải bỏ chạy
để lộ mưu gian; cịn giọng gà lúc này hả hê, khối chí thể hiện sự vui mừng vì
đã lừa lại được cáo.
Ví dụ 2:
- Cậu làm trị gì đấy?
- Em nhặt cho đầy giỏ đây!
- Cậu không thấy đạn réo à?
Ga- vrốt trả lời:
- Có chứ, nó rơi như mưa ấy! Nhưng làm sao nào?
Cuốc- phây- rắc thét lên:
- Vào ngay!
- Tí ti thơi! Ga- vrốt nói.
( Ga- vrốt ngồi chiến lũy- tập 2, trang 80)
Khi đọc đoạn văn trên cần thay đổi sắc thái giọng đọc cho phù hợp với
nhân vật: giọng Cuốc- phây- rắc lúc đầu ngạc nhiên sau lo lắng; giọng Gavrốt ln bình thản, hồn nhiên, tinh nghịch.
g) Thể hiện nét mặt, điệu bộ trong khi đọc:
Khi đọc nếu biết thể hiện nét mặt, điệu bộ một cách tự nhiên, phù hợp
với nội dung văn bản thì sẽ góp phần tạo nên sự truyền cảm đối với người
nghe.
Ví dụ :
Bước vào phịng ơng nằm, em hoảng hốt thấy mẹ đang khóc nấc lên.
Thì ra ơng đã qua đời. “ Chỉ vì mình mãi chơi bóng, mua thuốc về chậm mà
ơng chết.”- An- đrây- ca ịa khóc và kể hết mọi chuyện cho mẹ nghe. Mẹ an ủi
em:
- Khơng, con khơng có lỗi. Chẳng thuốc nào cứu nổi ông đâu. Ông đã
mất từ lúc con vừa mới ra khỏi nhà.
Nhưng An- đrây- ca không nghĩ như vậy. Cả đêm đó, em ngồi nức nở
dưới gốc cây táo do tay ông vun trồng. Mãi sau này, khi đã lớn lên, em vẫn
ln tự dằn vặt: “ Giá mình mua thuốc về kịp thì ơng cịn sống thêm được ít
năm nữa!”
( Nỗi dằn vặt của An- đrây- ca, tập 1, trang 55)
12
Khi đọc đoạn văn trên cần thể hiện giọng đọc, nét mặt buồn bã, sự ân
hận, day dứt của An- đrây- ca trước cái chết của ông.
* Biện pháp 4: Tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả đọc của học sinh:
Trong giờ dạy Tập đọc, tôi thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả
đọc của học sinh nhằm động viên khuyến khích các em trong q trình học
tập, đồng thời điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp hơn. Sau mỗi lần
kiểm tra học sinh đọc tôi thường nhận xét, sửa lỗi và yêu cầu các em luyện
đọc ở mức độ cao hơn. Ngồi ra, tơi cịn tổ chức cho các em tự đánh giá lẫn
nhau để tạo ra khơng khí thi đua học tập ở trong nhóm, trong lớp. Bởi vì, khi
được tham gia vào việc nhận xét, đánh giá bạn đọc các em sẽ cảm thấy mình
là trung tâm của hoạt động học, các em sẽ phấn khởi và cố gắng hơn trong
học tập.
13
C. KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Sau một thời gian ( từ đầu tháng 10 năm 2010 đến cuối tháng 3 năm 2011)
áp dụng “ Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp
4” như đã trình bày ở trên, tơi thu được kết quả như sau:
- Đa số học sinh đã có ý thức sửa được lỗi sai của mình trong khi đọc.
- Số lượng học sinh đọc bài trôi chảy với tốc độ đảm bảo( khoảng 85- 90
tiếng/ phút), biết ngắt nghỉ hơi đúng giữa các dấu câu và giữa các cụm từ, biết
thể hiện giọng đọc phù hợp với nội dung bài đọc đã tăng lên.
- Giờ tập đọc đã trở nên sôi nổi, hấp dẫn các em hơn, nhiều em hăng hái,
xung phong đọc bài và phát biểu ý kiến nhận xét về kết quả đọc của bạn.
Với cách đánh giá khả năng đọc diễn cảm của học sinh như đã trình bày ở
phần thực trạng tơi tiến hành khảo sát, đánh giá, so sánh kết quả đọc của học
sinh lớp tôi với lớp bạn ( lớp 4B ), thể hin trong bng sau:
Lp
Tng s
hc sinh
29
4A
4B
29
28
Thi im
ỏnh giỏ
Đầu tháng
10/ 2010
Cuối
tháng
03/ 2011
Ci
th¸ng
03/ 2011
Tốt
SL TL(%)
Mức độ đọc
Khá
Trung bình
Yếu
SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%)
1
3 10,4 12 41,4
44,8
3
1
3,4
5
17,3
9
31
13
44,8
2
6,9
2
7,1
5
17,9
16
57,1
5
17,9
Việc đánh giá mức độ đọc diễn cảm nêu trên ( Bảng số
liệu) là kết quả cộng hởng của cả ba quá trình rèn đọc ở học
sinh: Đọc đúng- nhanh, đọc hiểu và đọc diễn cảm. Bởi cả ba
quá trình này có sự tác động tơng hỗ với nhau, không thể
tách rời, đó là quá trình chuyển tõ thÊp ®Õn cao vỊ “chÊt”
trong mét giê tËp ®äc.
Tõ kết quả thu đợc nh trên tôi nhận thấy rằng: Việc áp
dụng một số biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho
học sinh lớp 4 đà mang lại cho tôi một kết quả đáng phấn
khởi. Khả năng đọc (đặc biệt là đọc diễn cảm) của học sinh
lớp tôi có tiến bộ rõ rệt so với đầu năm học, cao hơn so với lớp
bạn ( ở cùng thời điểm đánh giá). Tuy kết quả thu đợc cha
phải là cao nhng phần nào đà nói lên tính hiệu quả của sáng
kiến kinh nghiệm này.
14
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
1. Đối với giáo viên:
Dạy học tiếng Việt nói chung (dạy phân mơn tập đọc, phần luyện đọc diễn
cảm nói riêng), thầy cơ giáo khơng cịn đóng vai người truyền thụ kiến thức
cho học sinh chủ yếu bằng phương pháp thuyết trình, giảng giải để học sinh
thụ động nghe và ghi nhớ như trước đây mà trở thành người tổ chức, điều
khiển quá trình dạy học để học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh
kiến thức mới. Do đó, để rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh đạt kết
quả tốt giáo viên cần phải:
- Hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh Tiểu học để tác động,
truyền thụ kiến thức khoa học các môn học đến các em một cách phù hợp
nhất, hiệu quả nhất.
- Giáo viên phải thường xuyên luyện đọc để có thể đọc mẫu thật chuẩn tất
cả các bài tập đọc.
- Nắm vững và phối hợp nhuần nhuyễn nhiều phương pháp, hình thức dạy
học tích cực để giờ dạy có hiệu quả thiết thực .
- Để học sinh học tốt phần luyện đọc diễn cảm trong một giờ tập đọc, giáo
viên phải hướng dẫn học sinh luyện đọc tốt phần đọc đúng, đọc nhanh và nắm
chắc được nội dung bài đọc .
- Soạn bài kĩ, lượng hoá cụ thể từng nhiệm vụ của từng phần học; từ, ngữ,
câu, đoạn nào trong bài cần được đọc diễn cảm: thời gian từng phần học là
bao nhiêu, dùng phương pháp và hình thức dạy học nào cho thích hợp với
từng thể loại văn, thơ, truyện...
- Sử dụng đầy đủ, chính xác, hợp lý các đồ dùng trực quan để bổ trợ tốt
cho phần tập đọc( nhất là phần luyện đọc diễn cảm). Quan tâm đến tất cả các
đối tượng học sinh trong lớp, tạo cho các em một tâm thế tốt, một niềm tin
vào việc học, không ngại khó trong học tập.
2. Đối với học sinh:
Để rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm đạt kết quả tốt học sinh cần phải:
- Cần học bài trước ở nhà theo hướng dẫn của giáo viên (chú trọng phần
đọc đúng, đọc nhanh).
- Phải có đồ dùng dạy học đầy đủ, đặc biệt là bút chì dùng để gạch chân
nhẹ những chỗ cần đọc đúng, cần nhấn giọng và đánh dấu nhịp thơ, câu văn
cần đọc diễn cảm theo hướng dẫn của giáo viên.
- Biết cách phối hợp cùng nhau trong giờ học (học nhóm), để bổ trợ cho
nhau trong q trình học tập chiếm lĩnh kiến thức mới.
- Tạo thói quen và dần ham thích đọc sách, đọc nhiều loại văn bản khoa
học khác nhau để có cách đọc, cách cảm, cách nghĩ đa dạng và phong phú về
những gì được đọc. Giúp các em đọc đúng, đọc nhanh, đọc diễn cảm. Biết giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt và thêm yêu quý tiếng mẹ đẻ của mình.
III. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT:
15
Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học phần luyện đọc diễn cảm
trong phân mơn Tập đọc nói riêng, mơn Tiếng Việt Tiểu học nói chung, tơi
mạnh dạn đề xuất một số ý kiến như sau:
* Đối với giáo viên: Khơng ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ. Nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với học sinh, mạnh dạn đổi
mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
* Đối với nhà trường:
- Thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để giáo viên
trao đổi những vướng mắc, hay chia sẻ những kinh nghiệm giảng dạy có hiệu
quả trong q trình cơng tác.
- Tạo điều kiện về cơ sở vật chất để học sinh có thể được học hai buổi/
ngày.
*Đối với Ngành: Để tạo ra động lực và thói quen thường xuyên luyện đọc
cho cả giáo viên và học sinh, hằng năm Ngành giáo dục nên tổ chức cuộc thi :
“ Đọc diễn cảm” cho giáo viên và học sinh.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân, được đúc rút trong q
trình cơng tác, với năng lực có hạn và áp dụng trong thực tế dạy học chưa
được lâu... nên không tránh khỏi những hạn chế cần được bổ sung, cần được
làm sáng tỏ thêm. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, trao đổi,
bổ sung từ phía các nhà lãnh đạo trong ngành Giáo dục và các bạn đồng
nghiệp để sáng kiến của tơi được hồn thiện hơn và có thể áp dụng rộng rãi
trong thực tiễn dạy học.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Thanh Tân, ngày 05 tháng 04 năm 2011
Người viết:
Vũ Thị Mai
16
Mục lục
PHN
A.
I.
II.
NI DUNG
Đặt Vấn đề
Lời mở đầu
THC TRNG CA VN NGHIấN CU
Thc trng dy hc- học phần luyện đọc
Trang
1
1
1
diễn cảm
1.
trong phân môn Tập đọc ở Trờng Tiểu
1
học
2.
3.
B.
I.
II.
C.
I.
II.
III.
Thanh Tân 1.
Kt qu rèn đọc diễn cảm của học sinh lớp
4A Trờng Tiểu học Thanh Tân 1.
Nguyờn nhõn
Giải Quyết vấn đề
CC GII PHÁP THỰC HIỆN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
KẾT LUẬN
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Bµi häc kinh nghiƯm
MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
2
3
5
5
5
13
13
13
14
17