Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

SKKN một số biện pháp rèn đọc diễn cảm nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập đọc cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.03 KB, 45 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Giáo dục bậc tiểu học là một khoa học giáo dục khó nhất. Nó là nền móng đầu
tiên để giúp con người tồn tại và phát triển. Đặc biệt là mơn Tiếng Việt có vị trí
quan trọng trong tất cả các mơn ở trường, nó hình thành khả năng giao tiếp, là cơ
sở để phát triển tư duy cho trẻ để tiếp thu các môn học khác. Tiếng việt ở tiểu học
gồm nhiều phân môn: Tập đọc, học thuộc lòng, luyện từ và câu, kể chuyện, tập làm
văn chính tả, tập viết. Mỗi mơn đều có một chức năng, khi dạy tiếng Việt cho học
sinh đồng thời cũng chuẩn bị vốn cho học sinh khi học văn. Tập đọc là mơn học
mang tính chất tổng hợp vì ngồi nhiệm vụ dạy học nó cịn có nhiệm vụ trau dồi
kiến thức về Tiếng việt cho học sinh (về phát âm, từ ngữ, câu văn...) kiến
thức bước đầu về văn học, đời sống và giáo dục tình cảm thẩm mỹ. Mơn Tập đọc ở
Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói riêng đặt ra một nhiệm vụ quan trọng. Trong các
giờ tập đọc học thuộc lòng học sinh biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ đã tạo cho
các em sự say mê hứng thú và để lại một vốn văn học đáng kể cho trẻ em. Cũng
thông qua các bài văn học sinh học, các em được hiểu thêm về các vùng miền của
đất nước, hiểu được công sức của các tầng lớp nhân dân đang ra sức xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, hiểu được các truyền thống q báu của dân tộc. Phân mơn tập
đọc có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục mỹ cảm, học sinh yêu cái đẹp, rung cảm
trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong văn chương.
Mơn này có thể rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng và cả tư duy logic.
Giờ tập đọc bên cạnh việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm đại ý, ý nghĩa của
bài để phát triển óc tổng hợp, tìm bố cục để phát triển óc phân tích. Ngồi ra học
sinh cịn được rèn luyện óc tưởng tượng, phán đốn, ghi nhớ. Mơn tập đọc khơng
chỉ có nhiệm vụ trên mà cịn kết hợp chặt chẽ với chương trình Tiếng việt. Qua các
bài văn chọn lọc học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp vừa học được cách sử
dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng sinh động, được luyện về ngữ âm, chính


tả, tập làm văn. Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của phân mơn Tập đọc nói
chung và việc rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 nói riêng trong
giờ tập đọc, để có kết quả cao mỗi giáo viên phải nhận thức rõ và có phương pháp


giảng dạy phù hợp. Trong q trình dạy Tập đọc lớp 4, tôi nhận thấy chất lượng
đọc diễn cảm của học sinh lớp 4 nói chung và của lớp tơi nói riêng cịn yếu. Đặc
biệt ngày nay xã hội ta ngày càng phát triển thì nhu cầu đồi hỏi về tri thức con
người ngày càng cao, trong đó ngơn ngữ nói và viết là vơ cùng cần thiết cho mỗi
người. Mỗi thành công không phải tự nhiên mà có được mà phải trải qua một q
trình rèn luyện kiên trì ngay từ đầu. Để góp phần nâng cao chất lượng đọc cho học
sinh tôi mạnh dạn đề xuất một vài kinh nghiệm nhỏ của mình thơng qua đề tài:
“Một số biện pháp rèn đọc diễn cảm nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn
Tập đọc cho học sinh lớp 4”.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận
Trong việc dạy tiếng mẹ đẻ cho học sinh đọc và hiểu được nội dung bài thì mơn
tập đọc có vai trị thật quan trọng. Mơn tập đọc giúp các em có kĩ năng nghe tốt,
đọc thông, viết thạo, đọc đúng từ đó giúp các em hiểu được nội dung văn bản. Đọc
diễn cảm giúp các em cảm thụ được những cái hay, cái đẹp của nghệ thuật văn
chương. Ngồi ra mơn tập đọc cịn có tác dụng rất to lớn trong việc giáo dục tình
cảm cho học sinh của lứa tuổi tiểu học. Qua phân môn tập đọc các em được tiếp
xúc với những áng văn, áng thơ hay chọn lọc dạy trong chương trình. Học sinh
được tiếp xúc với thế giới mn hình, mn vẻ ở xung quanh qua nghệ thuật ngơn
từ. Từ đó làm cho học sinh cảm nhận được vẻ tinh túy của thế giới đó bằng ngơn
ngữ Tiếng Việt.


2. Cơ sở thực tiễn
Tuy nhiên do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của các em chưa thể cảm nhận hết
hoặc có cảm nhận cũng chưa thể diễn đạt được ý hiểu của mình vì vốn từ vựng của
các em còn hạn chế và chưa phong phú nên quá trình dạy Tập đọc để cho các em
đọc đúng đã là khó, để các em đọc diễn cảm được nội dung cịn khó khăn hơn rất
nhiều.

Mặt khác, u cầu của phân môn Tập đọc lớp 4 là:
1. Củng cố, phát triển kĩ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành ở các
lớp 1, 2, 3; tăng cường tốc độ đọc, biết đọc lướt để chọn thông tin nhanh; bước đầu
biết đọc diễn cảm.
2. Phát triển kĩ năng đọc - hiểu lên mức cao hơn: nắm và vận dụng được một
số khái niệm, nhớ đề tài, cốt truyện, nhân vật, tính cách,…để hiểu ý nghĩa của bài
và phát hiện một vài giá trị nghệ thuật trong các bài văn, thơ (yêu cầu trọng tâm)
3. Mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người để góp phần hình
thành nhân cách của con người mới.
Như vậy, để đạt được các yêu cầu trên và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh đòi hỏi mỗi giáo viên cần đẩy
mạnh đổi mới phương pháp dạy học sao cho “ Nhẹ nhàng, chất lượng, hiệu quả”.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Thuận lợi:
Giáo viên: Giáo viên khá tôn trọng phương pháp học mới: “ Thầy thiết kế, trò
thi công” lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên cố gắng tìm tịi nghiên cứu để
giảng dạy phân mơn tập đọc.


Học sinh: Học sinh đã biết đọc thành tiếng bài văn, bài thơ, đã để ý và đọc
đúng các phụ âm khó.
2. Khó khăn:
Giáo viên: Giáo viên chỉ coi trọng một vấn đề đọc thành tiếng to, rõ hoặc có
hướng dẫn đọc diễn cảm nhưng chỉ lướt qua, rèn đọc diễn cảm cho học sinh cịn ít.
Học sinh: Đọc hiểu nắm nội dung bài cịn rất ít do vậy chưa nêu được ý chính
của bài mà phải nhờ sự gợi ý của giáo viên, đọc diễn cảm toàn bài văn chưa tốt.
Khi đọc ở các dấu phẩy, dấu chấm còn ngừng nghỉ chưa hợp lí cịn tùy hứng, chưa
đọc đúng giọng câu hỏi, câu cảm, câu khiến.
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP RÈN ĐỌC DIỄN CẢM, NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 4 Ở TRƯỜNG

TIỂU ĐẠI TỪ
Qua điều tra khảo sát chất lượng học sinh ngay từ đầu năm học tôi đều thấy số
lượng học sinh đã biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ rất ít.
Trước thực trạng đó, tơi đã phân tích và tự đặt ra cho mình câu hỏi: phải làm gì?
làm như thế nào? để khắc phục tình trạng đó và nâng cao chất lượng đọc diễn cảm
cho học sinh. Qua quá trình nghiên cứu tôi đã tiến hành sử dụng phối hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu đó là: Phương pháp điều tra, phương pháp đối chứng và
phương pháp tổng quát. Phương pháp điều tra không chỉ dừng lại ở điều tra thực
trạng mà phải điều tra từng giai đoạn trong suốt năm học. Ở mỗi giai đoạn tôi đều
lấy kết quả đã đạt được để đối chứng với kết quả giai đoạn trước, với kết quả năm
trước và cuối cùng đi tổng hợp số liệu và rút ra bài học kinh nghiệm.
Từ yêu cầu thực tiễn của việc dạy tập đọc nói chung và rèn luyện kĩ năng đọc
diễn cảm cho học sinh lớp 4, tơi đã tự đặt cho mình phải nhận thức đầy đủ tầm


quan trọng, yêu cầu của bộ môn, đặc biệt về nội dung và phương pháp rèn kĩ năng
đọc diễn cảm để đáp ứng với yêu cầu đề ra.
Trong giảng dạy phân môn Tập đọc, qua nhiều năm gần đây, tôi đã tích cực
nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy, cách truyền thụ kiến thức, đặc biệt là
việc rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh. Muốn rèn cho học sinh đọc diễn
cảm tốt, trước hết trong mọi giờ tập đọc giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách
phát âm chuẩn, đọc đúng đắn, có ý thức, trơi chảy, sau đó mới yêu cầu học sinh
đọc diễn cảm. Trong phương pháp dạy học những yêu cầu đó gọi là chất lượng đọc
được thể hiện đồng thời và chi phối lẫn nhau. Tính đúng đắn sẽ nâng cao tốc độ
đọc và cho phép đọc có ý thức hơn. Nếu khơng hiểu cái đang đọc thì khơng thể đọc
lưu lốt và diễn cảm được.
Đọc diễn cảm thể hiện ở kĩ năng dùng ngữ điệu, biết nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt
hơi ở dấu phẩy, hoặc chỗ cần tách ý, biết đọc liền các tiếng trong từ ghép, từ láy
hoặc cụm từ cố định. Ngoài ra cần biết đọc đúng giọng câu kể, câu hỏi biết phân
biệt giọng người dẫn chuyện với từng tuyến nhân vật có tính cách khác nhau. Đọc

diễn cảm là biểu hiện cao của đọc có ý thức và chỉ thực hiện đựơc trên cơ sở đọc
đúng và đọc nhanh. Do vậy dù đọc ở mức độ nào cũng phải yêu cầu phát âm đúng
song cũng không nên quá nhấn mạnh ở các phụ âm: tr – ch; r – gi; s – x làm giọng
đọc mất tự nhiên.
Để đạt được những yêu cầu trên tôi đã tiến hành các biện pháp rèn đọc diễn
cảm cho học sinh như sau:
Biện pháp 1: Phân loại học sinh:
Xuất phát từ yêu cầu của đổi mới giáo dục nước nhà, vấn đề nâng cao chất
lượng giáo dục tiểu học. Nhằm đào tạo một lớp người lao động mới phục vụ cho sự
nghiệp Cơng nghiệp hố - hiện đại hố là đòi hỏi bức thiết của xã hội.


Từ thực trạng trên, yêu cầu đặt ra của các cán bộ quản lí và các nhà giáo tâm
huyết là phải tìm ra các giải pháp tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp với năng
lực tư duy của học sinh, với phong tục tập quán của từng địa phương, từng dân tộc,
hồn cảnh, trình độ của từng học sinh là việc làm rất có ý nghĩa và hứa hẹn mang
lại hiệu quả thiết thực. Chính vì vậy tơi chắc chắn biện pháp này là biện pháp đầu
tiên.
Sau khi nhận lớp, tôi đã ổn định chung tổ chức lớp. Qua tìm hiểu điều tra để
nắm chắc đối tượng học sinh và lựa chọn, đặc biệt là kiểm tra kĩ năng đọc của học
sinh, tôi đã phân loại học sinh theo ba đối tượng sau:
Đối tượng 1: Học sinh biết đọc diễn cảm
Đối tượng 2: Học sinh mới chỉ biết đọc to, rõ, lưu loát.
Đối tượng 3: Học sinh đọc nhỏ, ấp úng, ngọng.
Dựa vào đó, tơi đã sắp xếp chỗ cho học sinh những em đọc yếu ngồi cạnh
những em đọc khá, đọc tốt để đôi bạn cùng tiến.
- ĐT 3: Trong các giờ Tập đọc, tích cực gọi các bạn còn đọc nhỏ, ngọng để trực
tiếp hướng dẫn và giúp các em tự tin đọc to, sửa ngọng.
- ĐT 2: Hướng dẫn các em tìm ngắt nghỉ câu dài hợp lý và nhấn giọng ở những từ
ngữ thể hiện rõ nội dung của câu, đoạn.

- ĐT 1: Các em đã đọc tốt, thường xuyên gọi các em đọc mẫu, giúp các em hứng
thú học tập khi được tuyên dương, làm gương.
Biện pháp 2: Sự chuẩn bị của học sinh:
Chúng ta cần: Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với
đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, bồi dưỡng cho học sinh phương
pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn


để giúp học sinh hứng thú và có trách nhiệm trong học tập. Chính vì vậy, sự chuẩn
bị bài của học sinh là vơ cùng quan trọng.
Trong q trình đổi mới phương pháp dạy học, học sinh là chủ thể tiếp nhận kiến
thức một cách chủ động, khơng cịn áp dụng phương áp Thầy giảng – trò nghe như
trước, làm hạn chế khả năng sáng tạo của học sinh.
Cụ thể: Trước khi học bài tập đọc, tôi dặn học sinh đọc nhiều lần ở nhà cho trôi
chảy và chuẩn bị trước phần câu hỏi, tìm hiểu nội dung bài trong sách giáo khoa,
đề ra các yêu cầu phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Đối với những bài đọc dài, tôi yêu cầu học sinh đọc nhiều lần, chia đoạn đọc và
tự tìm hiểu nội dung của từng đoạn theo phần tìm hiểu bài của SGK. Có thể đưa ra
những câu hỏi khác liên quan đến bài mà giúp các em hiểu rõ hơn về nội dung của
bài (đối với HS khá giỏi). Trong quá trình luyện đọc, gạch chân ở những từ ngữ
cần nhấn giọng để giúp học sinh đọc bài được hay hơn.
- Đối với những bài thơ mà nội dung xuyên suốt không chia theo từng khổ, tơi
hướng dẫn học sinh đọc nhưng khơng tìm hiểu nội dung từng khổ để giúp học sinh
hình dung kĩ ý nghĩa và nội dung của bài một cách trọn vẹn. Từ đó, giúp các em
cảm thụ được bài thơ và đọc với giọng đọc phù hợp với nội dung bài.
- Đối với những HS đọc cịn hạn chế, tơi yêu cầu các em về nhà đọc đi đọc lại bài
thật nhiều lần, chưa cần tìm hiểu nội dung mà chỉ cần phát âm đúng, ngắt nghỉ
đúng dấu câu, đặc biệt rèn đọc to, lưu loát.
Sau một thời gian thực hiện, tơi thấy HS đã có hứng thú hơn với phân mơn Tập
đọc, các em đọc bài cịn hạn chế đã tự tin đọc to, rõ ràng hơn. Các em học tốt đã

hiểu rõ nội dung của bài và đọc với giọng khá tốt, diễn cảm, thể hiện đúng nội
dung của bài đọc cần đọc với giọng như vậy. Từ đó, tơi thấy việc chuẩn bị bài của


học sinh trước khi đến lớp là vô cùng quan trọng và cần thiết, giúp các em chủ
động trong từng mơn học nói chung và phân mơn Tập đọc nói riêng.
Biện pháp 3: Tiến hành bài dạy:
Dạy học là một cơng việc vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật nó địi hỏi
sự sáng tạo của giáo viên trong q trình giảng dạy. Để làm tốt cơng việc này thì
giáo viên phải thực hiện tốt tiến trình dạy học của bài.
Việc mở đầu tiết học có ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình sau này của tiết học.
Chính nó quyết định nhịp điệu của tiết học, trạng thái tình cảm của thầy và trị.
Tiết học hiện đại thường bắt đầu bằng việc tạo nên tình huống có vấn đề, gây hứng
thú và thu hút sự chú ý của học sinh vào những vấn đề, vào đề tài của tiết học. Tiếp
đó, tổ chức cơng tác tự lực của cá nhân hoặc hợp tác với nhau theo từng nhóm để
giải quyết vấn đề. Tiết học cũng có thể mở đầu bằng cơng tác độc lập chung cho cả
nhóm giải quyết một vấn đề dựa trên tri thức đã học và việc giải quyết vấn đề đó
có liên quan đến tri thức sắp học.
Tiến trình của tiết học khơng chỉ phụ thuộc vào việc mở đầu tiết học mà còn phụ
thuộc cả vào việc thơng báo đề bài, mục đích, yêu cầu của tiết học, tạo cho học
sinh có nhu cầu, hứng thú, chờ đợi tiếp nhận những tri thức mới mà tiết học sẽ đem
đến.
Trong tiến trình tiết học, giáo viên phải chú ý duy trì được khơng khí tích cực, hào
hứng trong học sinh đối với bài học, ln đặt họ ở trong những tình huống phải
tích cực hố những tri thức, những kinh nghiệm đã có để giải quyết vấn đề và
thơng qua đó mà lĩnh hội tri thức mới…


Tư thế, tác phong của người giáo viên phải đúng mực, ăn mặc gọn gàng, giản dị,
ngôn ngữ rõ ràng, trong sáng, truyền cảm, nhịp điệu nói phù hợp với từng hồn

cảnh cụ thể, biết cách thay đổi giọng nói.
Kết thúc tiết học phải làm sao đạt được mục đích, yêu cầu của tiết học.
Cụ thể:
*GV đọc mẫu:
GV không đọc mẫu để học sinh đọc thụ động theo mà muốn HS đọc đúng phải giới
thiệu cho các em mẫu đúng. Lời đọc mẫu đúng và hay của GV có tác dụng định
hướng cách đọc cho HS, đồng thời giúp các em nhận thức đúng hơn nội dung bài
đọc. Nếu bài đọc là một văn bản nghệ thuật thì lời đọc của GV cịn có ý nghĩa khơi
gợi hứng thú và tưởng tượng của HS, làm cho các em dễ đi vào thế giới của tác
phẩm và thấy tác phẩm dưới một ánh sáng hấp dẫn hơn. GV cần hướng dẫn để HS
đọc sao cho phù hợp với nội dung chính của bài văn, bài thơ. VD: biết nghỉ ngơi
đúng sau các dấu câu, giữa các cụm từ đầu hay giữa các mục, các phần trong bài
đọc, không đọc với nhịp nhanh, sôi nổi với một bài cần đọc với giọng chậm rãi,
không đọc với giọng vui vẻ một bài cần đọc với giọng trầm, buồn...
Bài đọc mẫu của GV chính là cái đích, mẫu hình kĩ năng đọc mà HS cần đạt được.
Do đó yêu cầu đọc thành tiếng của GV phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn: đọc
đúng, rõ ràng, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải và diễn cảm. GV phải ổn định
trật tự, tạo cho HS tâm thế ngồi đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu HS đọc thầm
theo. Khi đọc, GV đứng ở vị trí bao qt được cả lớp, khơng nên đi lại trong khi
đọc, cầm sách mở rộng, đọc đủ lớn để em HS xa nhất cũng nghe rõ và thỉnh thoảng
mắt phải rời sách nhìn lên học sinh nhưng khơng làm cho bài đọc bị gián đoạn.
Như vây, người GV khi đọc phải làm sao để “đánh thức những cảm xúc ngủ yên
trong chữ nghĩa, làm cho con cá biết bơi, con chim biết bay, con người biết đi,


đứng, nhảy như cuộc sống ngoài đời, bởi dạy văn tức là dạy người”. GV phải làm
sao để HS thể hiện được cảm xúc chân thành khi nghe thầy đọc thơ.
Sau phần tìm hiểu bài, tơi u cầu học sinh đọc thật tốt một đoạn nhằm “ thăm dò”
khả năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng đọc của học sinh .
- Qua giọng đọc của học sinh, tôi dẫn dắt, gợi ý để các em phát huy ưu điểm, khắc

phục những hạn chế và tự tìm ra cách đọc hợp lí.
Ví dụ 1: Bài Tập đọc
“ Khúc hát ru những em bé lớn lên trên lưng mẹ”
“....Em Cu tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan/ đừng rời lưng mẹ
Mẹ giã gạo/ mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng/ giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi/ má em nóng hổi
Vai mẹ gầy/ nhấp nhơ làm gối .”
Bài đọc nói lên tình u của người mẹ Tà ơi đối với con và đối với Cách mạng khi
đọc bài các con đọc với giọng như thế nào ?. Vậy để thể hiện tốt diều này chúng ta
cần nhấn giọng vào những từ ngữ nào?
Ví dụ 2: Bài “ Tre Việt Nam”
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc và tìm hiểu: Vì sao khi đọc câu thơ có dấu chấm
hỏi con không cần đọc cao giọng ở tiếng cuối câu hỏi?
Tre xanh, xanh tự bao giờ?
....


Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
Phân tích đoạn thơ luyện đọc diễn cảm:
“ Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông/ lạ thường/.
Lưng trần phơi nắng /phơi sương
Có manh áo cộc, tre nhường cho con
Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng/ thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc/ có gì lạ đâu
Mai sau,

Mai sau,
Mai sau,
Đất xanh/ tre mãi xanh màu tre xanh ”
Chiếu bài hai học sinh, yêu cầu các em đọc đoạn theo cách nhấn giọng của mình.
HS dưới lớp lắng nghe nhận xét. GV chốt cách đọc đúng và hay nhất.
Sau đó giáo viên cho học sinh thực hành luyện đọc diễn cảm (theo cặp, theo
nhóm ) để các em tự rút kinh nghiệm cho mình, hình thành kĩ năng nhận xét và tự
nhận xét. Tiếp theo tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp để các em học tập lẫn nhau
và được giáo viên động viên, uốn nắn .
Tuy nhiên, trước khi dạy bài đọc tơi cần tìm hiểu kĩ bài dạy xem bài Tập đọc đó là
văn bản nghệ thuật hay là phi nghệ thuật.


1. Đối với văn bản nghệ thuật tôi hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông
qua dẫn dắt, gợi mở giúp các em thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp
với sự việc, hình ảnh, cảm xúc, tính cách nhân vật trong bài..., Cụ thể là:
* Học sinh bước đầu biết làm chủ giọng đọc, nhấn giọng những từ gợi tả, gợi
cảm, từ ngữ chìa khóa làm nổi bật ý chính trong câu.
Ví dụ 3: Bài Tập đọc “ Con sẻ”
“ Bỗng từ trên cây cao gần đó, một con sẻ già có bộ ức đen nhánh lao
xuống như hịn đá rơi trước mõm con chó. Lơng sẻ già dựng ngược, miệng rít
lên tuyệt vọng và thảm thiết. Nó nhảy hai ba bước về phía cái miệng há rộng đầy
răng của con chó.
Sẻ già lao đến cứu con, lấy thân mình phủ kín sẻ con. Giọng nó yếu ớt nhưng hung
dữ và khản đặc...”
Khi đọc đoạn 2, đoạn 3, tơi gợi ý HS “ Hình ảnh sẻ mẹ lao xuống lấy thân mình
che trở cho con” được tác giả miêu tả rất sinh động, khi đọc đoạn này các em cần
nhấn giọng vào những từ ngữ nào?
Học sinh biết nhấn giọng vào những từ gợi tả hành động, dáng vẻ của sẻ già khi lao
xuống cứu con.

* Học sinh biết thể hiện ngữ điệu, sự thay đổi tốc độ, cao độ, cường độ, trường
độ ...phù hợp với từng loại câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến.
Ví dụ 4 : Bài Tập đọc “ Ga- vrốt ngoài chiến lũy”
Khi đọc đoạn miêu tả chi tiết thể hiện lòng dũng cảm của Ga- vrốt , giáo viên
lưu ý học sinh sự thay đổi giọng đọc như sau :
“ - Cậu làm trị gì đấy? - Cuốc - phây - rắc hỏi (Câu hỏi thể hiện sự ngạc
nhiên)


Em nhặt cho đầy giỏ đây ! (Câu cảm thể hiện sự bình tĩnh )
Cậu khơng thấy đạn réo à? (Câu hỏi như nhắc nhở Ga- vrốt không được liều mình)
Ga - vrốt trả lời :
Có chứ, nó rơi như mưa ấy. Nhưng làm sao nào? (Khi đọc lên giọng ở câu hỏi thể
hiện sự hồn nhiên )
Cuốc- phây- rắc thét lên:
Vào ngay! (Câu khiến thể hiện sự đề nghị, mệnh lệnh kèm sự lo lắng)
Tí ti thơi! - Ga - vrốt nói (thể hiện sự tinh nghịnh)
Trong đoạn đọc diễn cảm tôi cũng lưu ý học sinh: Đối với bài văn xi ngồi việc
đọc tốt các câu chúng ta cịn phải biết ngắt hơi ở chỗ khơng có dấu câu nhưng chỗ
đó là chỗ tách ý.
Ví dụ 5 : Bài Tập đọc : “ Khuất phục tên cướp biển”
Trong bài đọc có 2 nhân vật chính là Bác sĩ Ly - một người nhân hậu, điềm đạm
nhưng nghiêm nghị, cương quyết và tên cướp biển - chúa tàu hung hãn, dữ tợn
Trước khi học sinh đọc diễn cảm, tôi yêu cầu các em cần tìm hiểu bài thật kĩ. Khi
đó HS đọc lời nhân vật sẽ phân biệt được giọng đọc dựa vào tính cách nhân vật
(người tốt, người xấu).
Trong bài cùng là câu hỏi nhưng trong đoạn đối thoại sau, tính cách của hai nhân
vật thể hiện khác nhau hồn tồn.
Chúa tàu trừng mắt nhìn Bác sĩ, qt :
- Có câm mồm khơng? (đọc giọng thể hiện sự hung hãn của tên cướp khi đập

tay xuống bàn quát Bác sĩ Ly)


Bác sĩ điềm tĩnh hỏi :
- Anh bảo tôi phải không? (giọng tự tin, điềm tĩnh nhưng hết sức nghiêm
nghị).
Khi tên chúa tàu cục cằn bảo “phải”, bác sĩ nói :
- Anh cứ uống rượu mãi như thế thì đến phải tống anh đi nơi khác .
Cơn giận của tên cướp thật dữ dội. Hắn đứng phắt dậy, rút soạt dao ra, lăm
lăm chực đâm. Bác sĩ Ly vẫn dõng dạc và quả quyết :
- Nếu anh không cất dao, tôi quyết làm cho anh bị treo cổ trong phiên tịa sắp
tới.( giọng đọc bình tĩnh, cương quyết bảo vệ lẽ phải )
* Ngồi ra tơi giúp HS thể hiện ngữ điệu phù hợp tình huống miêu tả hay
thái độ cảm xúc của tác giả (vui, buồn, nghiêm trang, giận dữ ...)
2. Đối với loại hình văn bản phi nghệ thuật
Giáo viên hướng dẫn HS xác định được ngữ điệu đọc sao cho phù hợp với mục
đích thơng báo, làm rõ những thông tin cơ bản, giúp người nghe tiếp nhận được
những vấn đề quan trọng hay nổi bật trong văn bản. Điều này giúp cho HS khắc
phục được những cách đọc thiên về hình thức hoặc diễn cảm tùy tiện.
Ví dụ 6 : Bài tập đọc “ Vẽ về cuộc sống an toàn”
Học sinh biết đọc đúng bản tin (thông báo tin vui) đọc rõ ràng, rành mạch với tốc
độ khá nhanh, lưu ý ngắt nghỉ hơi đúng sau các dấu câu, nghỉ hơi tự nhiên, tách các
cụm từ trong những câu khá dài.
“UNICEF Việt Nam và báo Thiếu niên Tiền phong / vừa tổng kết cuộc thi vẽ tranh
của thiếu nhi/ với chủ đề: “Em muốn sống an toàn”.


Để học sinh lớp 4 từng bước hình thành kĩ năng đọc diễn cảm, giáo viên đọc mẫu,
giúp học sinh luyện tập thể hiện sự cảm nhận về nội dung, ý nghĩa của bài qua
giọng đọc. Ngoài việc thống nhất cách đọc chung, mỗi học sinh có cảm thụ riêng,

từ đó có cách dọc diễn cảm bộc lộ sự sáng tạo. Để phát huy tính sáng tạo của học
sinh khi đọc diễn cảm, cách tốt nhất là giáo viên tổ chức cho học sinh luyện tập “tự
bộc lộ” (trên cơ sở đọc mẫu của giáo viên và kết quả tìm hiểu bài) qua đó giáo viên
điều chỉnh cách đọc cho học sinh, tránh phân tích quá chi tiết về cách đọc. (Ví dụ:
Xác định chỗ ngắt hơi, cao giọng, thấp giọng...) rồi sau đó mới chuyển sang luyện
đọc và đọc theo một cách giống hệt nhau.
Khi học sinh luyện đọc giáo viên phải tạo được trong lớp một khơng khí thoải mái
để học sinh dễ trực cảm với bài văn, có tâm trạng chờ đợi và chú ý nghe giáo viên
đọc và cũng từ đó các em có thể học tập và bắt chước thầy.
Trong khi rèn đọc diễn cảm tôi thường xuyên chú ý đến những học sinh rụt rè nhút
nhát, tơi thường xun khuyến khích khơng gắt gỏng để các em luống cuống.
Đối với học sinh nghịch ngợm phân tán tư tưởng, không chú ý đến tiết học, tôi
thường để ý thỉnh thoảng chỉ định các em đọc tiếp.
Đối với học sinh đọc yếu, ngoài việc hướng dẫn đọc dứt khoát từng từ, cụm từ, với
câu dài cho học sinh ngắt hơi đúng chủ đề ra yêu cầu rèn đọc ở nhà, kiểm tra lại
những yêu cầu đã đề ra đối với học sinh, việc này phải được tiến hành thường
xuyên không được ngắt quãng.
Cuối mỗi tiết học tôi thường tổ chức thi đọc diễn cảm để các em thi nhau thể hiện
giọng đọc của mình. Qua đó học sinh được đánh giá, nhận xét cách đọc, giọng đọc
của bạn để rút kinh nghiệm cho bản thân.
Sau những bài giảng được chuẩn bị chu đáo như vậy, bản thân tơi nhận thấy học
sinh đã có những chuyển biến tích cực trong việc đọc diễn cảm bài đọc. Các con


hiểu rõ hơn về nội dung của bài, và thể hiện giọng đọc có sự uyển chuyển, nhấn
nhá, nhịp nhàng.
Biện pháp 4: Đưa thông tư 30 vào giờ học để nhận xét, đánh giá động viên
khen thưởng học sinh kịp thời:
Trong việc chỉ đạo việc đánh giá học sinh theo thông tư 30 (TT30) của Bộ GD-ĐT
về việc đánh giá học sinh (HS) tiểu học. Tôi thấy thực hiện theo thơng tư giúp HS

có học lực yếu hơn khơng bị áp lực, tự ti, một mặt nào đó các em được khích lệ và
động viên, giúp các em có hướng phấn đấu, vươn lên trong học tập.
GV và phụ huynh quan tâm đến HS nhiều hơn, HS được phát triển một cách tồn
diện, tăng sự gắn kết giữa gia đình với nhà trường. Trong đánh giá, khơng có sự
phân biệt HS giỏi, khá, trung bình, yếu, HS khơng bị mặc cảm, áp lực về điểm số.
GV kịp thời phát hiện tiến bộ của HS để động viên, khích lệ và phát hiện những
hạn chế để hướng dẫn, giúp đỡ HS trong q trình học tập. Đánh giá theo thơng tư
30 thực sự mang tính nhân văn, đánh giá vì sự tiến bộ của HS.
Đánh giá bằng nhận xét sẽ sẽ công nhận kết quả và chỉ ra cho học sinh chỗ nào học
sinh làm đúng, chỗ nào học sinh còn thiếu, chưa đúng để học sinh cịn có hướng
khắc phục và cố gắng, giáo viên có biện pháp hỗ trợ để bù lấp chỗ trống chứ khơng
phủ định hồn tồn kết quả bài làm của học sinh như chỉ đánh giá chỉ bằng điểm
số. Chính vì vậy, áp dụng TT 30 vào giảng dạy là điều vô cùng cần thiết và tích
cực.
Cụ thể:
Trong tiết dạy tơi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh làm bài
chậm, để gọi các em thường xuyên trả lời câu hỏi, đọc đúng nội dung. Đối với học
sinh giỏi – khá tơi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn. Cịn đối
với học sinh trung bình – yếu tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “ Cố lên, rồi các con


sẽ đọc bài tốt như các bạn nếu các con cố gắng đọc bài nhiều ở lớp cũng như ở
nhà.”
Để đánh giá học sinh tơi sử dụng các hình thức đánh giá viết nhận xét của mình
vào vở và vào sách của học sinh hoặc nhận xét bằng lời, Học sinh cũng có thể tự
đánh giá cách đọc của mình, của bạn. Qua đó rèn học sinh kĩ năng được nhận xét
đánh giá đúng cho bạn, chỉ ra được lỗi sai cho bạn để bạn tự khắc phục.
Ví dụ:
- Khi hai học sinh đọc hai cách ngắt giọng, nhấn giọng khác nhau -> Mời 1 học
sinh thứ 3 cho ý kiến của mình. Khi học sinh 3 cùng ý kiến với học sinh 2 (HS 2

đúng), HS 1 quay ra nói với HS 2,3: Tớ cảm ơn các cậu, tớ đã hiểu bài hơn.
=> Từ đó, thấy được sự tiếp thu kiến thức của học sinh từ bạn mình sẽ hiệu quả
hơn rất nhiều qua việc truyền đạt của cô giáo. Khơng những thế, qua đó học sinh sẽ
nhớ được kiến thức rất lâu khi tự nói lên được ý kiến của mình và được bạn mình
góp ý.
- Khi học sinh đọc tốt, gọi 1 bạn lên nhận xét và quay ra nói với bạn mình như
nào? – “ Tớ thấy cậu đọc hay, tớ rất thích”
=> Từ sự khen ngợi của bạn, học sinh sẽ hứng thú và không ngừng phấn đấu để đạt
kết quả tốt trong học tập.
Qua q trình thực hiện theo Thơng tư 30, tơi nhận thấy học sinh không bị áp lực
bởi điểm số thường xuyên, lại được sự tư vấn nhiệt tình của bạn mình mà tự tin đọc
rất tốt. Các em cịn nhút nhát đã mạnh dạn đọc bài hơn rất nhiều từ sự động viên,
góp ý của bạn mình. Cịn các em đọc hay luôn cố gắng thể hiện tốt nội dung bài để
làm tấm gương, cùng giúp đỡ các bạn đọc còn kém.


Biện pháp 5: Ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng đồ dùng dạy học có
hiệu quả tạo hứng thú say mê trong học tập:
Những năm qua việc đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa được thực
hiện khá đồng bộ. Việc đổi mới nội dung, chương trình yêu cầu phải đổi mới
phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi phải sử dụng phương
tiện dạy học phù hợp - và CNTT là một trong những phương tiện quan trọng góp
phần đổi mới phương pháp dạy học.
Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng và hiệu quả của ứng dụng CNTT trong dạy
học; được sự quan tâm và chỉ đạo của Ban giám hiệu, trong q trình dạy học vừa
qua tơi đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng, triển khai ứng dụng CNTT trong
giảng dạy và bước đầu thu được một số kết quả nhất định.
Biện pháp 6: Tận dụng tối đa thời gian trong giờ hướng dẫn học:
Trong điều kiện dạy học hiện nay hầu hết các trường tiểu học đều thực hiện học hai
buổi trên ngày. Đây là một điều kiện thuận lợi giúp giáo viên tận dụng những giờ

luyện đọc, giờ tự học nhằm củng cố và nâng cao chất lượng đọc cho học sinh.
Với giờ hướng dẫn học tôi thường tổ chức hướng dẫn học sinh ôn lại các bài tập
đọc trong tuần dưới hình thức kiểm tra cặp đơi, sau đó tổ chức theo nhóm, tổ gây
hứng thú cho các em.
Sau mỗi giờ luyện đọc, các em đã có thể đọc lưu lốt và trơi chảy, tơi tiếp tục yêu
cầu các em luyện đọc diễn cảm bằng cách đọc lại đoạn văn hoặc thơ đã luyện
trong giờ học chính khóa. Ngồi ra, các em sẽ tìm hiểu cách đọc diễn cảm ở các
đoạn, khổ thơ còn lại của bài để luyện đọc.
Ở lứa tuổi tiểu học, tuổi “nhi đồng” ưa sống bằng tình cảm, thích động viên, khen
thưởng bằng lời nói việc làm cụ thể: khen trong từng giờ học, từng môn học,


….Với những em chưa chăm tôi luôn theo sát và kiểm tra việc học nói chung và
việc đọc nói riêng để từng bước nâng cao chất lượng đọc cho các em.
Tóm lại: Cần tranh thủ các giờ luyện đọc, tự học để rèn đọc và nâng cao năng lực
đọc diễn cảm cho học sinh lớp mình là một việc làm cần thiết, có tác dụng tích cực
gây hứng thú học tập, sự say mê học hỏi lẫn nhau trong các em.
Biện pháp 7: Kết hợp 3 mơi trường Gia đình – Nhà trường – Xã hội
Gia đình là cái nơi, là nơi chắp cánh cho mọi ước mơ của trẻ thơ. Nhà trường là nơi
nuôi dưỡng những tâm hồn trẻ thơ, nơi cung cấp kiến thức và rèn luyện phẩm chất,
nhân cách cho các em. Cịn xã hội là mơi trường để các em bộc lộ phát triển và
hoàn thiện mình. Việc kết hợp 3 mơi trường giáo dục là điều kiện khơng thể thiếu
trong q trình giáo dục. Trong giảng dạy nói chung và dạy tập đọc nói riêng, sự
kết hợp này có ý nghĩa thật to lớn.
Từ thực tế giảng dạy tôi thấy việc kết hợp chặt chẽ giữa 3 môi trường giáo dục là
nền tảng vững chắc để đào tạo cho con em mình trở thành những cơng dân vừa có
phẩm chất đạo đức vừa có kiến thức vững vàng.
Tôi muốn đưa ra biện pháp kết hợp với phụ huynh học sinh để kèm cặp học sinh
thực hiện tốt giờ học ở nhà,
các buổi tối và ngày nghỉ… Từ đó mà năng lực đọc của các học sinh ngày càng

được nâng cao.
Ba môi trường này luôn bên cạnh để giúp học sinh có được sự tiến bộ nên theo tôi
cần đảm bảo các điều kiện sau :
+ Cần làm cho học sinh biết chính xác mục đích của việc luyện tập.
+ Theo dõi một cách tỉ mỉ việc thực hiện của học sinh, để học sinh không mắc
những sai sót, lệch lạc, kịp thời kiểm tra.


+ Thời gian luyện tập còn tùy thuộc vào đặc điểm tâm lí cá nhân học sinh.
+ Q trình luyện tập không được ngắt quãng trong một thời gian dài.
Cụ thể:
-Trao đổi với PH, con có chuẩn bị bài, luyện đọc trước khi lên lớp không?
Nếu không, PH cần kiểm tra con đọc cho mình nghe hằng ngày, hoặc trước ngày
có phân mơn Tập đọc.
- Trao đổi với PH sau khi học bài đọc xong, con đọc bài thế nào? PH kiểm tra và
nhắc nhở con đọc đúng như cách cơ đã dạy.
- Tiếp thu ý kiến PH, tìm cách đưa ra những biện pháp cụ thể với từng học sinh,
phù hợp với từng đối tượng học sinh.
+ Đối với HS còn hạn chế khả năng đọc, chỉ cần PH kiểm tra con đọc đúng và trôi
chảy.
+ Đối với HS đọc tốt, PH kiểm tra nội dung tìm hiểu bài và từ đó nhận xét con đọc
đã phù hợp với giọng đọc của bài chưa?
- Thông qua Hội nghị phụ huynh tồn trường đầu năm học, cuối học kì
và tổng kết năm học, để phụ huynh cùng nắm được những kết quả của học sinh đã
đạt được đồng thời cùng đánh giá chỉ rõ những tồn tại cần quán triệt khắc phục cho
năm học tới.
Kết quả:
- PH nắm rõ về tình hình học tập của con, cách đọc bài của con trên lớp để tìm
cách khắc phục hạn chế, kiểm tra con thường xuyên, giúp con tự tin thể hiện bài
đọc lưu loát, diễn cảm.



- Khi được trao đổi với PH, GV nắm được tình hình học tập con ở nhà để giáo dục
và cùng PH đưa ra biện pháp học tập giúp con đọc bài tốt nhất.
Biện pháp 8: Vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học và các phương
pháp dạy học trong giờ tập đọc.
* Phương pháp đàm thoại:
Phương pháp này phù hợp với tâm lý trẻ nhỏ, các em thích được hoạt động (hoạt
động lời nói).
Phương pháp đàm thoại được thực hiện trên cơ sở trao đổi câu hỏi phục vụ cho nội
dung bài. Ở đây có thể thấy, giáo viên nêu câu hỏi dẫn dắt, gợi mở; trị tìm tịi,
khám phá, chiếm lĩnh kiến thức. Ngược lại, trị có thể nêu câu hỏi thắc mắc để giáo
viên có thể hướng dẫn và giải đáp.
Phương pháp đàm thoại là tạo cho học sinh phát triển giao tiếp (giao tiếp giữa cơ
và trị). Khi sử dụng phương pháp này ngồi việc có tác dụng giúp học sinh tiếp
thu kiến thức cịn có tác dụng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Giáo
viên kịp thời điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy học của mình cho phù hợp
với đối tượng học sinh.
Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ nhàng,
tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu. Hãy ôn tồn dẫn dắt học sinh từng
bước một để dạy các em làm tốt bài tập trong mỗi ngày.
Ví dụ: Bài Đồn thuyền đánh cá:
GV đưa đoạn cần đọc diễn cảm yêu cầu HS đọc tìm từ cần nhấn giọng
Mặt trời xuống biển/ như hịn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa


Đoàn thuyền đánh cá/ lại ra khơi
Câu hát căng buồm /cùng gió khơi.
Học sinh thực hiện theo yêu cầu của cơ và thể hiện giọng đọc.

* Phương pháp học nhóm
Ngay từ đầu năm học qua khảo sát, phân loại học sinh trong lớp tơi bố trí cho học
sinh giỏi kèm học sinh yếu, em giỏi ngồi gần em yếu để giúp bạn học tập, ưu tiên
những học sinh yếu được ngồi ở dãy bàn thứ nhất và thứ hai trong lớp. Trong từng
giờ học lúc nào tôi cũng gọi các em trả lời, làm bài nhiều hơn những bàn học sinh
khác.
Ví dụ: Bài Khuất phục tên cướp biển:
Tổ chức cho HS luyện đọc trong nhóm và thi đọc diễn cảm trước lớp doạn văn sau:
Chúa tàu trừng mắt nhìn bác sĩ, qt:
- Có câm mồm khơng?
Bác sĩ điềm tĩnh hỏi:
- Anh bảo tôi phải không?
...
Nếu anh không cất dao, tôi quyết làm cho anh bị treo cổ trong phiên tòa sắp tới
* Phương pháp nhận xét nêu gương.
Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều
vào cuối năm học, tơi thường trị chuyện với học sinh trung bình – yếu để giúp các
em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn giỏi trong
lớp.


Ví dụ: Khi bạn đọc bài tốt thể hiện giọng đọc diễn cảm
Hs nhận xét bạn đọc hay và sẽ cố gắng học tập như bạn.
* Phương pháp gợi mở vấn đáp:
Tôi thường sử dụng phương pháp vấn đáp để tiến hành gợi mở làm cho khơng khí
lớp học sơi nổi, sinh động, kích thích hứng thú học tập và lịng tự tin của các em.
Ngồi ra cịn rèn luyện cho các em năng lực diễn đạt sự hiểu biết của mình bằng
ngơn ngữ, làm cho các em nắm kiến thức nhanh chóng và sâu sắc.
Ví dụ: Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính
GV u cầu HS gạch chân những từ cần nhấn giọng ở các dịng thơ:

Khơng có kính/ khơng phải vì xe khơng có kính
Nhìn thấy gió/ vào xoa mắt đắng
Thấy con đường/ chạy thẳng vào tim
Không có kính/ ừ thì ướt áo
HS khơng tìm được GV gợi ý HS:
Gạch chân vào những từ chỉ đặc điểm, hoạt động của sự vật để tìm cách nhấn
giọng phù hợp với nội dung của bài
* Phương pháp thuyết trình:
Phương pháp này tơi sử dụng để trình bày kiến thức mới.Tuy nhiên phương pháp
này tôi rất hạn chế sử dụng, chỉ sử dụng khi thật cần thiết: nhịp điệu chậm, phần
nội dung thuyết trình ngắn và chiếm khoảng thời gian ngắn nhất trong một tiết học.
Khi sử dụng phương pháp này tôi thường kết hợp với các phương pháp khác để
học sinh thích thú và hào hứng hoạt động, ví dụ như phương pháp minh họa bằng
vật thật, hình ảnh


*Phương pháp đọc tài liệu:
Tơi tìm hiểu và đọc một số tài liệu về phương pháp giảng dạy Tập đọc 4, về cách
đổi mới phương pháp dạy học để giúp cho việc áp dụng đạt kết quả cao.
Ví dụ: - Những bài văn mẫu tâp 1,2 Lớp 4
- Luyện từ và câu Lớp 4
- SGK Tiếng việt lớp 4 tập 1,2
Hiệu quả:
Sau khi thực hiện biện pháp vận dụng các hình thức dạy học linh hoạt này, tơi nhận
thấy HS rất hứng thú học tập và tiếp nhận kiến thức một cách linh hoạt và hào
hứng. Học sinh thi đua nhau đọc diễn cảm sôi nổi trong các giờ học chính khóa và
cả giờ HDH.
THỰC NGHIỆM
Để khẳng định hiệu quả của việc dạy học phân môn Tập đọc theo hướng phát
huy tích cực hoạt động của học sinh. Tơi đã dạy theo phương án đổi mới và đạt

hiệu quả cao: Bài : Tre Việt Nam
Qua tiết dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh và làm
cho giáo viên tin tưởng ở tính khả thi, hiệu quả của những biện pháp giúp giáo viên
dạy tốt phân môn Tập đọc đã được đúc rút qua kinh nghiệm thực tế.
Dưới đây là nội dung giáo án đó:

Thứ …. ngày… tháng 9 năm 2018
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐẠI TỪ

KẾ HOẠCH DẠY HỌC


Giáo viên : Nguyễn Thị Khánh Linh
Môn : Tập đọc

Lớp : 4A6

Tên bài :
Tre Việt Nam

Tuần : 4

I. MỤC TIÊU
1 Đọc lưu lốt tồn bài, giọng đọc diễn cảm phù hợp với nội dung cảm xúc (Ca
ngợi cây tre VN) và nhịp điệu của các câu thơ, đoạn thơ. HTL những câu thơ em
thích.
2 Cảm nhận và hiểu được ý nghĩa của bài thơ: Cây tre tượng trưng cho con người
VN. Qua hình tượng cây tre, tác giả ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của con
người Việt Nam: cần cù, đồn kết, giàu tình u thương, ngay thẳng.
3. GD hs quý trọng phẩm chất cao đẹp của người VN. Biết chăm sóc và bảo vệ

cây tre , yêu thiên nhiên VN.
4. Học thuộc lòng bài thơ
II. CHUẨN BỊ: Máy
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY – HỌC

T

Hoạt động của giáo viên

G

Nội Dung

1

1.Khởi

Tre ngà bên lăng Bác

Hoạt

động

của

học sinh

DH

- Hát


Slide1

động
2. Bài cũ

ĐD

- Nhìn màn hình và


×