Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.28 KB, 27 trang )

MỤC LỤC:
PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
2. Cơ sở thực tiễn
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1.Mục đích nghiên cứu
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
2. Phạm vi nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN II - NỘI DUNG
I - CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
2. Cơ sở thực tiễn
3. Khảo sát thực tế

Trang
5
6
6
7
7
8
8
8
8
8
9
9


9
10
11

II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Biện pháp 1: Tìm hiểu HS, nắm rõ tình hình lớp chủ nhiệm

13

2. Biện pháp 2: Ổn định nề nếp, xây dựng nếp tự quản tích cực

13
16

3 .Biện pháp 3: Động viên khích lệ HS
4. Biện pháp 4: Chăm sóc, GD đạo đức và kĩ năng sống cho HS
5. Biện pháp 5: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện

21
22
23

6. Biện pháp 6: Kinh nghiệm giao tiếp và xử lí các tình huống SP 22
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
PHẦN 3 : KẾT LUẬN
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
II. KHUYẾN NGHỊ

26
27

28
28

PHẦN 1 : ĐẶT VẤN ĐỀ.
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
1.Cơ sở lí luận:
Giáo dục là q trình tồn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức có mục
đích, có kế hoạch, thơng qua hoạt động và quan hệ giữa nhà giáo dục và người
được giáo dục nhằm chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội của lồi người. Giáo dục là
q trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình thành


niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen ứng xử đúng đắn trong
xã hội. Khi bàn về vai trò yếu tố giáo dục trong sự phát triển nhân cách con
người, Bác Hồ đã viết trong bài thơ “Nửa đêm” (trích “Nhật ký trong tù”):
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh con người ta khi mới sinh ra vốn bản
chất là tốt, nhưng chỉ sau do ảnh hưởng của giáo dục và môi trường sống cùng
sự phấn đấu, rèn luyện của mỗi cá nhân mà hình thành những con người thiện,
ác khác nhau. Câu nói của người xưa trong Tam Tự Kinh: “Nhân chi sơ, tính bản
thiện” đã từng được Người nhắc lại nhiều lần trong các bài viết, bài nói chuyện.
Theo Người con người sinh ra bản chất là tốt, song trong xã hội ln có thiện và
có ác nên trong bản thân mỗi con người cũng có thiện và ác. Cái ác có là do ảnh
hưởng của xã hội và sự biến đổi của mỗi người. Do đó, giáo dục làm một nhiệm
vụ vô cùng cần thiết là rèn luyện, biến đổi dần dần tính cách con người, hướng
người ta đến sự hồn thiện của một nhân cách tốt đẹp, xây dựng một xã hội với
những con người có ích và hướng thiện.
Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định sự nghiệp trồng người
không chỉ là sự nghiệp của tồn nhân loại nói chung mà cịn của tồn Đảng, tồn

dân ta nói riêng. Đối với nước ta, giáo dục được xác định là “quốc sách hàng
đầu”, là vô cùng quan trọng và cấp thiết bởi sự thành đạt của một con người, sự
phát triển của một thế hệ, sự hưng thịnh của đất nước đều phụ thuộc vào kết quả
của hoạt động giáo dục “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm
trồng người”. Hơn thế, trong một thời đại hội nhập kinh tế, thời đại công nghệ
thông tin phát triển như vũ bão hiện nay thì giáo dục lại vơ cùng cần thiết. Làm
thế nào để những người chủ tương lai của đất nước có đủ đức lẫn tài? Làm thế
nào để sự nghiệp giáo dục mang lại hiệu quả tốt? Đây chính là trách nhiệm
chung của toàn xã hội, của tất cả những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là
của người giáo viên chủ nhiệm lớp – người trực tiếp và thường xuyên nhất tiếp
xúc với các em học sinh ( HS ). Bởi vậy, người gần gũi nhiều nhất với các em
HS, người ln ở bên cạnh giải đáp mọi khó khăn thắc mắc của các em, người
2


mà các em kính trọng và yêu quí nhất, người mà được các em xem như là cha là
mẹ không ai khác chính là người giáo viên chủ nhiệm lớp.
Là một giáo viên ( GV ) chủ nhiệm lớp tôi rất mong muốn học trị của
mình là những con ngoan, trị giỏi, tài đức vẹn tồn để sau này lớn lên các em tự
tin, năng động, bản lĩnh bước vào đời, trở thành những người cơng dân có ích
cho xã hội.
Về bản thân, tơi rất mong muốn mình là người đồng nghiệp được tin yêu,
được phụ huynh tin tưởng khi gửi gắm con em mình đến để giáo dục, dạy dỗ,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của trường T.H Hồng Hoa Thám nói
riêng và của huyện Ân Thi nói chung.
2. Cơ sở thực tiễn :
Năm học 2014 – 2015 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2A. HS lớp 2 lớn
hơn một chút so với lớp 1 cả về nhận thức và thể lực. Song trẻ vẫn mang đậm
phong cách lứa tuổi nhỏ : thích nghịch, thích chơi. Vậy làm thế nào để người
GV chủ nhiệm lớp dần đưa các em vào chiều hướng tích cực học tập để hồn

thành bài học

mà khơng khiến cho HS căng thẳng, khơng tạo áp lực cho các

em? Đó là cả một nghệ thuật mà người GV chủ nhiệm không chỉ dạy kiến thức
mà cũng phải biết dỗ trẻ. GV phải nắm vững tâm lí của trẻ để động viên, khích
lệ các em ham mê học hành.
- HS lớp 2 rất hiếu động , dễ tin, rất nghe lời cô giáo song cũng rất nhanh
quên. Các em cũng đã biết phân biệt đúng sai, biết xử lí được tình huống đơn
giản, biết nói lên ý kiến của mình, nhận ra ra một mẫu hành vi chuẩn mực qua
bài học , mạnh dạn , tự do cá nhân hơn ,..…
- GV, đặc biệt lại là GV Tiểu học – một người Thầy tổng thể khơng chỉ dạy
các em tri thức mà cịn dạy các em cách làm người, hình thành những nhân cách
ban đầu cho trẻ. Vậy phải làm thế nào để đạt được những yêu cầu này? Đó là
một câu hỏi khó khơng phải ai cũng tìm được câu trả lời. Thấy từ vấn đề này, tôi
luôn coi trọng cả hai lĩnh vực dạy chữ và dạy người trong công tác giáo dục.
Một mặt học tập đồng nghiệp, trau dồi thêm chuyên môn để không ngừng phát
triển về năng lực giảng dạy, mặt khác tôi luôn coi trọng giáo dục đạo đức HS
3


trong công tác chủ nhiệm lớp. Tôi biết GV chủ nhiệm lớp là người chịu trách
nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lí của hiệu trưởng đối với lớp và các
thành viên trong lớp. Ở cấp Tiểu học nơi mà các em đang hình thành và phát
triển nhân cách, GV chủ nhiệm cũng là người phối hợp với các tổ chức, đồn
thể trong trường trong đó quan hệ nhiều là tổng phụ trách đội , hội cha mẹ HS ,
để làm tốt công tác dạy- học-giáo dục HS trong lớp phụ trách.Trong thực tế cũng
có GV đến trường chỉ quan tâm nhiều đến việc dạy, chưa quan tâm đến việc hình
thành nề nếp và tìm hiểu tình cảm cuộc sống của các em… Để có một lớp HS
ngoan, chịu khó học tập, đội ngũ tự quản tốt, biết vâng lời thầy cô, biết yêu quý

bạn bè, biết giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn, biết giữ gìn của cơng, biết giao tiếp,
ứng xử văn minh, lịch sự…Thì thầy cơ phải làm gì? Làm như thế nào cho có
hiệu quả?
Điều này đã thơi thúc tơi trăn trở để tìm ra giải pháp thực hiện cơng tác chủ
nhiệm lớp sao cho có hiệu quả. Chính vì vậy tơi đã mạnh dạn lựa chọn : “ Một
số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường Tiểu học ”nhằm đúc
rút một số kinh nghiệm về công tác này đồng thời mong được bạn bè đồng
nghiệp bổ sung góp ý thêm để cơng tác này có hiệu quả trong trường học.
II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :
1.Mục đích nghiên cứu:
Lựa chọn sáng kiến kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm lớp tơi khơng
mong muốn gì hơn là tìm ra những giải pháp hợp lí để làm tốt cơng tác chủ
nhiệm gắn liền với đời dạy học của mình.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu :
- Nghiên cứu thực trạng HS liên quan đến cơng tác chủ nhiệm lớp.
- Tìm ra những giải pháp đem lại hiệu quả trong công tác chủ nhiệm lớp.
- Đề xuất với cấp trên tạo điều kiện giúp đỡ về mọi mặt để thực hiện tốt
hơn công tác này.
III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4


1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu mọi hoạt động liên quan đến công tác chủ nhiệm lớp.
- Nghiên cứu tâm lí đối tượng HS để tìm ra biện pháp tốt nhất giáo dục HS
trong công tác chủ nhiệm lớp.
2. Phạm vi nghiên cứu .
- Lĩnh vực nghiên cứu: Công tác chủ nhiệm lớp .
- Đối tượng thực nghiệm: HS lớp 2
- Thời gian thực nghiệm: Từ tháng 9 - 2014 đến hết tháng 3 - 2015

- Địa điểm: Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám, huyện Ân thi, tỉnh Hưng
Yên
Năm học này được phân công chủ nhiệm lớp 2A nên tơi chỉ vận dụng tại
lớp mình chủ nhiệm với số lượng HS là 35 em.
3. Phương pháp nghiên cứu:
3.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc các tài liệu cần thiết. Tìm hiểu
tâm sinh lý lứa tuổi của HS .
3.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn : Điều tra quan sát; Tìm hiểu,
phỏng vấn GV, phụ huynh HS; Điều tra HS.
3.3. Phương pháp kiểm tra, thống kê kết quả: Kiểm tra chất lượng qua
mỗi giai đoạn. Thống kê kết quả ở từng giai đoạn.
3.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: GV rút kinh nghiệm cho mình,
tổng kết thành các bài học cơ bản.

PHẦN 2 : NỘI DUNG
I-CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI :
1. Cơ sở lí luận :
1.1. Căn cứ theo Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2014- 2015
5


- Mục tiêu giáo dục Tiểu học được xác định trong điều 27 của luật giáo
dục “ Giáo dục Tiểu học nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự
phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản để HS tiếp tục học Trung học cơ sở”. Chính vì thế, giáo dục Tiểu
học là cấp học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Do vậy, người GV
Tiểu học nói chung và người GV chủ nhiệm nói riêng có vị trí, vai trị quan
trọng, góp phần quyết định trong trong việc thực hiện hoạt động dạy và học có
chất lượng .
1.2 . Căn cứ khoa học của đề tài :

Trong xã hội hiện nay, nền kinh tế thị trường làm cho đời sống, ý thức của
người dân được cải thiện hơn, ai ai cũng từ chỗ “no cơm ấm áo” dần dần tiến tới
“ăn ngon mặc đẹp”, chăm lo cho tương lai con cái nhiều hơn; chính sách mở
cửa, giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các nước cũng rất đa dạng. Điều đó đã tác
động ít nhiều đến sự nhận thức, hiểu biết của các học sinh chúng ta. Cho nên ta
dễ dàng nhận thấy rằng học sinh ngày nay thông minh, nhanh nhẹn, sáng tạo và
hiểu biết hơn. Đúng như ông cha ta đã từng nói: “Hậu sinh khả uý”. Đây là một
điều rất đáng mừng vì: “Con hơn cha là nhà có phúc”.
Tuy nhiên ta khơng thể khơng bàn tới mặt trái của nền kinh tế thị trường.
Những cái xấu đã và đang len lỏi vào thế hệ trẻ chúng ta. Nó khiến những người
làm cơng tác giáo dục, các bậc phụ huynh phải băn khoăn, lo lắng.
1.3. Tính mới của đề tài:
Công tác chủ nhiệm là một công việc thường xuyên, khá gắn bó với
người GV và hầu như GV dạy bộ môn nào cũng từng kinh qua công tác này.
Vì vậy, đối với mỗi nhà giáo trong quá trình đảm nhiệm trọng trách này
đều tích luỹ cho mình một số kinh nghiệm riêng. Hơn nữa trong thời đại ngày
nay, cùng với sự tiến bộ của xã hội, sự giao lưu văn hố, kinh tế,… rộng rãi như
đã nói ở trên thì vấn đề làm sao để đáp ứng tốt vai trị một GV chủ nhiệm là vấn
đề khơng hề cũ. Kéo theo, những kinh nghiệm mà GV chủ nhiệm tích luỹ được
cần được quan tâm, chia sẻ, bồi dưỡng thêm nhằm mục đích làm tốt cơng tác
chủ nhiệm, làm tốt nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân đã tin tưởng giao phó là
6


giáo dục, rèn luyện các em ngày càng tốt hơn, giúp các em trở thành những con
người lao động “vừa hồng, vừa chun”, sống hồn thiện, có ích trong tương
lai.
Chính vì những lẽ đó mà tơi đã dành khá nhiều thời gian, tâm sức cho cơng
tác chủ nhiệm lớp mình. Hơm nay tơi mạnh dạn trình bày đề tài “một số kinh
nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp” đúc kết kinh nghiệm từ quá trình chủ

nhiệm lớp của bản thân tôi trong các năm học vừa qua, đặc biệt là năm 2014 –
2015. Rất mong sự góp ý chân thành của cấp trên cùng quý bạn đồng nghiệp để
tôi ngày càng có thêm nhiều kinh nghiệm qúy báu trong cơng tác chủ nhiệm
lớp, giúp tơi hồn thành cơng tác tốt hơn và cũng là hồn thiện bản thân mình
hơn .
2. Cơ sở thực tiễn :
Qua thực tế, ta nhận thấy đạo đức học sinh tiểu học chưa chịu tác động
nhiều của xã hội như học sinh Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Nhưng
dường như cũng đã bị xem nhẹ, do quan hệ giữa người với người, giữa cha mẹ
học sinh với xã hội, mà đa số phụ huynh học sinh có con ở lứa tuổi tiểu học thì
họ đều rất trẻ . Những lối sống , cách cư xử của cha mẹ trẻ. Rồi các tệ nạn xã hội
như lưu truyền, tiếp xúc văn hóa phẩm đồi trụy, cờ bạc, mang về gia đình hay
mơi trường xung quanh hàng xóm một phần cũng đã ảnh hưởng tới đạo đức học
sinh tiểu học….và đằng sau đó là một sự yêu chiều quá mức của gia đình. Thực
trạng này ln là rào cản, gây khó khăn cho những người làm cơng tác chủ
nhiệm lớp. Bởi vì người giáo viên chủ nhiệm đâu chỉ là quản lí các em mà còn
phải dạy dỗ, phải chịu trách nhiệm về mặt học tập, đạo đức của các em. Tơi
thường nói với các em rằng: Các em là con của cô, cô thay mặt nhà trường (cùng
với cha mẹ các em) là người uốn nắn, dạy bảo các con mang cho các con kiến
thức , là người dìu dắt để các con vững bước vào tương lai. Do đó, chủ nhiệm
lớp là một cơng việc khó khăn nhưng vơ cùng nghiêm túc.
3. Khảo sát thực tế:
3.1.Tình trạng khi chưa thực hiện:
7


- Qua nghiên cứu thực tế, tôi thấy không phải ai, không phải GV nào
cũng làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Bởi vì cơng tác này địi hỏi người GV cần
có một nghệ thuật. Khơng chỉ cần chun mơn vững đảm bảo dạy tốt cho các em
những tri thức cần thiết của lớp mình phụ trách mà cịn cần một tấm lịng u

trẻ, một sự nhiệt tình trong cơng tác, nắm bắt đặc điểm tâm lí của từng em để có
thể đưa ra biện pháp giáo dục cho phù hợp.
3.2. Thuận lợi:
GV chủ nhiệm nhận được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát của chi bộ Đảng,
của Ban Giám Hiệu, của Cơng đồn giáo dục cơ sở cùng sự giúp đỡ của tất cả
các ban ngành trong HĐSP nhà trường.
- Bản thân năng nổ, thích học hỏi, tìm tịi sáng tạo là người trực tiếp giảng
dạy các môn cơ bản ở lớp nên thời gian tiếp xúc với lớp chủ nhiệm rất nhiều .
Đội ngũ các thầy cô giáo bộ mơn nhiệt tình, u nghề và trách nhiệm cao,
chun môn vững vàng.
Hầu hết các phụ huynh HS đều rất quan tâm đến việc học của các em.
Đội ngũ cán sự lớp tập trung những thành viên khá tích cực, ham hoạt
động.
3.3. Khó khăn:
Đầu năm học 2014 - 2015 tôi được Ban Giám Hiệu nhà trường phân
công chủ nhiệm lớp 2A. Đây là lớp có trình độ tiếp thu của HS khơng đồng đều .
- Nhiều em có hồn cảnh khó khăn phải phụ giúp gia đình, ít dành thời
gian cho việc học.
- Đa số học sinh chưa ý thức học tập còn ham chơi.
- Một số phụ huynh học sinh mải làm ăn bươn chải cuộc sống, ít có thời
gian điều kiện để quan tâm chăm sóc con cái (như đi làm công ty từ sáng đến tối
mới về, đi làm xa, vài tháng mới về 1 lần, gửi con ở nhà ngoại, nội, cơ dì, chú,
bác, …)
- Khn viên nhà trường gần quán xá, đường giao thông, quán Internet ,..
Qua tìm hiểu tơi thấy lớp 2A có một số đặc điểm sau:

8


* Thành phần: Lớp có 35 em: 18 nữ, 17 nam. Học sinh trong lớp

không đồng đều cả về thể lực cũng như học lực.
Lớp có 1 HS có hồn cảnh đặc biệt:
- Em Nguyễn Văn trọng ( thuộc hộ nghèo, bản thân em bị dị tật bẩm sinh
vùng hậu mơn, thường ngày phải đóng bỉm đến lớp ).
- Ngồi ra cịn có một số em có hồn cảnh khó khăn như em Phí Văn Đức,
em Vũ Thị Thu Huyền nhà thuộc hộ cận nghèo; em Nguyễn Tiến Dũng có bố
mẹ đi làm ăn xa, phải ở nhà với bác,...
*Về đạo đức: Nhìn chung các em ngoan song chưa tự giác, hiếu động, một
số em còn nhút nhát, xa lánh bạn bè, một số khác lại hay cãi, nghịch ngợm, hứa
rồi xin lỗi nhưng lại mắc khuyết điểm, một số lại hay nói tự do, nghĩ sao là nói
vậy cho dù đang học hay đang chơi. Nhìn chung lớp 2A có nhiều HS cịn hay
nói tự do, đối tượng HS khác nhau và rất phức tạp.
*Về học tập: Qua kết quả khảo sát đầu năm cũng phần nào phản ánh được
kết quả học tập của các em. Lớp có một số em lực học giỏi nhưng ngược lại có
những HS tiếp thu rất chậm (cả tiết học chỉ viết được vài chữ ,... ), đặc biệt là em
Nguyễn Chí Kiên không viết nổi từ 10 đến 15 chữ , ....

Sau đây là kết quả kiểm tra đầu năm:
Số

Lần

HS

KT

35em

Lần
1


Hạnh kiểm

Học lực

Đ



Giỏi

35

0

100% 0%

12

Khá
34,3%

10

TB
28,6%

11

Yếu

31,4%

02

5,7%

II.BIỆN PHÁP THỰC HIỆN .

9


1. Biện pháp 1 : Tìm hiểu học sinh , nắm rõ, nắm vững tình hình lớp
chủ nhiệm:
Muốn giáo dục học sinh thì phải hiểu được tâm tư tình cảm nguyện vọng
của các em. Nhưng làm thế nào để hiểu được những đều ấy một cách tường tận?
Theo tơi đó là tiếp cận với lớp chủ nhiệm nghĩa là chúng ta phải tiếp xúc gần gũi
trị chuyện tìm hiểu về hồn cảnh, đặc điểm tâm sinh lí, tính tình sở thích… của
các em. Vì vậy trước tiên khi phụ trách một lớp tơi đã tìm hiểu học sinh qua các
mặt.
Ngay từ tuần đầu của năm học tơi đã tìm hiểu tỉ mỉ hồn cảnh, cá tính của
từng em. Có nắm chắc hồn cảnh của từng em, cá tính của từng em, mới biết
được sở thích, nguyện vọng cá nhân của từng em, giúp cho việc giáo dục đạo
đức, xây dựng nề nếp, giúp cho việc giảng dạy của giáo viên, học tập của học
sinh đạt kết quả tốt. Không chỉ dừng ở việc tìm hiểu học sinh qua xem sơ yếu lí
lịch mà tơi cịn , đến thăm gia đình các em nghe ý kiến của cha mẹ các em. Tơi
cịn thường xun gần gũi chuyện trị. Chính sự gần gũi của cơ mà các em
khơng cịn cảm thấy sợ và ngần ngại mỗi khi nói chuyện . Để để tìm hiểu và
nắm bắt được các nội dung trên tơi tiến hành làm các công việc sau:
Bước 1: Điều tra lí lịch học sinh qua phiếu Sơ yếu lí lịch vào tuần đầu tiên
của năm học mới với các nội dung sau:

SƠ YẾU LÍ LỊCH HỌC SINH

I. Phần tự ghi của học sinh
1. Họ và tên học sinh:……………….…………………… Giới tính: ……
2. Ngày…. tháng…. năm sinh…… Dân tộc:…..….. Tôn giáo:……….
3. - Địa chỉ thường trú: Xóm………..thơn ………..xã ……….huyện
.....................................................................................................................
- Số điện thoại bàn của gia đình:…………………
4. - Họ, tên cha: ………….Tuổi……….Nghề nghiệp:………
Số điện thoại của bố :………….
- Họ, tên mẹ: ……………Tuổi……….Nghề nghiệp:……….
10


Số điện thoại của mẹ :………….
5. Là con thứ .......trong tổng số ......con trong gia đình .
6. Điều kiện kinh tế gia đình:………………….
7. - Xếp loại của năm học 2013 - 2014:
- Học lực:…………….Hạnh kiểm:………………
- Chức vụ đã làm ở năm học 2013 - 2014:……………
8.Năng khiếu:………………………..
- Những điều yêu thích :
……………………….……..........................................................................
- Những điều lo sợ :
.......................................................................................................................
9. Các bạn thân hiện nay:…….....................................……
10. Chỉ tiêu phấn đấu của em trong năm học này:
Kiến thức, kĩ năng:…………………….........………..
Năng lực:…………………........................…………….
Phẩm chất:………………......................……………….

11. Em có ý kiến, đề nghị gì với GVCN và nhà trường:
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
B. Phần ghi của PHHS.
1. PHHS có thường xuyên quan tâm, giáo dục con em mình hay khơng ?
Vìsao ?.......................................................................................................
.

2. PHHS tạo điều kiện gì cho con em mình học tốt ?
.......................................................................................................................
3. PHHS có nhận xét gì về con em mình?
…………………………………………………………………………………
4. PHHS có đề nghị gì với nhà trường và GVCN?
………………………………………………………………………….......
Bước 2:
11


Để kiểm tra độ chính xác của các thơng tin mà tôi thu thập được qua
phiếu điều tra tôi cố gắng tìm hiểu thơng qua nhiều kênh khác nhau như từ bạn
bè, người quen, chính quyền địa phương, đến thăm gia đình một số học sinh,…
Qua đó sẽ hiểu biết cụ thể hơn, chi tiết hơn hồn cảnh gia đình các em. Từ đó tơi
có những hình thức, những biện pháp giáo dục linh hoạt phù hợp với từng em
bởi giáo dục khơng phải là một cơng thức chung có sẵn. Bên cạnh đó tơi cịn trị
chuyện với GVCN của năm trước, liên hệ các GVBM trong lớp để có thêm
những thơng tin chính xác về các em.
Bước 3:
Đây là bước tiến hành thường xuyên ở từng giai đoạn. Tôi cung cấp số
điện thoại của bản thân, của nhà trường đến từng em và liên hệ với gia đình học
sinh qua điện thoại, sổ liên lạc. Đây là sự liên hệ hai chiều qua lại giữa nhà

trường với gia đình, giữa GVCN với PHHS. Bằng các hình thức liên hệ đó tơi sẽ
nắm được những diễn biến về đạo đức, về học tập của các em từ đó có thể đánh
giá hiệu quả những tác động sư phạm đồng thời điều chỉnh phương pháp giáo
dục. Vì đạo đức, học lực của từng em luôn biến đổi từng giờ, từng ngày chứ
không phải là bất biến theo kiểu “Đầu sao đuôi vậy”.
* Tiến hành làm sổ chủ nhiệm:
Sổ chủ nhiệm được xem là nhật kí của lớp. Nó ghi lại kết quả học tập,
những diễn biến trong lớp trong suốt một năm học vì vậy khi làm sổ chủ nhiệm
tơi thật thận trọng, tôi ghi đầy đủ các chi tiết theo mẫu: Trong đó tơi chú ý nhất
là:
- Sơ đồ chỗ ngồi.
- Danh sách cán bộ lớp. (Địa chỉ – số điện thoại).
- Nội quy trường lớp.
- Theo dõi kết quả thi đua.
- Theo dõi học sinh cá biệt.
- Theo dõi mọi mặt từng HS theo định kỳ.
- Kiểm diện phụ huynh đi họp.
2. Biện pháp 2 : Ổn định nề nếp, xây dựng nếp tự quản tích cực:
12


2.1. Ổn định nề nếp, xây dựng nếp tự quản :
Ở lứa tuổi lớp 2, thiết nghĩ các em đã bắt đầu có khả năng tự quản, phát
huy trách nhiệm của bản thân, trong mọi công việc trên tinh thần dân chủ, tôi
luôn tôn trọng tin tưởng và giáo dục cho các em ý thức tự giác, tích cực phê bình
và tự phê bình. Kích thích tính tự trọng và tình đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ ở mỗi HS.
Xây dựng nề nếp là một trong những nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu của
người GV tiểu học. Thực tế, nếu một lớp học , HS khơng có nề nếp thì việc giáo
dục và dạy học sẽ khơng đạt hiệu quả cao. Để xây dựng một tập thể tự quản tốt,

muốn ổn định nề nếp học tập thì cần có đội ngũ cán bộ, cán sự lớp năng động
sáng tạo, trách nhiệm. Vì lẽ đó bầu ban cán sự lớp là một việc cần phải suy nghĩ
tính tốn khơng phải học sinh nào cũng đảm nhiệm được.
Ngay từ đầu năm, sau khi được BGH nhà trường phân công chủ nhiệm
lớp 2A, tôi bắt tay vào việc ổn định tổ chức lớp . Tôi cho các em bầu ban cán
sự lớp. Như vậy các em được tự chọn ra bạn ngoan, gương mẫu, học tập tốt và
có khả năng lãnh đạo lớp vào đội ngũ cán bộ lớp. Đội ngũ cán bộ lớp đã có, tơi
họp riêng các em phân công nhiệm vụ cho từng em .
Trong buổi sinh hoạt lớp đầu năm tôi đã làm các công việc sau:
+ Em lớp trưởng: quán xuyến chung cả lớp, thay mặt GV kiểm tra, đôn đốc
việc thực hiện những qui định của lớp, của trường: đôn đốc các bạn thực hiện
truy bài, kiểm tra đồng phục, việc xếp hàng ra vào lớp, xếp hàng khi thể dục,
sinh hoạt tập thể . hàng tuần, hàng tháng, học kì, năm học và có báo cáo cho
giáo viên chủ nhiệm.
+ Em lớp phó phụ trách học tập : Kiểm tra việc làm bài và học bài ở nhà
của các bạn và giúp đỡ các bạn khi các bạn chưa hiểu bài… và báo cáo cho
lớp trưởng kết quả học tập của lớp hàng tuần, hàng tháng.
+ Lớp phó phụ trách văn nghệ thưịng xun giữ nề nếp hát đầu giờ, giờ ra
chơi vào, sinh hoạt văn nghệ cuối tuần , trong các đợt thi do trường tổ chức.
+ Lớp phó phụ trách lao động thường xuyên quán xuyến cả lớp khi làm vệ
sinh “1 phút sạch trường”, khi lớp lao động, vệ sinh cá nhân .
13


+ Tổ trưởng (Dãy trưởng): Theo dõi các hoạt động của tổ (dãy), nắm kết
quả học tập của từng tổ viên, xếp loại đánh giá tổ viên và báo cáo cho lớp trưởng
tổng hợp.
* Sắp xếp chỗ ngồi:
 Chú ý các em có nhu cầu về tai mắt để ưu tiên ngồi lên trên
 Chú ý tới vóc dáng chiều cao, giới tính, học lực (Thấp ngồi trước, cao

ngồi sau; nam - nữ xen kẽ; HS Giỏi - Yếu, Khá - Trung bình ngồi cùng bàn;
Tỉ lệ Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu ở các tổ đều nhau).
Chú ý những em HS cá biệt, những em có học lực kém, hạn chế trong tiếp thu
bài, hạn chế trong giao tiếp,...
* Một số yêu cầu khác:
 Học nội quy nhà trường , thảo luận và đề ra nội quy của lớp.
 Các em chép nội quy nhà trường và về nhà theo dõi xin ý kiến của
PHHS.
 Qui định về thưởng phạt: Cuối mỗi tháng , mỗi học kì, bất kì HS nào
có ý thức vươn lên, phấn đấu trong học tập, rèn luyện đạt kết quả tốt nhất có thể
được khen thưởng đồ dùng học tập / HS.(Trích từ quỹ lớp, GVCN hỗ trợ thêm,
…).
 Chú y: Những qui định này được đặt ra trên tinh thần dân chủ, phải
lấy ý kiến của số đông tránh việc áp đặt. Khi đặt ra những qui định nội quy của
lớp thì phải cố gắng thực hiện đúng , đều tránh tình trạng “đánh trống bỏ dùi”.
Và khi có sự thay đổi cũng phải lấy ý kiến của học sinh.
2.2. Xây dựng nề nếp trật tự kỷ luật:
- Ngày đầu tiên mới nhận HS, tôi quy định rõ ràng: HS lớp 2 là phải học
nhiều hơn HS lớp 1, hơn nữa thời gian lại có hạn, chính vì vậy trong giờ học
khơng ai nói chuyện riêng, khơng ai nói tự do những việc ngồi lề. Nếu phát
hiện có em nói chuyện hay làm việc riêng trong giờ, tơi ngừng giảng và nhìn
đúng tại nơi đó với ánh mắt nghiêm khắc. HS tự giác ổn định lại ngay sau đó và
giờ học lại được tiếp tục. Đây là một biện pháp rất hiệu quả khiến cho công tác
14


chủ nhiệm của tôi nhàn hơn. Không phải ngẫu nhiên mà bạn bè đồng nghiệp của
tôi thường nhận xét rằng tơi khơng bao giờ nói to là vì thế.
- Đặc biệt, HS lớp 2 thường hay mách cô. Với những lần như vậy tôi luôn
phải hỏi rõ ngọn nguồn. Cả hai đối tượng đều được trình bày cộng với nhân

chứng (nếu có). Từ đó GV mới có cách giải quyết cơng bằng đối với các em. Có
những trường hợp GV phải chỉ ra lỗi cụ thể của một em hay cả hai đều mắc lỗi
thì cần xin lỗi nhau để giải tỏa. Sau những lần như vậy GV lại rút kinh nghiệm
những trường hợp này các em không nên và khơng cần thiết phải thưa cơ vì việc
đó khơng quan trọng. Dần dần HS tự nhận ra những việc gì thưa cơ là chính
đáng, cần thiết để giảm dần việc thưa mách cô, dành thời gian cho việc học tập .
- GV vừa cứng rắn cương quyết vừa thể hiện tình cảm dịu dàng thương u
chăm sóc các em. Song cũng cần thể hiện rõ sự nghiêm khắc không bỏ lửng khi
nhắc nhở, giao việc cho HS. Chẳng hạn, HS về nhà không học bài. Cô không
phạt mà yêu cầu lần thứ nhất cho phép các em về làm bù bài. Hôm sau cô phải
kiểm tra ngay. Nếu chưa làm cơ dành thời gian u cầu em đó hồn thiện bài tại
lớp. Tránh tình trạng cơ giáo giao việc cho HS song khơng có sự kiểm tra đơn
đốc khiến cho lời nói của cơ trở nên kém trọng lượng, lần sau cơ nói sẽ khơng
có hiệu lực nữa.
- GV kiên trì huấn luỵên phong thái tự tin cho HS làm lớp trưởng, luôn
nghiêm túc trong công việc mà cô giáo giao.
- GV hướng dẫn thật chi tiết, tỉ mỉ cho đội ngũ cán bộ lớp trong vài tuần
đầu để các em quen thành nếp và dần dần có đội ngũ tự quản tốt. Trên cơ sở đó
giáo yên tâm quản lí HS theo hướng chỉ đạo từ xa.
Ví dụ: Khi có tiếng : “ Một phút sạch trường – sạch lớp” : Lớp phó phụ
trách lao động điều khiển các bạn nhanh chóng vào vị trí tổ đã được phân công,
bàn trực nhật ở lại làm vệ sinh trong lớp học.
Truy bài ngồi theo nhóm (bàn) 2 người ơn lại bài cũ, kiểm tra việc học bài ở
nhà của nhau.
Khi xếp hàng ra vào lớp hay thể dục giữa giờ: lớp trưởng là người điều
động các bạn sao cho thật nhanh ngay ngắn.
15


* Sau mỗi tuần, GV cần tổ chức sinh hoạt lớp để nhận xét công việc trong

tuần qua: cả lớp cùng nhận xét các việc mà lớp đã thực hiện, nhận xét được mặt
tốt cần phát huy cho lớp trong thời gian tới.
Ví dụ : Lớp có bạn đi học trễ lớp nên nhắc nhở bạn đi học đúng giờ. Tuyên
dương HS gương mẫu, tập thể có nhiều cố gắng.
- GV ghi nhận những ý kiến đóng góp của các em và qua đó giáo dục các
em biết được hành vi đúng sai. Giúp các em phát huy những mặt mạnh sẵn có. Với những việc các em làm được GV kịp thời khen ngợi, tuyên dương nhằm
nhân rộng điển hình trong lớp, giứp nhiều HS học hỏi theo.
2.3.Xây dựng nề nềp học tập
- GV sử dụng một số kí hiệu hoặc lệnh để điều khiển HS thực hiện trong
giờ học.
Ví dụ: Khi GV chỉ vào hình trịn có dấu chấm ở giữa là HS ngồi khoanh tay
nhìn lên bảng.
Khi chỉ vào hình chữ nhật HS lấy bảng con. Khi đang dùng bảng mà GV
chỉ vào kí hiệu bảng thì HS lập tức cất bảng.
Khi bạn làm bài xong để cả lớp tập trung nhận xét chữa bài GV gõ 1 tiếng
thước.
Khi yêu cầu HS lấy đồ dùng hay cất đồ dùng thì GV chỉ vào chữ Đ bên góc
trái bảng.
Chia nhóm đơi, nhóm ba, nhóm bốn, nhóm năm , nhóm sáu, muốn HS hoạt
động theo nhóm nào GV chỉ thước vào kí hiệu đó viết sẵn ở góc trái của bảng
lớp.
- GV thường xuyên đến lớp sớm để cùng kiểm tra, chữa bài với các em.
(Mặc dù đã giao cho em lớp phó phụ trách học tập và các bàn trưởng). Công
việc này cần được kiểm tra vào đầu giờ học để có hiệu quả hơn.
- GV khuyến khích tất cả HS hăng hái phát biểu xây dựng bài.
Ví dụ: Khi gọi HS nhút nhát hoặc HS yếu trả lời được câu hỏi đề nghị cả
lớp động viên bạn bằng tràng pháo tay. Cịn để HS khá giỏi khơng cảm thấy
buồn chán thì để các em nhận xét ý kiến .
16



- GV sử dụng phương pháp học mà chơi – chơi mà học, nhưng khơng vì thế
mà làm ảnh hưởng đến những lớp xung quanh.
Ví dụ: Trong khi học các em phải đảm bảo trật tự, không phát biểu chung
cả lớp. Còn trong khi chơi các em cũng phải tuân thủ luật chơi, cổ vũ nhưng
không la lớn, không đập bàn.
- Giáo viên qui định cách giơ tay, giơ bảng, đứng đúng cách khi phát biểu.
Ví dụ:
Giơ tay phải, khuỷu tay chống xuống bàn, giơ tay đúng mới gọi phát biểu.
Khi giơ bảng: hai khuỷu tay chống xuống bàn, bàn cuối cùng mới giơ cao tay.
Đứng thẳng người, hai tay buông xuống khi được gọi phát biểu…
Ngay cả việc học tập ở nhà, tơi cũng có u cầu rất rõ ràng. Tơi phân tích
cho các em thấy, học là việc của chính bản thân các em. Bố mẹ, thầy cơ khơng
thể học hộ các em được. Do đó bài tập cơ giáo, các con phải tự giác làm. Khơng
có lí do gì lại nêu tại bố mẹ con khơng dạy con học, hay tại bố mẹ con không
nhắc nhở. Tiếp đó, tơi kiểm tra thật sát sao, ai khơng làm bài, cơ giáo nhắc nhở,
phê bình. Nhờ đó, HS lớp tôi được phụ huynh phản ánh là các em rất tự giác học
bài. Bố mẹ không cần giục giã, nhắc nhở mà con em họ rất lo lắng đến bài vở
của mình.
3 .Biện pháp 3 : Động viên khích lệ HS.
- Tôi biết rằng HS mới từ lớp 1 lên vẫn cị rất mải chơi, học khơng tập
trung. Song nắm được tâm lí trẻ rất thích làm người lớn. Chính vì vậy mà ngay
từ buổi học đầu tiên tơi đã động viên các em: “Từ hôm nay các con đã là HS lớp
2 rồi, các con đã lớn hơn nhiều, đã được các em lớp một gọi bằng anh, bằng chị
vậy thì chúng mình cần học tập tốt hơn, ngoan hơn để làm gương cho các em.
Nếu bạn nào chưa ngoan, chưa xứng đáng là HS lớp 2 thì sao? Các bạn có đồng
ý để cơ gửi về học lại lớp 1 không?’ Đương nhiên chẳng em nào muốn như vậy
cả. Thế là buổi học hôm ấy cũng như những buổi sau nếu có em nào chưa
ngoan, tơi cũng khơng cần nhắc tên chỉ cần nói nhẹ: “Bạn nào muốn về lớp cũ
thì bảo cơ nhé, cơ sẽ đưa con về.” Vậy là HS ý thức được ngay và tiếp tục tập

trung vào bài học.
17


- Trong q trình học, tơi ln nắm vững tâm lí trẻ rất thích khen nên dù
em có tiến bộ chỉ một chút thôi cũng cần tuyên dương, động viên để em cố gắng
hơn nữa. Chẳng hạn lớp tơi có em Ngọc Lan luôn đi học muộn. Cô giáo nhắc
nhở nhiều lần mà chưa tiến bộ. Đột nhiên có hơm em đi học đúng giờ, vậy là tôi
khen em trước lớp. Được các bạn khích lệ, từ hơm đó, số buổi đi học muộn của
em giảm hẳn và dần dần em đó đó cú thói quen đi học đúng giờ. Hay như em
Chí Kiên , em Việt Anh sự nhận thức rất chậm nên để theo kịp các bạn quả là
khó khăn. Em đọc viết kém, làm tính chậm. Tơi đó giúp đỡ em bằng cách
thường xuyên gọi tới. Khi em đọc bài, viết bài có tiến bộ hơn, tơi gần gũi động
viên, khen em có cố gắng. Khơng có HS dốt, chỉ có các bạn lười học là dốt thơi.
Được cơ quan tâm, các em đó có tiến bộ hơn nhiều, bước đầu đó biết làm tính
khơng cần sử dụng đến các ngón tay, chữ viết khơng cịn tình trạng con giun,
con rắn như trước nữa.
- Biết các em thích làm người lớn, tơi giao tồn bộ giờ sinh hoạt cho các
em. Dưới sự điều hành của lớp trưởng, các em được thoải mái trình bày những
suy nghĩ, những thắc mắc của mình, đến những phút cuối thì tơi là người giải
đáp những thắc mắc đó. Đặc biệt, biết trong lớp có nhiều em rụt rè, nhút nhát,
tơi gợi ý cử những em đó làm cán bộ lớp để các em mạnh dạn hơn trong giao
tiếp. Chính vì thế, ngoài việc nhận thức của các em được nâng lên từ những bài
học mà kĩ năng giao tiếp của trẻ cũng dần được hoàn thiện.
4 .Biện pháp 4 : Chăm sóc HS và giáo dục đạo đức và kĩ năng sống cho
HS .
*Chăm sóc học sinh:
Sau khi đã tìm hiểu HS tồn diện, việc chăm sóc HS đã có cơ sở. Tôi
thường xuyên theo dõi để uốn nắn, động viên kịp thời .
Có HS khi đến lớp cổ áo chưa bẻ tơi đi xuống bẻ cổ áo cho em, có em

đóng cúc nọ vào khuyết kia tơi nhẹ nhàng nhắc em ra ngoài để cài lại cúc. Nghe
thời tiết biết trời lạnh nhắc các em mặc ấm, đi tất …Vào giờ ra chơi, tôi dành
khoảng 10 phút đầu ngồi lại lớp hỏi chuyện cho các em thêm gần gũi. Có những
em tóc rối đầu bù, tơi chải lại giúp em, có em chân tay chưa cắt móng, tơi cắt
18


giúp và nhắc nhở các em khơng nên để móng tay dài.... Nhờ đó tình cảm thầy trị
thêm gần gũi và các em cũng khơng cịn ngần ngại để bày tỏ những vấn đề
riêng của mình.
*Giáo dục đạo đức:
- Giáo dục HS học và làm theo 5 điều Bác Hồ dạy và mười điều nội quy
của nhà trường . Hàng tuần vào giờ sinh hoạt có tổng kết khen ngợi hoặc nhắc
nhở những HS chưa thực hiện tốt.
- Tận dụng chương trình nội khố để thực hiện có hiệu quả. Về mặt tâm lý
tiểu học: Quá trình sư phạm tổng thể là một quá trình diễn ra cùng một lúc hai
q trình cơ bản khác: đó là q trình giáo dục với q trình dạy học, hai q
trình ln ln tác động lẫn nhau, chúng có quan hệ biện chứng lâu dài và phức
tạp: trong q trình giáo dục có sự góp mặt của q trình dạy học và ngược lại.
Trong nội dung bài học hầu như các bài đều có u cầu giáo dục đạo đức tình
cảm. Chính vì vậy người GV ngoài việc dạy học giúp HS nắm những kiến thức
cơ bản còn là một người mẹ hiền ln tận tuỵ với những đứa con bé bỏng của
mình.
- GV luôn là người làm gương, là tấm gương sáng cho các em HS. Người
thầy tốt sẽ sản sinh ra những học trò tốt.
* Giáo dục kĩ năng sống .
Giáo dục kĩ năng sống (KNS) cho học sinh là một việc làm rất quan
trọng và cần thiết . Điều đó giúp hình thành nhân cách HS, giúp các em tự tin,
cửu động cũng như khả năng xử lí các tình huống trong cuộc sống một cách
linh hoạt và nhạy bén .

Vậy làm thế nào để giáo dục KNS cho HS ?
Tơi nghĩ có nhiều phương pháp , nhiều cách thức để thực hiện việc này
như : thông qua các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp , các giờ sinh hoạt , các
buổi ngọai khóa và các tiết học , các trị chơi học tập ……
Ví dụ : Khi dạy Tiếng Việt tôi áp dụng phương pháp mới là : Tổ chức HS
học theo nhóm . HS được rèn luyện kĩ năng biết hợp tác , biết trình bày ý kiến
của mình …Khi các bạn trình bày kết quả thì các em sẽ lắng nghe để đánh giá ,
19


nhận xét . Qua đó HS sẽ được rèn kĩ năng lắng nghe tích cực và kĩ năng đánh giá
, nhận xét .
5. Biện pháp 5: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
- GV phải biết năng lực học tập của mỗi HS để từ đó phân các em thành
nhiều nhóm Phân hố theo đối tượng HS. GV có kế hoạch phương pháp cụ thể
nhằm giúp HS học tốt hơn.
- Xếp chỗ ngồi cũng rất quan trọng mà mỗi GV cũng cần chú ý. Những
năm học trước tôi quả thật chưa chú trọng đến vấn đề này. Biết cách sắp chỗ
ngồi HS không những hỗ trợ kiến thức cho nhau mà hoạt động nhóm hiệu quả
cũng rất cao.Mặc dù một năm đổi chỗ hai lần song tôi vẫn cố gắng đảm bảo mỗi
bàn 2 em dù hoạt động nhóm đơi, nhóm ba, nhóm bốn, nhóm năm hay nhóm
sáu, trong mỗi nhóm đều có HS khá hoặc giỏi.
- Trong lớp có HS chưa học tốt, GV liên hệ với phụ huynh HS hoặc đến
thăm tìm hiểu nguyên nhân.
- Đối với HS có hồn cảnh khó khăn , GV tìm hiểu tận tình, đề ra biện pháp
hỗ trợ giúp đỗ các em.
- GV phải thường xuyên chấm trả bài đầy đủ để nắm được tình hình sức
học của các em kịp thời uốn nắn, giúp các em thấy được lỗi của mình từ đó có
hướng khắc phục.
- GV cần học hỏi phương pháp giảng dạy tích cực để giảng dạy có hiệu

quả .
- Trong quá trình dạy học, GV là người điều khiển, tổ chức hướng dẫn HS
học tập: HS phải biết tự giác học tập để chiếm lĩnh kiến thức. Vì vậy GV phải
biết áp dụng các hình thức học tập nhằm phát huy tính tích cực của HS và gắn
liền với thực tế cuộc sống .
- Dạy đầy đủ các môn học , qua giờ thể dục, giờ học làm thủ công giúp các
em bớt căng thẳng để học tốt các môn khác đồng thời giúp các em khoẻ mạnh,
khéo léo hơn.
- Phát động phong trào Thi giải Toán , giải Tiếng Anh qua mạng Internet .

20


*Vở sạch chữ đẹp : Trong những giờ tập đọc, tôi không chỉ hướng các em
đến cách đọc đúng mà cũng hướng dẫn chúng đọc sao cho hay để sau này lên
lớp trên trẻ có kĩ năng đọc tốt. Khơng chỉ chú trọng đến đọc hay, tơi cịn lưu
tâm đến yêu cầu chữ đẹp. Tôi hướng dẫn kĩ cho các em từng nét cơ bản và mẹo
hay để viết các nét đó sao cho đúng, đẹp. Từ đó các em rèn luyện nhiều thì chữ
viết cũng đẹp hơn. Song cũng phải nói một điều rằng làm như vậy quả là vất vả
đối với GV chủ nhiệm. “ Nét chữ nét người” nên GV cố gắng trình bày chữ viết
trên bảng đẹp, mẫu mực. Hướng dẫn HS cách giữ vở, cầm bút, tư thế ngồi viết,
hướng dẫn đọc đúng, chuẩn trong các giờ tập đọc, chú ý hơn những em viết chữ
xấu, hay mất lỗi bằng cách thường xuyên chấm bài.
*GV chủ nhiệm phải ln có nghệ thuật tìm hiểu và tác động đến HS.
Ln nhìn HS ở thế vận động có tiến bộ về hạnh kiểm hoặc học lực. Khơng
thành kiến, không ghét bỏ, GV phải công bằng, biết tha thứ, có lịng bao dung,
khen nhiều hơn chê.
6. Biện pháp 6 : Kinh nghiệm giao tiếp và xử lí các tình huống sư phạm
Đối với người thầy giáo, cơ giáo thì việc giao tiếp và xử lí các tình huống
sư phạm là hết sức cần thiết và quan trọng. Việc giao tiếp đòi hỏi ở người GV

thật sự mẫu mực, thể hiện tính sư phạm. việc giao tiếp ở đây là giao tiếp với
đồng nghiệp, với phụ huynh HS và đặc biệt là với HS. Trong giao tiếp với HS
phải thể hiện sự gần gũi, chân thành, tôn trọng gọi các em cũng có thể coi HS là
bạn gọi là bạn xưng cơ. Khi các em có lỗi, cơ phê bình nhưng khơng dùng lời lẽ
xúc phạm, khi HS nói sai khơng chê. Xử lí các tình huống sư phạm địi hỏi
người giáo viờn phải thơng minh, làm thể nào mà không dồn HS vào chân
tường.
* Tổ chức tốt hội nghị phụ huynh:
Để có cuộc họp thành cơng GV chủ nhiệm phải chuẩn bị nội dung họp thật
chu đáo. Đến họp, phụ huynh ai cũng muốn biết chi tiết về con mình. Vì vậy GV
phải nắm chắc đặc điểm của từng em để báo cáo một cách đầy đủ và đúng khi
phụ huynh yêu cầu. Song đối với HS kém, đạo đức chưa ngoan, còn lười học

21


GV phải gặp riêng cho cha mẹ HS biết như vậy mới giữ được thể diện cho họ và
con em họ.
Trong cuộc họp cần cùng với phụ huynh HS tìm ra những biên pháp để giáo
dục HS, để xây dựng tập thể lớp.
* Kết hợp chặt chẽ với tổng phụ trách đội để xây dựng lớp thành một
sao đội vững mạnh:
- Tích cực tham gia vào sân chơi trí tuệ.
- Tham gia đầy đủ các đợt thi đua, các phong trào của đội .
- Cùng toàn thể liên đội tham gia tiết kiệm điện, tiết kiệm nước: ra khỏi
phòng tắt điện, vặn vòi nước vừa phải mỗi khi rửa chân tay, uống bao nhiêu rót
từng ấy…
Tóm lại ngưịi GV ngồi việc dạy chữ dạy kiến thức còn dạy người sao cho
các em trở thành ngưịi có ích cho xã hội sau này.
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC .

1.Về đạo đức ,nề nếp ,kỉ luật trật tự .
- Lớp 2A có nề nếp tốt của trường:
- Lớp đạt tiên tiến xuất sắc học kì I năm học 2014 - 2015
- Lớp nhất khối phong trào kế hoạch nhỏ (Thu gom giấy vụn, vỏ lon,... )
- Nhiệt tình tham gia ủng hộ trẻ khuyết tật.
- Cả lớp biết đoàn kết , yêu thương , giúp đỡ nhau trong học tập , trong
sinh hoạt .
- Thực hiện tốt nội quy của trường , của lớp và nhiệm vụ của người HS .
- Giữ vệ sinh trưòng lớp: Biết bỏ rác vào thùng khi ăn quà, làm thủ công
- Chơi với bạn vui vẻ, cạnh tranh lành mạnh trong học tập.
- Tập trung trong giờ học , giờ truy bài có hiệu quả, ...
- Tiết kiệm điện, nước.....
2. Về học tập : Kết quả cao hơn so với đầu năm, nhiều em tự giác học tập
- Có nhiều em tham dự thi Tiếng Anh, thi giải Tốn qua mạng Intenet. Có
nhiều em đạt chữ viết chữ đẹp của trường .
22


Đó chính là nguồn động viên tinh thần cho tơi trong công tác chủ nhiệm.
Sau đây là bảng kết quả so sánh đối chứng sau khi thực hiện đề tài :
(Lần 1: Đầu năm; Lần 2: Cuối HKI; Lần 3: Giữa HKII)
Số

Lần

HS

KT

35em


Hạnh kiểm

Học lực

Lần

Đ



Giỏi

1

35

0

100% 0%
Số

Lần

Năng lực

HS

KT


Phẩm chất

35em

Lần
2
Lần

35em

3

Đ



35

0

100%

0%

35

0

100% 0%


12

Khá
34,3%

10

TB
28,6%

11

Yếu
31,4%

02

5,7%

Kiến thức, kĩ năng
Giỏi

TB

Khá

Yếu

15


42,9%

12

34,3%

7

20.0%

01

2,9%

19

54,3%

10

28,6%

6

17,1%

0

0%


PHẦN 3 : KẾT LUẬN
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Qua quá trình làm cơng tác chủ nhiệm, với những thành quả đã đạt được
cho tôi ngày hôm nay. Tôi rút ra được các kinh nghiệm sau:
- GV chủ nhiệm cần có lịng nhiệt tình tính chịu khó, năng động sáng tạo
nhất là thực sự yêu mến quan tâm đến HS như chính con em mình. Đúng như
ơng cha ta đã nói: “Trồng cây gì thu được quả đó”. Vâng! Chúng ta hãy yêu
thương các em bằng chính trái tim của người anh, người chị, người cha, người
mẹ, lúc đó ta hiểu được các em cần gì? Ước mơ gì?
- Người GV cần phải nắm và am hiểu sự phát triển tâm sinh lí của HS tiểu
học để để có biện pháp giáo dục không phải là khuôn mẫu, mỗi con người đều
có hồn cảnh, có tình cảm, tính tình khác nhau cho nên việc am hiểu các em và
23


tìm biện pháp giáo dục thích hợp quả là khơng đơn giản. Nó vốn đã khó với một
GV lại càng khó hơn đối với một GV chủ nhiệm. Nhưng càng đắng cay bao
nhiêu thì thành quả lại càng ngọt ngào và đáng trân trọng bấy nhiêu.
- Người GV phải thực sự mẫu mực, phải là tấm gương sáng toàn vẹn từ nhận
thức đến hành động thực tiễn, từ lời nói cử chỉ điệu bộ đến thái độ ứng xử hằng
ngày đây là cách giáo dục dùng nhân cách tác động đến nhân cách. Để trở thành
tấm gương sáng cho HS noi theo.
- GV chủ nhiệm cần phải có lí tưởng nghề nghiệp đúng đắn, phải thực sự am
hiểu nắm bắt sâu sát, chủ trương đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước
trong thời kì đổi mới. Chính lí tưởng và lòng yêu nghề mến trẻ sẽ là nghị lực
niềm tin để người GV vững bước trong sự nghiệp giáo dục mà mình đã theo
đuổi.
- GV cần phải khơng ngừng học tập, trau dồi chun mơn, phải có tay nghề
cao. Đây chính là yếu tố quyết định sự thành cơng của cơng tác chủ nhiệm
* Tóm lại, để làm tốt cơng tác chủ nhiệm, địi hỏi người giáo viên chủ nhiệm

không chỉ phải là một GV dạy tốt môn học văn hoá, phải quan tâm đến chất
lượng các mặt kiến thức, kĩ năng, năng lực và phẩm chất của HS ( đây là những
vấn đề trọng tâm) mà còn phải quan tâm đến sự phát triển ở học sinh về các giá
trị đạo đức, thẩm mỹ, thể chất,…Do vậy, theo tôi, hai yếu tố cốt lõi không thể
thiếu đối là người GV chủ nhiệm lớp đó là “cái tài” của một nhà tâm lí và “cái
tâm” của một nhà giáo dục. Khi kết hợp nhuần nhuyễn, hoà quyện hai yếu tố
này thì người GV nói chung, người GV chủ nhiệm lớp nói riêng đã có thể làm
tốt trách nhiệm của mình trong thời đại mới ngày nay và hơn thế làm thăng hoa
nhân cách của mình trong lịng bao thế hệ đồng nghiệp và học trò yêu dấu.
II. KHUYẾN NGHỊ :
Muốn làm tốt cơng tác chủ nhiệm lớp cần có sự quan tâm giúp đỡ của nhiều
các ban ngành đoàn thể và hội cha mẹ HS. Vì vậy tơi có một số ý kiến đề xuất
như sau:

24


- Nhà trưịng cùng bên đồn - đội có phần thưởng cho các em sau mỗi đợt
thi đua, cho những em, những lớp có thành tích cao.
- Đội cần tổ chức thêm nhiều hoạt động tập thể hơn nữa, tổ chức nhiều sân
chơi cho các em được tham gia.
- Cha mẹ HS phải chú ý chăm sóc con cái chu đáo hơn nữa. Giáo dục, kèm
cặp các em học đúng phương pháp.
* Bản sáng kiến về công tác chủ nhiệm lớp của tơi chắc cịn nhiều thiếu sót,
Tơi rất mong được sự đóng góp của các cấp lãnh đạo cũng như của tất cả các
quý thầy cô. Và đặc biệt là các thầy cô đã từng làm công tác chủ nhiệm lớp để
cho đề tài ngày càng hoàn thiện hơn góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Hoàng Hoa Thám, ngày 15 tháng 4 năm 2015

Người viết:

Đàm Thị Ngân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhiệm vụ năm học 2014 – 2015
2. Kế hoạch chuyên môn nhà trường.
3. “Công tác giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông”- NXB Giáo dục
4. Điều lệ trường Tiểu học.
5. Luật Giáo dục - 2005 – Bộ GD - ĐT
6. Luật phở cập Giáo dục tiểu học.
7. Tâm lí học đại cương – PGS Nguyễn Quang Uẩn ( chủ biên)
8. “Những điều giáo viên chủ nhiệm cần biết” NXB Lao động -2009
9. Sổ chủ nhiệm.
10. Sổ theo dõi chất lượng giáo dục
25


×