Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

skkn một số giải pháp nhằm giảm tình trạng học sinh nói chuyện riêng trong giờ học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.32 KB, 9 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢM TÌNH TRẠNG HỌC SINH NĨI
CHUYỆN RIÊNG TRONG GIỜ HỌC
1. Họ và tên: LÊ THỊ MỸ THIỆN
2. Chức vụ: Giáo viên
3. Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Chu Văn An Đam Rông
– Lâm Đồng.
4. Lý do chọn đề tài:
Đất nước ta đang trên đường phát triển, phát triển về kinh tế xã hội
và song song với đó là phát triển về nền văn hóa, nền văn minh nước nhà. Lối
sống văn hóa, văn minh đã phát triển và lan tỏa rộng khắp xã hội ta. Thế
nhưng đâu đó, vẫn cịn những hành vi khơng phù hợp với nền văn hóa tiên
tiến nước ta tồn tại. Đặc biệt, trong một môi trường đầy tri thức như trường
học thì những hành vị đó lại tồn tại một cách khá phổ biến, đó là quay cóp,
chửi tục,…nhưng hành động thường gặp nhất vẫn là nói chuyện riêng trong
lớp học.
Nói chuyện riêng trong giờ học, tức là các em những người học
sinh – nói, bàn bạc và thảo luận về
những vấn đề rất “trọng đại, lớn lao”
khơng hề liên quan đến những gì mà người giáo viên đang giảng dạy trên lớp,
chẳng hạn như “bộ phim hoạt hình hơm qua như thế nào”, “kẹp tóc mới của
mình ra sao”,…Và cái việc bàn luận những sự
việc như thế trong giờ học
dường như đã trở thành “chuyện thường ngày” ở hầu hết các trường học, lớp
học

nước
ta.
Để rồi những người học sinh đấy sẽ phải bỏ lỡ một phần hoăc tất cả những
kiến thức, thông tin về bài học mà người giáo viên đang giảng dạy.


Trên tất cả, hành vi nói chuyện riêng trong giờ học có thể nói là một
hành vi vơ văn hóa, thật khó có thể chấp nhận được khi nó được thực hiện
bởi những người đã và đang học văn hóa trong trường lớp. Hành vi này vơ
văn hóa ở chỗ những người thực hiện nó, tức là đã khơng dành sự tơn trọng
cho người đang truyền giảng kiến thức cho mình, cho những người xung
quanh mình và cho cả chính bản thân mình.
Hành vi này là kết quả của sự kết hợp giữa những người học sinh
đã đánh mất đi lòng tự trọng, đã đánh mất đi tinh thần hiếu học với những
người cầm phấn có một phương pháp giảng dạy rất ư là “hấp dẫn”, “hấp
dẫn” đến nỗi khiến người học khó có thể mà tập trung vào bài học được.
Một tiết học mà người dạy vô cùng nhàm chán, khô khan thì làm sao có thể


khiến học sinh chú ý và một học sinh lười biếng, khơng có lịng tự trọng thì
dù tiết học có hay, sinh động đến thế nào đi chăng nữa thì cũng ko thể khiến
người học sinh đó chú ý được. Hành vi này đe dọa nghiêm trọng đến chất
lượng giáo dục đối với khơng chỉ những học sinh đó mà cịn cả lớp nói chung.
Để góp phần vào việc đưa hành vi này loại bỏ hồn tồn ra khỏi
mơi trường tri thức trường lớp, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu
“một số giải
pháp nhằm giảm tình trạng học sinh nói chun riêng trong lớp học” tại
Trường TH Chu Văn An.
5. Nội dung.
5.1. Thuận lợi, khó khăn
5.1.1 Thuận lợi
Các em học sinh đều đang ở lứa tuổi dễ uốn nắn. Tâm lí của các em
còn rất dễ nắm bắt. Các em rất thích khen, thích cơ giáo hiền…Nhân cách của
các em đang ở trong giai đoạn tiềm ẩn, chưa bộc lộ rõ nếu nắm bắt được thì
rất dễ giáo dục và uốn nắn.
Đa số học sinh tại trường đều có

chăm sóc chu đáo của gia
sự
đình,được sự quan tâm cẩn thận học sinh ít có những hành vi sai lệnh.
Trường học ở một huyện miền núi, một vùng q n bình khơng
có sự xô bồ, vội vã của thành thị, lại mang nhiều truyền thống tốt đẹp, với
những con người hiền hòa,hiếu học, thì ít nhiều học sinh cũng được thừa
hưởng những đức tính tốt đẹp của con người nơi đây.
5.1.2. Khó khăn
Chính đặc điểm tâm lí của các em cũng mang đến những thuận lợi
nhưng cũng nhiều khó khăn khơng kém. Tư duy, hứng thú học tập của các em
chưa bền vững. Sự kiên trì, chịu khó cịn hạn chế. Các em cịn bộc lơ tính cách
một cách hồn nhiên, vơ tư. Dễ bị ảnh hưởng bởi những thứ xung quanh.
Lứa tuổi các em cũng được ví như tờ giấy trắng, chúng ta có thể
viết, vẽ lên đó bất cứ thứ gì mà chúng ta muốn. Nếu có ai đó vơ tình tạo nên
những hành vi sai lệch thì việc xóa nó đi cũng phải mất cả một quá trình.
Qua dự giờ các lớp tại trường, tôi nhận thấy rằng học sinh trao đổi,
nói chuyện riêng ghê q.Chúng ta khơng lạ gì với việc hai ba bạn học sinh
ngồi chung một bàn hay ngồi bàn trên bàn dưới, thậm chí ngồi cách xa mấy
bàn, bàn tán với nhau một sự việc nào đó, hay chỉ đơn giản nói về đơi giầy
của bạn nam, chiếc nơ buộc tóc của bạn nữ; Hay vơ tình chạm vào nhau cũng
“ thưa cơ…”; Hay cùng nhau lăn viên bi qua lại dưới ngăn bàn; Hoặc cùng
nhau giằng co 1 cây bút...vân vân và vân vân…Vô vàn những mẫu chuyện,
những việc làm các em tạo ra không nhằm mục đích học tập. Những câu
chuyện khơng thành chuyện đó vẫn xảy ra hàng ngày trong các tiết học, nhiều
em coi đó là bình thuờng lại ẩn chứa những tác hại nghêm trọng.
Nói chuyện riêng trong lớp tác hại đầu tiên là các em đã đánh mất
lợi ích của cá nhân mình, vì nó khiến các em các em không thể tiếp thu hết
kiến thức trên lớp mà thầy cô giảng. Bởi bộ não của con người chỉ hoạt động



có mức độ và phạm vi nhất định, nên ta khơng thể vừa nghe giảng lại vừa
hăng say nói chuyện riêng được. Nếu các em không hiểu bài trên lớp thì về
nhà khơng làm bài tập được, vì thế lực học giảm sút, dần sẽ mất gốc kiến
thức. Mà một khi kiến thức mất gốc thì việc học lên cao là khơng thể.
Nói chuyện riêng trong lớp các em cịn tạo ra thói quen xấu cho bản
thân. Để tạo ra một thói quen tốt và từ bỏ một thói quen xấu là rất khó, nhưng
làm nên một thói quen xấu lại rất dễ. Hơn nữa thói quen nói chuyện riêng
trong lớp lại gây ấn tượng không tốt trước bạn bè và thầy cô…
Tôi đã tiến hành khảo sát đối với 100 em học sinh tại trường với
câu hỏi : “Em có nói chuyện riêng trong lớp khơng ?”Và kết quả nhận được là
100 em đều trả lời “có”. Mặc dù, các em đều nhận định hành vi đó là khơng
đúng, là mang lại những hậu quả nghiêm trọng, là cần phải loại bỏ. Vậy thì
do đâu?Thiết nghĩ, sự việc nào cũng có ngun nhân của nó. Tìm ra ngun
nhân ắt sẽ tìm ra cách giải quyết.
5.2. Phạm vi áp dụng
Giải pháp được áp dụng tại trường Tiểu học Chu Văn An Đam
Rông – Lâm Đồng.
5.3. Thời gian áp dụng.
Thời gian áp dụng của giải pháp từ tháng 8 năm 2015 đến tháng 11
năm 2015.
5.4. Giải pháp thực hiện.
5.4.1. Tính mới của giải pháp.
Để đưa ra các giải pháp này tôi đã phải trăn trở với một lớp học có
số đơng học sinh hay nói chuyện riêng trong lớp đó là lớp do chính tơi chủ
nhiệm.Trong hồn cảnh như vậy, với mong muốn tột cùng là các em ngoan
hơn, khơng nói chuyện riêng nữa cho nên từ thực tế để đưa ra cách giải quyết
là một giải pháp khá hữu hiệu.
Hơn nữa, chúng ta vẫn thường quan tâm đến kiến thức các em hơn
là về các vấn đề nề nếp, đạo đức. Mà bây giờ, giáo dục kĩ năng sống đã và
sẽ trở thành một mơn học chính thống cho các em. Vậy thì, những biện pháp

giúp cho các em bỏ đi một thói quen xấu là cấp thiết. Cho dù những điều này
ta vẫn nói hằng ngày là “ các em khơng được nói chuyện riêng trong lớp”.Với
các em ta cần phải cụ thể hơn, kiên quyết hơn.
Còn nữa, khi thực hiện sáng kiến tôi đã tiến hành điều tra học sinh
rất cụ thể mới đưa ra cách giải quyết.Phiếu điều tra như sau:


Em hãy trả lời câu hỏi sau bằng cách khoanh tròn vào chữ cái trước đáp án phù hợp nhất :
1. Em có nói chuyện riêng trong lớp khơng?
a.Khơng bao giờ b.Thường xun
c. Thỉnh thoảng
Vì sao em nói chuyện riêng trong lớp?
Em quen rồi.
Cô(thầy) dạy chán quá!
Em làm xong bài tập rồi nên em nói chuyện.
Tại bạn cứ nói chuyện với em, nên em cùng nói với bạn.
Theo em nói chuyện riêng trong lớp là đúng hay sai?
Đúng

4.Theo em, hậu quả của nói chuyện riêng trong lớp là gì?
a. Thầy cơ, bố mẹ buồn lịng.
b. Kết quả học tập giảm sút.
c. Tạo ra thói quen xấu.
d.Cả 3 hậu quả trên.
Theo em có nên từ bỏ hành vi nói chuyện riêng trong lớp khơng?
a. Có
b. Khơng

5.4.2. Khả năng áp dụng.
Với những biện pháp này, tơi tin rằng có thể áp dụng cho những lớp

học khác tại trường, đặc biệt là ngay từ lớp 1. Khơng q khó cho giáo viên
đi vào nề
để thực hiện, cũng như các yêu cầu đối với học sinh. Các em sẽ
nếp, chất lượng giáo dục cũng sẽ được nâng lên.
1.

2.

HS khơng có việc để làm: Các em nói chuyện và làm việc riêng chủ yếu trong
những trường hợp GV giảng quá nhiều, các bạn phát biểu (cịn mình khơng
được phát biểu)... Khi đó, có thể các em không hiểu, không hứng thú khi nghe
những điều GV nói, bạn trình bày. Có nhiều em giơ tay phát biểu khơng được
GV gọi thì lập tức quay sang nói chuyện với bạn.
GV nên tăng cường tổ chức hoạt động nhóm hoặc hoạt động cá
nhân với những phương pháp như thảo luận nhóm, trị chơi, thí nghiệm, giải
quyết vấn đề... nhằm phát huy tính tích cực, gây hưng thú học tập cho HS;
hạn chế giảng.
Năng lực nhận thức của HS hạn chế: Có một thực tế là, năng lực và hứng thú
nhận thức của học sinh trong lớp không giống nhau, có em nhanh, em chậm...


Thường, những em chậm thì khơng hiểu lời giáo viên giảng, khơng làm được
bài tập của mình, khơng theo kịp các bạn nhanh nên mất hứng thú, chán, đâm
ra nói chuyện riêng, làm việc riêng.
GV nên chú ý nhiều hơn đến những em chậm, ví dụ: cho ngồi các
bàn phía trên, yêu cầu làm những bài tập cơ bản, hỗ trợ thường xuyên và kịp
thời, cho học sinh giỏi ngồi cạnh để giúp đỡ, trao đổi với gia đình để kèm
thêm ở nhà...



3.

5.

6.

GV chưa có khả năng bao quát lớp: GV chỉ chú ý đến một số học sinh phía trên
gần bục giảng, những em ngồi phía sau thì ít được chú ý hơn,
thậm chí một số GV cứ quay lưng với lớp viết bảng, giảng giải.... Khi ít
được chú ý, những em này dễ "tranh thủ cơ hội" để nói chuyện riêng.
GV cần chú ý đến mọi HS, nhất là những em hay nói chuyện riêng.
GV nên "ra tín hiệu" rằng "cô biết hết tất cả", thể hiện sự quan tâm nhưng
nghiêm khắc của mình. Tránh, hạn chế hiện tượng quay lưng về phía các em.
4. Nội dung học tập nhàm chán, thiếu hấp dẫn, giáo viên khơng có
sự chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp: Học nhiều khi cũng như
xem phim:
Xem một bộ phim mà ta không hiểu nội dung, hay nội dung nhàm chán thì chỉ
muốn tắt tivi. Có câu nói rất hay: "Ta có thể dẫn con ngựa đến chỗ có nước,
nhưng khơng thể bắt nó uống nước".
GV nên đưa những nội dung hấp dẫn, gắn liền cuộc sống của học
sinh, phù hợp với nhu cầu và khả năng nhận thức các em, sử dụng phương
tiện trực quan thích hợp…Muốn như thế giáo viên cần chuẩn bị giáo án tốt
trước khi lên lớp.
Thói quen xấu có từ lớp dưới: Nề nếp học tập được hình thành từ khi trẻ vào
lớp 1. Nếu GV các lớp dưới không quan tâm, làm sai nề nếp này thì GV các
lớp trên sẽ phải chịu "khổ" thôi.
"Măng non dễ uốn" ,GV phải rèn nề nếp từ khi các em vào lớp 1,
trong đó, giúp trẻ hiểu được nội quy học tập, tác hại của hành vi nói chuyện
riêng, làm việc riêng trong giờ học...Và nề nếp này phải được giữ vững cho
hết các lớp tiếp theo.

HS có "đối tác" và cơ hội thuận lợi để nói chuyện riêng: Đó có thể là bạn cùng
bàn "hợp cạ", chơi thân với nhau, ngồi phía sau ít "bị" chú ý...
GV nên thường xuyên thay đổi các "cặp" HS cùng bàn, "chia cắt"
những em "hợp cạ" ngồi tách xa nhau; đưa những em "lắm mồm" lên ngồi
phía trên, ngồi gần cán bộ lớp, tổ; thường xuyên thay đổi vị trí ngồi của học
sinh trong lớp.
7. HS ngồi học bị gị bó q mức: Một vài GV yêu cầu HS ngồi
nghiêm ngắn hệt như những bức tượng, điều đó gây căng thẳng, mệt mỏi,
làm cho các em "buộc" phải cựa quậy, nói chuyện riêng cho "miệng được vận
động".
GV nên cho HS ngồi thoải mái, khơng gị bó (ví dụ: khơng nên bắt
các em khoanh tay đặt lên bàn...); trong tiết học, nên dành vài phút cho học
sinh vận động với những bài thể dục tại chỗ thích hợp.
Ngồi ra, khi có HS thiếu tập trung, nói chuyện riêng, làm việc
riêng, GV có một số cách xử lý khác nhau: Nói với cả lớp: "Trong lúc cả lớp
đang học tập nghiêm túc thì cơ thấy bạn X. nói chuyện riêng (làm việc riêng).
Có lẽ bạn cần sự giúp đỡ chăng?". Rồi đến gần em X., hỏi: "Cô có thể giúp
gì cho em?". Hoặc GV tạm dừng và nói: "Cơ muốn thấy em X. khơng nói
chuyện riêng (làm việc riêng) vào lúc này"... Trong những trường hợp "khó
trị", cần cho em đó ngồi riêng một bàn.


Ngồi tác động của mình, GV cần liên hệ với phụ huynh để các bậc
cha mẹ nhắc nhở, sử dụng tập thể HS để các em nhắc nhở lẫn nhau. Giáo
viên có thể in một tờ phiếu ghi tên các học sinh trong lớp, rồi phát chéo cho
các em học sinh theo dõi lẫn nhau.Cuối tuần cho học sinh đưa về xin chữ kí
của bố mẹ. Như thế các em sẽ có được sự theo dõi của bạn bè, bố mẹ. chắc
chắn các em không muốn bị vi phạm quá nhiều lần.
6. Bài học kinh nghiệm:
6. 1. Bài học kinh nghiệm

Dù sử dụng biện pháp nào đi chăng nữa thì một kinh nghiêm xương
máu mà giáo viên cần lưu ý đó là cần tơn trọng HS, đặt lợi ích của các em lên
hàng đầu. Tôn trọng + yêu thương + nghiêm khắc + phương pháp dạy học
tích cực là "liều thuốc" hữu hiệu nhất.
6. 2. Kiến nghị đề xuất
Nói rộng ra, khơng riêng gì học sinh tiểu học nói chuyện riêng đâu
nhé, sinh viên chính qui, GV tiểu học đang theo học các lớp tại chức, giáo dục
từ xa... cũng thế. Rồi các cuộc họp ở cơ quan nào cũng đều thế thủ trưởng
nói thì cứ nói, nhân viên thì cứ "buôn" rào rào. Phải chăng con hư tại mẹ, cháu
hư tại bà, trị hư tại thầy? Qua đây tơi có một mong muốn gửi tới những ai
đang đứng trên bục giảng, hãy nhìn nhận lại bản thân mình, xem mình đã
xứng đáng là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo hay chưa. Hãy chuẩn
mực trước khi giáo dục các em!
7. Kết luận
Để từ bỏ một thói quen không phải là chuyện dễ, hơn nữa đối
tượng là các em học sinh. Sự kiên trì, chịu khó của các em còn hạn chế. Các
em còn ham vui, ham chơi, ham nói chuyện. Thế nhưng, với một lớp học có
nhiều học sinh cá biệt như lớp tôi mà các em đã ngoan hơn, ít nói chuyện hơn.
Đó là một điều đáng mừng, đáng trân trọng. Vậy thì, những biện pháp đó đã
mang lại hiệu quả tích cực. Nếu chúng ta, những giáo viên đang trăn trở về
con đường làm người của các em chịu khó, quan tâm hơn một tí thì hành vi nói
chuyện riêng trong lớp học sẽ được đẩy lùi vào một ngày không xa.
Trên đây là kinh nghiệm của bản thân tôi về " một số giải pháp
nhằm giảm tình trạng học sinh nói chun riêng trong lớp học".Vì đây là lần
đầu tiên viết sáng kiến nên khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng sáng kiến kinh nghiệm để đề tài
của tơi được hồn thiện và đạt hiệu quả hơn.
Phi Liêng, ngày 10 tháng 11 năm 2015
Người thực hiện



Nhận xét của hội đồng xét duyệt SKKN GPHI trường Tiểu học Chu
Văn An
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………….
Xác nhận của cơ quan đơn vị
(Ký tên đóng dấu)

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.Tâm lý lứa tuổi và tâm lý học sư phạm (Bùi Ngọc Oánh, Nguyễn Hữu Nghĩa,
Triệu Xuân Quýnh)
2.Tâm lý học phát triển ( Vũ Thị Nho)
3. Giáo dục học đại cương ( Trần Thị Hương)



×