Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.67 KB, 22 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ</b>
Giáo dục Tiểu học đã, đang và mãi trở thành mối quan tâm lớn của toàn
xã hội. Nó được coi là bậc học "nền móng" của hệ thống giáo dục phổ thông.
Chất lượng giáo dục phổ thông tuỳ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo ở Tiểu
học. Nó phải chuẩn bị tốt cho học sinh tiếp tục học lên. Đồng thời Tiểu học
cịn có trách nhiệm xây dựng một nền dân trí tối thiểu cho quốc gia theo tinh
thần của phổ cập giáo dục Tiểu học.
Là một trong các môn học của Tiểu học, môn Tiếng Việt góp phần thực
hiện tốt mục tiêu chung của bậc học, trong đó việc hình thành ở trẻ em năng
lực thực tiễn hoạt động ngơn ngữ (nghe - nói - đọc - viết đúng tiếng mẹ đẻ) là
một yêu cầu cực kỳ quan trọng.
Đánh giá được tầm quan trọng của bậc học, môn học như vậy cho nên
trong những năm qua, các nhà quản lý, chỉ đạo, các nhà nghiên cứu, khoa học,
các nhà giáo dục đã không ngừng quan tâm đến việc xây dựng một chương
trình, nội dung sách giáo khoa cũng như việc đổi mới phương pháp dạy - học
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy môn Tiếng Việt trong nhà trường
Tiểu học.
Tiếng Việt hiện hành, ngoài hệ thống bài tập bắt buộc (bài tập chung cho tất cả
các vùng phương ngữ), các nhà biên soạn SGK đã chú ý đến việc rèn luyện
cách viết đúng chính tả những từ có liên quan đến hiện tượng đó bằng cách
xây dựng hệ thống bài tập lựa chọn dành cho các vùng phương ngữ nhưng
chưa thể bao quát hết được các hiện tượng chính tả cho vùng phương ngữ
Nghệ An. Nội dung chương trình Tiếng Việt lớp 3 hiện hành cũng vậy.Trong
tổng số 131 bài tập nhỏ của hệ thống bài tập lựa chọn chỉ có 20 bài liên quan
Thực trạng nêu trên đặt ra cho các nhà giáo dục mà đặc biệt trước hết là
giáo viên, những người trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 3 ở Nghệ An
nói riêng một vấn đề quan trọng là: Làm thế nào để khắc phục được tình trạng
đó? Làm thế nào để giúp học sinh từng bước loại bỏ lỗi chính tả trong bài viết
của mình? Làm thế nào để cải thiện chất lượng dạy - học môn Tiếng Việt Tiểu
học ở Nghệ An?
<b>PHẦN II: NỘI DUNG</b>
<b>I. ĐẶC ĐIỂM PHƯƠNG NGỮ NGHỆ AN (XÉT TRÊN BÌNH DIỆN</b>
<b>NGỮ ÂM HỌC) - NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN:</b>
Theo cách quan niệm thông thường, Tiếng Việt gồm 3 phương ngữ:
Phương ngữ Bắc, phương ngữ Trung và phương ngữ Nam - Nghệ An nằm
trong vùng phương ngữ Trung, và trên bình diện ngữ âm nó được nhận ra bởi
những đặc điểm sau đây:
<i><b>1. Hệ thống phụ âm đầu:</b></i>
Phương ngữ Nghệ An có 22 phụ âm đầu tương ứng với hệ thống phụ
âm đầu trong tiếng toàn dân.
<i><b>2. Hệ thống vần:</b></i>
Hầu hết các loại vần có mặt trong ngơn ngữ tồn dân đều có mặt trong
ngơn ngữ Nghệ An. Âm đệm và âm cuối trong phương ngữ Nghệ An tương
ứng hoàn toàn với hệ thống chữ viết.
- Trong phương ngữ Nghệ An có 2 vần khá đặc biệt mà chữ viết ghi là
"<i>ưu", "ươu</i>"
<i><b>3. Hệ thống thanh điệu:</b></i>
Hệ thống thanh điệu của phương ngữ Nghệ An thể hiện không đầy đủ
như trong ngơn ngữ văn hố. Do sự phát âm lẫn lộn giữa thanh ngã và thanh
nặng, hoặc giữa thanh ngã và thanh hỏi mà hệ thống thanh điệu tiếng địa
phương Nghệ An chỉ cịn có 5 thanh: ngang; huyền; sắc; hỏi; ngã <-> nặng.
Có một số thổ ngữ như Nghi Lộc, hoặc "thổ ngữ" Hưng Dũng
(Tp.Vinh) hệ thống thanh điệu chỉ cịn có 4 thanh, thậm chí có vùng phát âm
chỉ có 3 thanh.
<b>II. LỖI CHÍNH TẢ CỦA HỌC SINH </b>
<i><b> 1. Thực trạng học tập môn Tiếng Việt của học sinh Tiểu học</b></i>
<i><b>hiện nay:</b></i>
Mặc dù được đánh giá là môn học quan trọng nhưng chất lượng giảng
dạy môn Tiếng Việt vẫn chưa đáp ứng được sự mong mỏi của xã hội. Chất
lượng dạy – học mơn Tiếng Việt nói chung ở Tiểu học hiện nay chưa thật
đáng mừng. Năng lực sử dụng Tiếng Việt của học sinh chưa cao, chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra trong một xã hội hiện đại. Sự non kém ấy biểu hiện
trên các mặt: Vốn từ nghèo nàn, kỹ năng thực hành Tiếng Việt non kém, hiện
tượng học sinh viết sai chính tả khá nhiều, cá biệt có những em cịn viết khơng
Để tìm hiểu năng lực ngơn ngữ của học sinh Tiểu học Nghệ An (trong
mối quan hệ ràng buộc, chi phối của tiếng địa phương), chúng tôi đã tiến hành
điều tra, khảo sát kết quả học Tiếng Việt của một số học sinh trên địa bàn này.
<i><b> </b></i> <i><b>2. </b><b>Khảo sát năng lực thực hành ngôn ngữ của học sinh (về mặt</b></i>
<i><b>ngữ âm)</b></i>
<b> a. Đối tượng khảo sát</b>: Học sinh lớp 3
<b> </b> <b>b. Phương thức khảo sát:</b> Do chưa có điều kiện, chúng tôi chỉ khảo sát
năng lực Tiếng Việt của học sinh ở bình diện chính tả, cụ thể dựa trên 2 bài
viết: Chính tả (nghe –viết) và Tập làm văn.
Cơ sở đánh giá kết quả này là chuẩn mực ngôn ngữ và khối lượng tri
thức tiếng mẹ đẻ mà chương trình Tiếng Việt đã quy định
<b> </b> <b>c. Các bước tiến hành: </b>Để có được những kết luận có căn cứ, chúng
tơi đã tiến hành các bước cụ thể như sau:
- Bước 1: Thăm lớp, dự giờ (chủ yếu các giờ Tập đọc, Chính tả, Tập
làm văn)
- Bước 2: Điều tra, khảo sát, phân loại và thống kê trên văn bản cụ thể
do học sinh viết gồm 740 bài Tập làm văn và Chính tả (mỗi HS 4 bài) của 185
học sinh Trường Tiểu Học Hưng Dũng I – TP. Vinh.
<b> </b> <b>d. Kết quả khảo sát: </b>
Kết quả khảo sát được chúng tôi tập hợp, phân loại và thống kê cụ thể
vào các bảng sau:
TT Bài LỗiSố
HS
Hỏi
Ngã
Ngã
Nặng
Sắc
Hỏi
Sắc
Ngã
Ngang
huyền
Ngang
sắc
Ngang
hỏi
Huyền
Sắc
Huyền
Ngã
Tổng
1 C.tả 185 63 38 34 33 41 59 36 21 35 360
2 T.L.V 185 162 155 157 156 116 120 138 81 89 1174
3 <b>Tổng</b> <b>185</b> <b>225</b> <b>193</b> <b>191</b> <b>189</b> <b>157</b> <b>179</b> <b>174</b> <b>102</b> <b>124</b> <b>1534</b>
TT Bài
Lỗi
Số
HS
tr
ch
d
gi
x
s
l
n
c
k
q
ng
ngh
d
đ
m
n
Tổng
1 Chinh tả 185 0 5 0 0 1 2 0 0 8
2 T.L.V 185 0 10 1 0 4 5 2 2 24
3 <b>Tổng:</b> <b>185</b> <b>0</b> <b>15</b> <b>1</b> <b>0</b> <b>5</b> <b>7</b> <b>2</b> <b>2</b> <b>32</b>
TT Bài
Lỗi
Số
HS
iê
i
iê
e
ua
ư
ươ
uya
ya
ut
t
oe
eo
ươn
ơn
Tổng
1 Chính tả 185 4 4 3 3 3 5 4 5 1 32
2 T.L.V 185 9 7 6 5 6 11 9 11 6 70
3 <b>Tổng:</b> <b>185</b> <b>13</b> <b>11</b> <b>9</b> <b>8</b> <b>9</b> <b>16</b> <b>13</b> <b>16</b> <b>7</b> <b>102</b>
Lỗi chính tả chủ yếu tập trung ở hệ thống các thanh điệu. Đây là nét đặc trưng,
riêng biệt nhất để nhận biết học sinh ở Nghệ An.
Lỗi về thanh điệu thể hiện khá phong phú, nhiều nhất có trên 9 kiểu
nhầm lẫn, sai sót. Tuy vậy, nhìn chung các loại lỗi này chủ yếu tập trung ở các
dạng sau:
<b>* Ngã/nặng; ngã/hỏi</b>: Đây là lỗi chung, lỗi phổ biến. Theo cứ liệu điều
tra có tới 418 lỗi thuộc kiểu này.
Do ở Nghệ An các từ có thanh ngã khi phát âm thường chuyển sang
thanh nặng hoặc thanh hỏi nên trong bài viết của học sinh phản ánh khá rõ.
Chẳng hạn như: <i>nhõng nhẽo -> nhỏng nhẻo </i>hoặc <i>nhọng nhẹo</i>; <i>từ ngữ ->từ</i>
<i>ngử</i> hoặc <i>từ ngự</i>; <i>những -> nhửng, nhựng</i>...vv...
<b>* Sắc/hỏi; sắc /ngã:</b> Số lượng lỗi này cũng khá lớn: 380 lỗi. . Ví dụ về
loại lỗi này khá phong phú. Có thể kể ra đây một số trường hợp thường gặp
trong bài viết của học sinh như: <i>buổi học -> buối học; kẻo muộn -> kéo muộn;</i>
<i>vận chuyển -> vận chuyến; lững thững -> lứng thứng ... vv..</i>
<b>* Ngang/ huyền; ngang/ sắc; ngang/hỏi: </b>
Đây là loại lỗi mà các tiếng có thanh ngang viết thành tiếng có thanh
Ví dụ: <i>rõ ràng-> ró rang; lá cờ-> la cờ; cơ chú-> cơ chu</i>...vv...
Sở dĩ trong các bài viết của học sinh xuất hiện loại lỗi trên là do ở đây
thường phát âm lẫn lộn giữa một số thanh trong hệ thống thanh điệu Tiếng
Việt. Hơn nữa, phẩm chất và giá trị khu biệt của vài ba thanh điệu đó khơng rõ
ràng nên học sinh ở đây thường mắc phải mà học sinh các vùng, miền khác ít
gặp.
Nghi Lộc hay gần giống như thổ ngữ Nghi Lộc là Hưng Dũng. Ngồi những
lỗi cơ bản kể trên, học sinh cịn mắc một số lỗi khác về thanh điệu, song chiếm
tỉ lệ khơng đáng kể. Và có thể nói đó là một trong những sai sót thường gặp ở
học sinh lứa tuổi này.
Bên cạnh các loại lỗi về thanh điệu, hiện tượng viết sai các âm (phụ âm
đầu và vần) , ít hơn rất nhiều so với lỗi về thanh điệu. Tất cả có 134 lỗi.
Một điều đặc biệt là các lỗi như không phân biệt được: <i>tr/ch; s/x;</i> <i>r/d;</i>
<i>d/gi</i> hay <i>l/n</i> mà học sinh các vùng miền khác thường hay vấp phải thì ở đây
hầu như khơng có hoặc nếu có thì tần số xuất hiện cũng rất thấp.Phải chăng do
sự có mặt của phụ âm quặt lưỡi mà chữ viết ghi là <i>“tr”, “r”, “s”</i> trong
phương ngữ Nghệ An đã giúp học sinh ở đây phân biệt rất rõ các phụ âm này.
<b>- Về phần vần:</b> Ngoài các lỗi chung, lỗi phổ biến là các vần khó, học
sinh Tiểu học ở các vùng phương ngữ khác thường hay nhầm lẫn khi nói cũng
như khi viết các tiếng có vần <i>“ưu”, “ươu”</i>, chẳng hạn như: <i>cấp cứu -> cấp</i>
<i>kíu; âm mưu -> âm miu; về hưu -> về hiu; hoa lựu -> hoa lịu;</i> <i>con hươu -></i>
<i>con hiêu</i>... còn trong tổng số 740 bài viết của học sinh được điều tra khơng có
trường hợp nào mắc lỗi này. Điều đó chứng tỏ rằng sự có mặt của cặp vần “<i>ưu</i>
Ngoài những lỗi kể trên, học sinh còn mắc phải một số lỗi do nhầm lẫn
hoặc quên không ghi dấu phụ như <i>ư -> u; ă -> a</i> hoặc lỗi viết hoa một cách
tùy tiện... và đó cũng là những sai sót thơng thường của học sinh Tiểu học.
Như vậy, có thể nói những đặc điểm về ngữ âm của phương ngữ Nghệ
An, một mặt là điều kiện thuận lợi, mặt khác lại gây khơng ít khó khăn cho
học sinh vùng này trong q trình học Tiếng Việt.
Nói tóm lại, qua điều tra, khảo sát và thống kê chúng ta có thể thấy
được thực trạng mắc lỗi chính tả cũng như sự ảnh hưởng phương ngữ Nghệ
An tới quá trình học Tiếng Việt của học sinh lớp 3 nói riêng và học sinh tiểu
học ở Nghệ An nói chung là rất lớn. Và để việc làm ấy có ý nghĩa thiết thực
hơn chúng ta phải chỉ ra được những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng
ấy. Trên cơ sở đó tìm được những giải pháp thích hợp nhằm giúp học sinh hạn
chế đến mức tối đa các lỗi chính tả thường mắc phải, từng bước thanh toán
dần các loại lỗi, tạo điều kiện cho học sinh ở đây học Tiếng Việt ngày càng
hiệu quả hơn.
<b>* Các nguyên nhân chính:</b>
Hiện tượng phạm lỗi chính tả đã nêu trên chủ yếu do các nguyên nhân
sau:
<b>1. </b>Do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương cho nên học sinh thường
phát âm khơng chính xác, không chuẩn, đặc biệt là ở hệ thống thanh điệu.
<b>2. </b>Do các em chưa thực sự có kiến thức vững chắc về ngữ âm (Chính
âm – chính tả) chỉ đơn thuần dựa vào cách phát âm của thầy cô, chưa biết dựa
<b>3. </b>Học sinh ít được thực hành đọc và viết Tiếng Việt nên không thể
quen tay, quen mắt.
phải. Do chưa xử lý tốt vấn đề “<i>dạy chính tả</i> <i>theo khu vực</i>” cho nên nội dung
chính tả trong SGK Tiếng Việt Tiểu học vừa thừa lại vừa thiếu. Thừa ở chỗ
các em phải học, phải luyện tập cả những nội dung mà các em đã biết và
khơng mấy khi mắc phải sai sót; thiếu ở chỗ không đủ thời gian để đi sâu hơn,
luyện tập nhiều hơn để tránh những lỗi mà các em thường mắc.
<b>5. </b>Về phía giáo viên: Nhiều thầy cơ cịn q lệ thuộc, câu nệ ở SGK,
chưa nhận ra hết phần nào là trọng tâm của từng loại chính tả, chưa dám bớt,
dám thêm mà mới chỉ làm theo trình tự có sẵn.
Ngồi những ngun nhân cơ bản nói trên cịn có một vài nguyên nhân
khác nữa, chẳng hạn như lỗi do sự cẩu thả của người viết, sự không chú ý của
thầy cơ... Sự thờ ơ ở cả phía học sinh lẫn giáo viên đối với vấn đề chính tả như
hiện nay thì kết quả như đã nêu trên là tất yếu.
Để nâng cao năng lực viết đúng chính tả cho học sinh tiểu học ở Nghệ
An thì một trong những vấn đề cơ bản cần giải quyết là khắc phục những lỗi
do phương ngữ tạo ra.
Xung quanh vấn đề này đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến.
Ví dụ như các nhà biên soạn SGK đã cố gắng tìm đủ cách cho học sinh phát
âm đúng chuẩn. Theo họ, để đọc đúng là tự khắc viết đúng. Thực tế, phát âm
đúng – viết đúng là lẽ đương nhiên. Song cũng có nhiều trường hợp phát âm
đúng chưa chắc đã viết đúng. Và ngược lại, có nhiều người tuy phát âm sai
nhưng vẫn viết đúng chính tả. Vì vậy, nếu cả thầy và trị có thành cơng trong
Nhiều người chủ trương cần rèn luyện chính âm làm cơ sở cho chính tả.
Đã có nhiều cơng trình sửa lỗi chính tả bằng cách “<i>tập phát âm</i>” cho đúng,
nhưng xem ra cách này đòi hỏi nhiều thời gian.
mới” tiềm tàng khả năng ghi nhớ máy móc cao. Tuy nhiên cách này địi hỏi
người học phải thường xuyên cố gắng, tập luyện lâu dài, lại khơng bao giờ
được xem là kết thúc.
Lại có một số nhà nghiên cứu đã nghiên cứu, khái quát ra một số “mẹo
chính tả” như “<i>mẹo hỏi ngã</i>” chẳng hạn . Những cơng trình này thực tế là rất
tiện. Tuy nhiên chỉ thu hẹp vào một số lỗi “<i>hỏi/ ngã</i>” lại thường thiếu tính
chặt chẽ, khoa học, khó có khả năng bao qt được các trường hợp chính tả cụ thể.
Điểm qua một số quan điểm và cách chữa lỗi chính tả cho học sinh nói
chung, chúng tơi muốn trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu những thành tựu của
những cơng trình đi trước, đồng thời trên cơ sở nắm vững những đặc điểm về
mặt ngữ âm của phương ngữ Nghệ An; kết hợp kết quả điều tra, khảo sát bài
viết học sinh, cộng với kinh nghiệm của những năm tháng trực tiếp giảng dạy
của mình, của đồng nghiệp, chúng tôi xây dựng một hệ thống bài tập chính tả
phương ngữ cho học sinh lớp 3 với mong muốn tạo được thuận lợi cho giáo
viên và học sinh trong q trình dạy- học mơn Tiếng Việt, giúp học sinh từng
bước thanh toán dần các loại lỗi thường gặp.
<b>III. XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP CHÍNH TẢ PHƯƠNG NGỮ CHO</b>
<b>HỌC SINH LỚP BA Ở NGHỆ AN</b>
chữa những lỗi về phụ âm đầu hay phần vần như đối với học sinh vùng
Hệ thống các bài tập được chúng tôi xây dựng dưới dạng một số kiểu
như sau:
<i><b>1. Kiểu chính tả đoạn bài:</b></i>
Để giúp học sinh phân biệt được các chữ hay nhầm lẫn giữa thanh ngã và
thanh hỏi; ngã/sắc; ngã/nặng chúng tôi thường cho học sinh luyện viết những
đoạn văn ngắn mà trong đó có chứa những chữ “ có vấn đề’’ Mỗi bài như thế
phải đáp ứng nhiệm vụ chữa một lỗi chính tả cụ thể, theo một mức độ cụ thể.
<b>Ví dụ 1</b>: <i>Ba bao Lê ơ nhà đê ba đi họp tối, Lê phai trông em. Em bé</i>
<i>đang ngu say. Lê đợi mai chăng thấy ba trơ về. Lê cam thấy cung</i> <i>muốn ngu</i>
<i>nhưng Lê cố thức.Có tiếng go cưa. Ba về cho Lê qua bóng đo có nhưng sọc</i>
<i>trắng. Ba bao Lê: “Con cua ba ngoan lắm. Con biết giư nhà rồi đấy”</i>
<b> Ví dụ 2 </b><i><b>: Đám Mây trơ nên nặng triu bơi vô vàn nhưng hạt nước nho</b></i>
<i>li ti bám vào. Nhằm hướng thượng nguồn, Đám Mây cong bạn đi tới. Khi đa</i>
<i>trông ro cánh rừng đại ngàn, Đám Mây khe lắc cánh:</i>
<i>- Chúng mình chia tay ơ đây nhé.Bạn hay về thăm và xin lơi mẹ Suối</i>
<i>Nguồn. Trên đời này, khơng có gì sánh nơi với lịng mẹ đâu bạn ạ!</i>
Những chữ nghiêng in đậm là những chữ “có vấn đề”.Bằng việc được
luyện viết những đoạn văn có chứa những chữ “có vấn đề” như trên thay thế
cho những nội dung còn thiếu hoặc thừa trong SGK vào các tiết học chính
khóa hoặc các tiết luyện, học sinh sẽ từng bước ghi nhớ, phân biệt được
<i>ngã/hỏi; ngã/sắc; ngã/nặng</i> trên cơ sở nắm nghĩa của từ trong văn cảnh cụ thể.
Điều này giúp các em ghi nhớ được lâu hơn và bền vững hơn.
<i><b>2. Kiểu điền yếu tố:</b></i>
Đây là một dạng bài khá quen thuộc và nội dung khá phong phú. Thay
thế cho những bài tập phân biệt phụ âm đầu <i>tr/ch; x/s; l/n</i>... (Tuần
1,2,4,5,7,8... mà học sinh mình không mấy khi mắc phải ,chúng tôi đã chủ
động thay thế bằng những bài tập sau:
<b>Ví dụ 1:</b> <i>Điền vào chỗ trống tiếng “mở” hay”mỡ” để tạo thành từ ngữ</i>
<i>thích hợp.</i>
<i>...mang</i> <i>... đầu</i>
<i>...màng</i> <i>...màn</i>
<i>cởi...</i> <i>thịt...</i>
<i>dầu...</i> <i>củ khoai...</i>
<b>Ví dụ 2: </b> <i>Điền “ thanh hỏi ” hoặc “ thanh ngã ”vào những chữ gạch</i>
<i>chân dưới đây:</i>
<i>Ngo hẻm; nga ba; trô bông; ngo lời; cho xôi; cây gô; cánh cưa; ướt đâm; </i>
<b>Ví dụ 3: </b> <i>Điền“ thanh hỏi ” hoặc “ thanh ngã” vào những chữ in</i>
<i>nghiêng có trong các câu sau:</i>
a. <i>Ca </i>lớp im lặng <i>đê</i> nghe cô giáo <i>giang </i>bài .
b. Các em <i>phai giư</i> trật tự.
c. Mẹ em <i>đa</i> dậy trước <i>ca</i> em,có<i> le </i>mẹ <i>cung </i>hồi hộp như em vì hơm nay
là ngày khai trường.
<b>Ví dụ 4</b>: <i>Tìm tiếng có thanh hỏi hoặc thanh ngã điền vào chỗ trống để</i>
<i>được từ có nghĩa như sau:</i>
<i>a. Nói cho biết điều hay lẽ phải để làm theo: ...</i>
<i>b. Người điều khiển cuộc họp hoặc phiên tồ:...</i>
<i>c. Kí hiệu bằng đường nét để ghi tiếng nói:...</i>
<i>d. Nơi đất thấp so với bể mặt xung quanh:...</i>
Ngữ liệu các bài tập có thể vận dụng từ các câu đố vui trong các bài tập
chính tả của SGK.Từ các nội dung có sẵn chúng ta chỉ cần thay đổi yêu cầu
cho phù hợp với mục đích luyện tập. Như vậy sẽ đỡ mất thời gian, công sức
tìm tịi nguồn tài liệu khác, đồng thời nội dung là các câu đố đó có tác dụng
kích thích được tính tị mị của trẻ.Chẳng hạn như BT2 (trang 56 -Tuần 7) yêu
cầu: Điền vào chỗ trống và giải câu đố:
a, <i>tr</i> hay <i>ch:</i>
<i>....</i>ẳng phải bò, ….âu
Uống nước ao sâu
Lên cày ruộng cạn.
sẽ được thay bằng: <i>Sửa lỗi chính tả cho các từ in nghiêng trong câu đố dưới</i>
<i>đây rồi chép lại cho đúng:</i>
Mình trịn, <i>mụi</i> nhọn
<i>Chẵng phãi</i> bò, trâu
Uống nước ao sâu
Lên cày ruộng cạn.
Tương tự, BT2b-Tuần 12 được đổi thành: <i>Tìm chữ viết sai chính tả</i>
Quen gọi là hạt
Chẵng nỡ thành cây
Nhà cao, nhà đẹp
Dùng tôi đễ xây. (Là cái gì?)
Có thể áp dụng cách làm này cho các BT2a (trang 41 - Tuần 5), BT2a
(trang 92 - Tuần 11), BT3a (trang 105 -Tuần 13), BT3a (trang 120 - Tuần 14),
BT2a (Trang 47 - Tuần 23), BT2a (Trang 129 - Tuần 33)…
Sau khi học sinh điền xong yếu tố cần thiết hoặc tìm và sửa lỗi sai, GV
có thể u cầu học sinh giải thích vì sao (u cầu này chỉ áp dụng đối với học
sinh khá, giỏi). Như vậy học sinh sẽ nắm được dấu hiệu chính tả trên cơ sở
nắm nghĩa của từ. Kiến thức nhờ vậy mà được lưu giữ một cách bền vững
hơn.
<b> </b> <b>* Để phân biệt thanh sắc/thanh ngã</b>: Có một số bài tập như:
<b>Ví dụ 1 :</b><i>Điền “bó” hoặc “bõ” vào chỗ trống...</i>
<i> - gắn...</i> <i>- ...cong</i>
<i> - ... đuốc</i> <i> - ... sức</i>
<i> - ... bèn</i> <i>- ...tay</i>
<i> - ba...</i> <i>- ...hồng</i>
<i> - hàng...</i> <i>- ... bề ngoài</i>
<i> - đẹp...</i> <i>- rau...</i>
Cũng như trên, sau khi học sinh điền xong, giáo viên hỏi thêm: Tại sao
Ví dụ: - <i><b>Ba má em là người tốt</b></i> <i>bụng</i>.
- <i> Chúng em ln đồn kết, gắn bó với nhau</i>.
- <i>Nó chỉ được cái mã bề ngồi. v.v...</i>
Đặt từ trong một ngữ cảnh nhất định cũng là một cách giúp học sinh ghi
nhớ nghĩa của từ và cách viết từ.
<b> </b> <b>*Giúp phân biệt thanh hỏi/thanh nặng</b> : có các bài tập sau:
<b>Ví dụ 1</b>: <i>Điền mở hay mợ vào chỗ trống?</i>
<i> - ... cửa</i> <i>- cậu ...</i>
<i> - cởi...</i> <i>- ...hàng</i>
<i> - ... mắt</i> <i>- ... Lê</i>
<b>Ví dụ 2</b><i>: Điền nở hay nợ vào chỗ trống?</i>
<i> - hoa...</i> <i>- bột...</i>
<i> - ...nần</i> <i>- ...nang</i>
<i> -vay...</i> <i>- xóa...</i>
Như vậy, bằng cách cho thực hiện những bài tập kiểu điền yếu tố như
trên sẽ giúp các em luyện tập ,củng cố ghi nhớ các từ có dấu thanh mình hay
nhầm lẫn.
<i><b>3. Kiểu đưa ra những từ ngữ trong đó có hai hay nhiều chữ viết khác</b></i>
<b>Ví dụ 1</b><i>: Điền vào chỗ trống</i> :
<i> a. nghỉ hay nghĩ:</i>
<i>... ngơi; ... ngợi; suy...; ngày...; ...việc</i>
<i> b. ngả hay ngã?</i>
<i>a. mải, mãi hay mại? </i>
<i>...mê; ...chuyện.; nói...; ...miết; cơng ty</i>
<i>thương...;mềm...</i>
<i> b. lẻ , lẽ hay lẹ?</i>
<i>...phải; ...loi; mau...;... bóng; ...ra; lí...</i>
<i> c. cổ, cỗ hay cộ?</i>
<i>...xưa; mâm...; xe...; ...kính; ...máy</i>
<i>b. vở, vỡ hay vợ?</i>
<i>sách...; ...bát;...chồng; ... bờ; hỏi...; quyển...</i>
<i><b>4. Kiểu đưa ra những chữ viết sai chính tả theo cách viết thường gặp</b></i>
<i><b>của các em và yêu cầu các em chữa. </b></i>
Kiểu bài tập này được thể hiện khá phong phú dưới nhiều hình thức.
<b>Ví dụ 1</b>: Tìm từ viết sai và viết lại cho đúng :
<i> a. Tôi hát nữa bài rồi không hát nửa</i>
<i> b. Tơi khơng có tiền lẽ, lẹ ra tôi phải mang theo.</i>
<i> c. Cứ mãi chơi thì cịn dốt mải</i>
<b>Ví dụ 2:</b> Gạch chân dưới chữ viết sai chính tả rồi viết lại chữ đó cho
đúng:
<i>Khi em bé khóc</i>
<i>Anh phải dổ dành</i>
<i>Nếu em bé ngả</i>
<i>Anh nâng dịu dàng</i>
<b>Ví dụ 3:</b> Đánh dấu X vào ô trống trước từ viết đúng chính tả :
a. <i>cũ kị</i> <i>vẹ vời</i>
<i>kĩ cương</i> <i>nha nhặn</i>
<i>kỉ lục</i> <i>ngẫm nghĩ</i>
<i>b. </i> <i>vựng chại</i> <i>ngất ngưỡng</i>
<i>bơi trải</i> <i>trầm bổng</i>
<b>Ví dụ 4:</b> Ghi Đ (đúng chính tả); ghi S (sai chính tả) vào ơ trống đặt cạnh
các từ ngữ
a. <i>lực sị</i> <i>bán sỉ</i>
<i>sĩ quan</i> <i>sỉ diện</i>
<i>bác sị</i> <i>y sĩ</i>
<i>b. </i> <i>kính lão</i> <i>xe cộ</i>
<i>bà lảo</i> <i>lạo nơng</i>
<i>mâm cộ</i> <i>cỗ vật</i>
<b>Ví dụ 5:</b> Một bạn học sinh đã viết như sau:
<i>Tiếng trống dồn lên, gấp rút, giục giả. (1) Ông Cản Ngũ vẩn chưa ngả.</i>
<i>(2) Ông vẩn đứng như cây trồng giữa sới. (3) Còn Quắm Đen thì đang loay</i>
<i>hoay, gị lưng lại, khơng sao bê nổi chân ông lên. (4)</i>
a. Hãy ghi số câu vào chỗ trống trong mỗi lời nhận xét dưới đây:
A. Câu khơng mắc lỗi chính tả là câu số...
B. Câu... là câu mắc lỗi viết sai thanh ~/ ‚
C. Câu...là câu mắc lỗi viết sai thanh ~/ .
b. Sửa lỗi chính tả và chép lại đoạn văn cho đúng.
<b>Ví dụ 6:</b> * Chọn cách viết đúng cho từ trong ngoặc đơn để điền vào
chỗ trống:
a. <i>Vào... (nhứng/những/nhựng)ngày... (lệ/lể/lễ) Tết nhân</i>
<i>dân ta thường tổ chức nhiều trò chơi dân gian.</i>
<i>b. Trong Hội thi, chúng em được gặp...(gỡ/gở/gợ), giao lưu với</i>
<i>học sinh các trường kết... (nghía/nghịa/nghĩa) </i>
Hoặc: * Chọn trong ngoặc từ viết đúng chính tả bằng cách gạch chân
dưới từ đó:
<i>a. Mỗi năm đến mùa mưa, vùng này thường có (lủ/lũ)</i>
<i>b. Cả đội quyết tâm san phẳng những chỗ lồi (lỏm/ lõm) trên sân bóng.</i>
<i>c. Sạch (sẹ/sẽ) là mẹ sức (khõe/ khỏe)</i>
<i>B. Dụng cảm, tan vỡ, sổ sàng, xin lỗi, quảng đường.</i>
<i>C. Dũng cảm, tan vỡ, sỗ sàng, xin lỗi, quãng đường.</i>
Với một số nội dung trên, sau khi học sinh hoàn thành xong cần tổ chức
cho các em luyện đọc. Như vậy là vừa giúp học sinh nhận diện ra được chữ
viết sai cả trên cơ sở ngữ âm cả trên cơ sở chính tả. Nhờ vậy mà học sinh ghi
nhớ được cách viết đúng. Luyện tập một nội dung nhưng được xây dựng bằng
nhiều hình thức khác nhau, nên tránh được trùng lặp, nhàm chán, do đó kích
thích được hứng thú cho học sinh. Lại có những bài tập sử dụng chung một
ngữ liệu nhưng lại được khai thác ở những khía cạnh khác nhau. Ví dụ với bài
Đ<i>ánh dấu nhân vào ơ trống trước từ</i> <i>viết đúng chính tả</i> có thể được thay thế
bằng lệnh: <i>Điền Đ – S</i> hoặc <i>“Khoanh tròn chữ đặt trước câu trả lời đúng</i>” và
ngược lại.
Khi sử dụng các bài tập nêu trên chúng tơi thường tổ chức dưới nhiều
hình thức khác nhau.Có thể cho học sinh hoạt động cá nhân như tự làm bài
vào vở,cũng có thể cho học sinh hoạt động theo nhóm. Để tạo khơng khí thi
đua sơi nổi và kích thích hứng thú cho học sinh , các bài tập đó là nội dung của
các cuộc thi như: Thi<b>: Ai nhanh-Ai đúng? </b>Thi<b> Ai nhanh tay – nhanh mắt?,</b>
<b>thi Trò chơi tiếp sức, </b>thi<b> Ai viết nhanh-viết đúng?</b> Thi <b>Ai viết đúng-viết đẹp</b>?...
Sau mỗi tháng, mỗi kỳ, mỗi năm chúng tôi thường điều tra, thống kê
TT Bài LỗiSố
HS
Hỏi
Ngã
Ngã
Nặng
Sắc
Hỏi
Sắc
Ngã
Ngang
huyền
Ngang
sắc
Ngang
hỏi
Huyền
Sắc
Huyền
Ngã
Tổng
1 C.tả 185 12 7 6 4 3 11 5 3 4 55
2 T.L.V 185 38 25 14 25 17 16 18 14 9 176
Như vậy, thực tế cho thấy, sau một thời gian đưa hệ thống bài tập
phương ngữ nói trên vào áp dụng thay thế, bổ khuyết cho phần “thừa” và phần
“thiếu” trong SGK Tiếng Việt lớp 3, chúng tơi thấy hiện tượng phạm lỗi chính
tả của HS do ảnh hưởng của phương ngữ đã giảm rõ rệt cả về số lượng và tần
số xuất hiện. Nếu như đầu năm tổng số lỗi về thanh điệu là 1534 lỗi/740 bài
của 185 học sinh thì cuối năm con số đó chỉ cịn là 231 lỗi (giảm 84,94%).
Trong đó phải kể đến hiện tượng học sinh nhầm lẫn các tiếng có thanh hỏi,
thanh ngã/thanh nặng... chỉ cịn rất ít và đó thường là những đối tượng học
sinh học yếu. Có thể nói các bài tập với nội dung cụ thể ln ln bám sát
hiện tượng “có vấn đề” đã giúp các em thường xuyên luyện tập viết đúng và
ghi nhớ những chữ thường viết sai. Nhờ vậy chất lượng học tập môn Tiếng Việt
cũng từng bước được nâng cao.
<b> PHẦN III: KẾT LUẬN</b>
Qua quá trình nghiên cứu lý luận, thực tiễn về những vấn đề có liên
quan đến phương ngữ Nghệ An cũng như thực trạng tiếp thu ngôn ngữ Tiếng
<b>1. </b>Những đặc điểm mang tính chất riêng biệt về ngữ âm của phương
ngữ Nghệ An một mặt là điều kiện thuận lợi giúp học sinh Tiểu học vùng này
lĩnh hội những tri thức về ngôn ngữ Tiếng Việt chuẩn.Mặt khác, những đặc
điểm đó cũng gây khơng ít khó khăn trở ngại cho các em trong q trình học
môn Tiếng Việt. Đặc biệt những hạn chế ấy được thể hiện ở hệ thống thanh
điệu. Sự phát âm lẫn lộn không phân biệt một số thanh dẫn đến hiện tượng
phạm lỗi chính tả trong học sinh, nhất là học sinh Tiểu học hết sức phổ biến,
khơng dễ gì khắc phục được.
<b>3. </b>Để góp phần tháo gỡ khó khăn trong q trình dạy - học mơn Tiếng
Việt Tiểu học nói chung, ở Nghệ An nói riêng địi hỏi những nhà nghiên cứu,
những người dạy Tiếng Việt tiếp tục suy nghĩ và có những giải pháp thỏa
đáng, phù hợp.
Vấn đề cần được đặt ra hiện nay là:
- Đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên Tiểu học cần được đào tạo một
cách có hệ thống về Tiếng Việt.
- Bên cạnh cuốn “Từ điển chính tả Tiếng Việt” nói chung cần biên soạn
các từ điển chính tả cho nhà trường thích hợp với từng vùng phương ngữ nhất
định nhằm giúp cho học sinh ở các địa phương viết đúng chính tả trên cơ sở
phân biệt các âm và thanh điệu khác nhau được thể hiện trên chữ viết.
- Song song với việc sử dụng bộ sách Tiếng Việt Tiểu học hiện nay, cần
biên soạn, bổ sung thêm các tài liệu mang tính chất chỉ đạo, hướng dẫn có nội
Trong phương pháp làm việc và học tập của mình nói chung, trong phương
pháp dạy học nói riêng, mỗi người có sự chủ động, sáng tạo riêng của mình.
Trên đây chỉ là một số kinh nghiệm của cá nhân về việc xây dựng hệ thống bài
tập chính tả phương ngữ cho học sinh lớp ba ở Nghệ An để các bạn tham
khảo.
Rất mong nhận được các ý kiến nhận xét, góp ý của các Cán bộ chỉ đạo
chuyên môn các cấp và của bạn bè đồng nghiệp, đặc biệt là những người đang
trực tiếp giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học.
<i><b>Xin chân thành cảm ơn!</b></i>
<i>Vinh, ngày 9 tháng 4 năm 2010</i>
1. Lê A: Về chương trình chính tả Tiểu học (Kỉ yếu Hội thảo khoa học
toàn quốc) - SGK Tiếng Việt bậc tiểu học hiện hành và chương trình Tiếng
Việt bậc Tiểu học sau năm 2000 - NXB giáo dục 1997.
2. Lê A - Lê Phương Nga - Nguyễn Trí: Phương pháp dạy học Tiếng
Việt (tài liệu đào tạo giáo viên Tiểu học) - Bộ Giáo dục và Đào tạo - Vụ giáo
3. Hoàng Ngọc Anh: Một vài nhận xét bước đầu về âm và nghĩa từ địa
phương Nghệ Tĩnh - Ngôn ngữ số 1 - 1995.
4. Hồ Cơ: Việc thực hiện các qui định về chuẩn hố chính tả và thuật
ngữ trong sách giáo khoa và trong nhà trường.
5. Hoàng Cao Cương: Vai trò của Tiếng Việt trong soạn sách giáo khoa
giành cho học sinh bậc tiểu học hôm nay (Kỉ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc).
6. Hà Quang Nâng: Từ thực trạng mắc lỗi chính tả của học sinh Tiểu
học suy nghĩ về cách dạy và sách giáo khoa hiện nay (Kỉ yếu Hội thảo khoa
học toàn quốc).
7. Lê Phương Nga (Chủ biên) - Trần Thị Minh Phương - Lê Hữu Tỉnh:
Tiếng Việt 3 nâng cao - NXBGD 2006.
8. Phan Ngọc: Chữa lỗi chính tả cho học sinh - NXBGD 1982
9. Hoàng Thảo Nguyên: Về nội dung, phương pháp dạy chính tả qua
sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học.
10. Hồng Phê; Vấn đề chuẩn chính tả. Chuẩn hố chính tả và thuật ngữ
NXBGD 1984.
11. Hồng Tuệ: Người giáo viên trước các vấn đề chuẩn hoá Tiếng Việt.
Chuẩn hoá Chính tả và thuật ngữ - NXBGD 1984.
12. Nguyễn Trí (chủ biên) - Dương Thị Hương - Thảo Nguyên: Để dạy
13. Nhiều tác giả: Tiếng Việt (Lớp 1, 2, 3, 4, 5) chương trình hiện hành
- NXBGD 2008.
14. Nhiều tác giả: Tài liệu hướng dẫn giảng dạy và Bài soạn Tiếng Việt
(Lớp 1, 2, 3, 4, 5) - NXBGD