Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Tìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.07 KB, 61 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
<b>KHOA TRIẾT HỌC </b>


------


<b>ĐỖ TUỆ QUYÊN </b>


<b>TÌM HIỂU NGHI LỄ CẦU AN QUA KHẢO CỨU </b>


<b>MỘT SỐ NGÔI CHÙA Ở HÀ NỘI HIỆN NAY </b>



<b>KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC </b>



<b>NGÀNH TRIẾT HỌC </b>
<b>Hệ đào tạo: Chính quy </b>
<b>Khóa học: QH-2015-X </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>LỜI CẢM ƠN </b>


Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm ơn
sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cơ giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian em học tập
tại khoa, tại trường.


Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị Tố
Uyên đã giúp đỡ và hướng dẫn em rất tận tình trong q trình thực hiện và hồn
thiện khóa luận tốt nghiệp này.


Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
các thầy, các cơ, cùng tồn thể các bạn để khóa luận này được hoàn thiện hơn.



Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2019.
Sinh viên


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>MỤC LỤC </b>


MỞ ĐẦU ... 2


<b>1. </b> <b>Lý do chọn đề tài ... 2 </b>


<b>2. </b> <b>Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ... 4 </b>


<b>3. </b> <b>Mục đích nghiên cứu ... 4 </b>


<b>4. </b> <b>Nhiệm vụ nghiên cứu ... 5 </b>


<b>5. </b> <b>Phạm vi nghiên cứu : ... 5 </b>


<b>6. </b> <b>Phương pháp nghiên cứu ... 5 </b>


<b>CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHI LỄ CẦU AN ... 7 </b>


<b>1.1. </b> <b>Một số khái niệm cơ bản ... 7 </b>


<b>1.2. </b> <b>Nghi lễ cầu an trong kinh điển của Phật giáo Đại Thừa ... 11 </b>


<i><b>1.2.1. </b></i> <i><b>Nội dung và cách thực hành nghi lễ cầu an theo quan niệm của </b></i>
<i><b>Phật giáo Đại Thừa ... ………... 11 </b></i>


<i><b>1.2.2. </b></i> <i><b>Đặc điểm nghi lễ cầu an của Phật giáo Đại Thừa theo kinh điển .... 24 </b></i>



<b>TIỂU KẾT CHƯƠNG I ... 29 </b>


<b>CHƯƠNG 2: NGHI LỄ CẦU AN Ở MỘT SỐ NGÔI CHÙA TRÊN ĐỊA </b>
<b>BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY ... 30 </b>


<b>2.1. </b> <b>Sơ lược địa bàn nghiên cứu ... 30 </b>


<i><b>2.1.1. </b></i> <i><b>Chùa Phúc Khánh ... 31 </b></i>


<i><b>2.1.2. </b></i> <i><b>Chùa Quán Sứ ... 33 </b></i>


<i><b>2.1.3. </b></i> <i><b>Chùa Bằng ... 35 </b></i>


<b>2.2. </b> <b>Thực trạng nghi lễ cầu an trên địa bàn Hà Nội hiện nay ... 37 </b>


<i><b>2.2.1. </b></i> <i><b>Tình hình thực hành nghi lễ cầu an ở chùa Phúc Khánh ... 37 </b></i>


<i><b>2.2.2. </b></i> <i><b>Thực trạng thực hành nghi lễ cầu an tại chùa Quán Sứ ... 41 </b></i>


<i><b>2.2.3. </b></i> <i><b>Thực hành nghi lễ cầu an ở chùa Bằng ... 44 </b></i>


<b>TIỂU KẾT CHƯƠNG II ... 49 </b>


<b>KẾT LUẬN ... 50 </b>


<b>Danh mục tài liệu tham khảo ... 54 </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>MỞ ĐẦU </b>
<b>1.</b> <b>Lý do chọn đề tài </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Trong thời đại công nghệ mới con người đối mặt bối cảnh đô thị hóa, xã
hội biến động, hệ giá trị thay đổi, nguy cơ đối với con người có xu hướng
tăng lên. Trầm cảm, tự tử, con người tâm không định, hoang mang, dễ khủng
hoảng là những vấn nạn lớn của loài người. Đời sống nhân sinh là tập hợp của
những nỗi thống khổ, cái khổ có xu hướng ngày càng đa dạng. Kinh tế thị
trường khuếch đại nhân dục và gia tăng cạnh tranh. Nhân dục tăng lên tức là
<i>cầu bất đắc khổ gia tăng. Nguy cơ đối với đời sống con người tăng lên. Chính </i>
vì điều này, người dân đã tìm đến tơn giáo như một liều thuốc tinh thần thông
qua những nghi lễ để xoa dịu những lo âu, bất an của họ. Đối với trường phái
lý thuyết chức năng, Malinowski nhấn mạnh đến chức năng tâm sinh lý của lễ
<i>nghi. Từ ví dụ nổi tiếng của Malinowski về đời sống của người Trobriand ở </i>
một đảo của Thái Bình Dương đã rút ra nhận định là <i>phù phép để trấn an </i>
<i>chính con người về mặt tâm lý, mong được an toàn… Lý thuyết Malinowski </i>
đưa ra giả thuyết là môi trường càng bất trắc và kết quả càng bấp bênh thì con
người càng cần đến lễ nghi phù phép.


Trong xã hội và con người của thời đại số hóa như vậy, cách nhìn thế
giới và con người giác ngộ nhân tâm của Phật giáo, cách thức nhập thế của
Phật giáo cần có những thuyên thích và định hướng mới. Phật giáo cũng cần
có những cửa phương tiện mới phù hợp với thời đại. Ngày nay trước những
vấn nạn mới của con người, của xã hội và đời sống hiện đại, Phật giáo cần thể
hiện vai trò và vị thế mới, phát huy yếu tố nhân văn, vị tha, bác ái truyền
thống trong cảnh huống mới và bằng những cách thức mới. Để đáp ứng được
nhu cầu tinh thần và khơng phụ lịng tin tưởng của đại chúng, Phật giáo đã
đưa đến những nghi lễ, cách thức phù hợp với từng nhu cầu căn bản thiết yếu
nhất của Phật tử như : cầu siêu, cầu an, vu lan báo hiếu,….


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống xã hội. Vì những lý do trên tôi
quyết định chọn đềtài nghiên cứu “Tìm hiểu nghi lễ cầu an qua khảo cứu một
số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nay” làm đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp


của mình góp phần nhận diện phần phác họa, miêu tả những hoạt động nghi
lễ cầu an của Phật giáo Đại Thừa, từ đó có thể đánh giá được niềm tin và sự
gắn bó với Phật giáo trong đời sống Phật tử, đại chúng.


<b>2.</b> <b>Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài </b>


Vê Phật giáo ở Việt Nam tư cách là những thiết chế xã hội đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu cơ bản, dưới nhiều góc độ như tôn giáo, triết học, xã
hội học,… Rất nhiều các cơng trình nghiên cứu về vấn đề nghi lễ Phật giáo
tiêu biểu như :


Nguyễn Đình Lâm,(2008), Diễn xướng thanh nhạc trong nghi lễ Phật
giáo (Trường hợp cầu siêu), Nghiên cứu Tôn giáo (số 12).


Phan Thị Yến Tuyết,(2005), Nghi lễ cầu siêu – cầu an trong cồng đồng
các dân tộc tại Nam Bộ , Nghiên cứu Tôn giáo ( số 4).


Nguyễn Tất Đạt,(2013), Công tác nghi lễ của Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam.


Nguyễn Hữu Sử,(2014), Trai đàn Chẩn Tế Triều Nguyễn, Nghiên cứu
Tơn giáo, (số 7).


Nhìn chung những nghiên cứu này đều đã đề cập đến những vấn đề cơ
bản của nghi lễ Phật giáo, đã chạm đến những nét căn bản trong từng nghi lễ
qua nhiều chiều cạnh khác nhau. Những nghiên cứu này rất bổ ích khơng chỉ
trong việc xem xét và lý giải những nghi thức nghi lễ tôn giáo Việt Nam
khoảng hai thập kỷ gần đây, mà còn làm rõ sự ảnh hưởng của những nghi lễ
tôn giáo đến đời sống con người và ngược lại. Tuy nhiên, trong những công
trình này, một số nhấn mạnh đến lý luận cơ bản, đưa ra những cái chung nhất


mà chưa đi tới cái cụ thể. Chính vì thế việc nghiên cứ đề tài “Tìm hiểu nghi lễ
cầu an qua khảo cứu một số ngôi chùa ở Hà Nội hiện nay” là rất cần thiết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Đề tài nghiên cứu hướng tới sự tham gia hoạt động nghi lễ cầu an đầu
năm của Phật tử tại Hà Nội hiện nay qua nghiên cứu trường hợp tại chùa Phúc
Khánh, chùa Bằng và chùa Quán Sứ. Từđó xem xét phân tích thực trạng thực
hành nghi lễ cầu an tại Hà Nội hiện nay.


<b>4.</b> <b>Nhiệm vụ nghiên cứu </b>


Làm rõ khái niệm, ý nghĩa, cung cách thực hiện của nghi lễ cầu an của
Phật giáo Đại Thừa.


Mô tả các hoạt động nghi lễ cầu an Phật giáo ở chùa Phúc Khánh, chùa
Bằng và chùa Quán Sứ hiện nay.


Tìm hiểu sự tham gia của Phật tử chùa Phúc Khánh, chùa Bằng và chùa
Quán Sứ trong nghi lễ cầu an: tần suất tham dự, cung cách tham gia.


<b>5.</b> <b>Phạm vi nghiên cứu : </b>


<i>Không gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu nghi lễ cầu an ở </i>
một số ngôi chùa trên địa bàn Hà Nội hiện nay. Cụ thể là chùa Phúc Khánh;
chùa Quán Sứ và chùa Bằng.


<i>Thời gian nghiên cứu: Trong khoảng vài năm trở lại đây </i>


<i>Nội dung nghiên cứu: Vì các ngôi chùa ở vùng Đồng Bằng Bắc Bộ nói </i>
chung và ở Hà Nội nói riêng chủ yếu theo Phật giáo Đại Thừa, nên có nhiều
nghi lễ khác nhau. Vì thế, ở đề tài này, chúng tơi chỉ chọn Nghi lễ cầu an làm


đối tượng nghiên cứu chính.


<b>6.</b> <b>Phương pháp nghiên cứu </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Phương pháp biện chứng duy vật của triết học Mác – Lênin nhằm tìm ra
và phân tích được bản chất, ý nghĩa thực sự của nghi lễ cầu an đầu năm


Phương pháp phân tích so sánh: nhằm làm rõ nét tương đồng, sự khác
biệt của nghi lễ cầu an so với giai đoạn trước đó; làm rõ những đặc trưng
riêng của nghi lễ này só với các nghi lễ khác trong Phật giáo.


Phương pháp thu thập thông tin định tính: bao gồm các phương pháp như
quan sát, phỏng vấn sâu, phân tích các văn bản như tài liệu, tranh, ảnh,
tượng... Phương pháp này cho phép đề tài mô tả bối cảnh nghiên cứu, sự linh
hoạt để phát hiện vấn đềnhằm bổ sung, lý giải cho những vấn đề chưa rõ trong
nghi lễ cầu an. Đề tài sử dụng phương pháp này ở ba ngôi chùa bao gồm nội
thành và ngoại thành, mỗi ngôi chùa dự kiến quan sát phỏng vấn từ 5 đến 10
tín đồ và chức sắc Phật giáo nhằm phục vụ những luận cứ khoa học cho đề
tài.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHI LỄ CẦU AN </b>
<b>1.1.</b> <b>Một số khái niệm cơ bản </b>


Khi nói đến “nghi lễ” chúng ta cần phải hiểu qua về ý nghĩa của nó. Hai
chữ “nghi lễ” mang trên mình rất nhiều ý nghĩa nội hàm.


Nghi : nghi thức , lễ nghi, lễ phép, khuôn phép, oai nghi,..


Lễ : lễ giáo, lễ nhạc, lễ bái, cúng tế, tôn thờ, cung kính,..



Có thể nói, “nghi lễ” là chỉ chung cho những nghi thức tụng niệm hành
lễ, sinh hoạt trong phạm vi tín nghưỡng thờ phụng của một tơn giáo.


Theo Sabino Acquaviva Enzo Place nghi lễ hay cịn gọi là sự thực hành
tơn giáo: là một tín đồ thực hiện một tập hợp những quy định về nghi thức mà
một ng thời gian và chỉ được thực hành ở những không gian thiêng liêng đặc
biệt.


Trong cuốn “Xã hội học” của tác giả Richard T.Schaefer, nghi lễ hay
các nghi thức tơn giáo (religious rituals) là tín ngưỡng tơn giáo nào đó, ít hay
nhiều thể chế hóa, bắt phải thực hiện để cho việc theo tín ngưỡng đó có thể
nhìn thấy và kiểm tra được [1]. Về mặt khái niệm, những yếu tố tham gia thực
hành nghi lễ thường nằm theo thứ tự sau đây: có một uy quyền tôn giáo giữ
được sự cố kết giữa các thái độ tín ngưỡng và các ứng xử nghi thức bắt nguồn
từ các thái độ đó; có một quy định về những nghi thức lặp đi lặp lại trong
những thực tiễn cần thiết hay được cho là các thành viên của một đức tin thì
phải có các nghi lễ thường là để tôn vinh quyền năng thần thánh được các tín
đồ kính trọng; chúng cũng nhắc những người đi theo nhớ bổn phận và trách
nhiệm tơn giáo của mình. Nghi lễ và tín ngưỡng có thể liên thuộc với nhau;
các nghi lễ nói chung bao gồm sự khẳng định, tin tưởng [21,45].


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

có phần sai khác nhưng mục đích vẫn là chí thành cầu nguyện tán than cơng
đức vị giáo chủ mà mình đa quy ngưỡng tơn thờ.


Chính vì thế mà nghi lễ vốn là vấn đề quan trọng và có nhiều lợi ích
trong đạo phật. Cũng vì vậy nên kẻ hành giả cần phải học tập và hiểu rõ ý
nghĩa những vấn đề thuộc về nghi lễ trước khi hành lễ.


Nghi lễ Phật giáo chính là sự thực hành nghi thức tôn giáo mang đặc
trưng của đạo Phật. Theo tác giả Hoằng Quảng lễ nghi được hiểu ở đây là


những quy định, thiết chế mang tính khn mẫu, từ thường được dùng trong
kinh điển là các học pháp mà người đệtử Phật cần phải tuân theo, vâng làm.
Và như vậy, lễ nghi tương đồng với giới luật. [14] Theo Phật giáo, một người
sơ cơ quy y Tam bảo thì cần phải dạy họ nói năng thế nào, đi đứng ra sao, lễ
bái thế nào... Một đời sống chuẩn mực phải là một đời sống thấm nhuần về
đạo đức; mà muốn có đạo đức thì phải sống theo giới luật. Và sự hiện hữu của
giới luật đã đồng thời xác tín sự xuất hiện của nghi lễ. Với một người cư sĩ
nói chung, thì sống và hành xử theo những thiết chế lễ nghi được Đức Phật
minh định có thể coi là một nét đẹp của đời sống và là phương thức sống văn
minh tiến bộ.


Hoạt động của nghi lễ Phật giáo là sự thực hành nghi lễ Phật giáo mang
tính khn mẫu theo quy định của pháp tu hoặc tại mỗi ngơi chùa, ngồi tham
gia những hoạt động Phật giáo, Phật tử còn tham gia những hoạt động thiện
nguyện được tổ chức bởi các ngơi chùa mà mình tín tâm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Tiếp đến là khái niệm của từ “cầu an”, từ “cầu” có nghĩa là theo đuổi,
tìm kiếm, mong ước, cầu xin, thỉnh cầu, theo đuổi công việc hết sức trọn vẹn,
kết thúc hoàn chỉnh hoàn thành.[5,55]. Theo Phật giáo thì từ “Cầu” ở đây
không phải là cầu xin, là van xin, là quỵ lụy trước một đấng thần siêu hình có
khả năng hơ mưa gọi gió, ban ơn giáng nạn mà được hiểu trong từ cầu
nguyện, cầu xin hay ước nguyện - một trạng thái tâm lý mong mỏi một điều gì
đó sẽ được thực hiện, sẽ được thành tựu hay diễn ra theo chủ ý của người
mong đợi. Nó phản ánh một thái độ mong chờ một sự kiện diễn ra theo chủ ý
của người có ước mong. Còn từ “an” thường được hiểu là an yên, bình an, an
lành,… – là một trạng thái tâm lý mà ở đó tâm ta được thấy thanh thản, không
lăn tăn suy nghĩ, lo sợ về miếng cơm, manh áo, được an yên về cả thể chất lẫn
tinh thần. “An” ở mỗi con người là thân an, có nghĩa là khỏe mạnh, sống lâu,
không bệnh tật, không tai nạn, rủi ro…, tâm an - trạng thái tinh thần thanh
thản, thoải mái, không lo âu phiền muộn, không sợ hãi, khủng hoảng, không


căng thẳng bức bối…, hồn cảnh an - gia đình ấm no hạnh phúc, điều kiện
sống, hoàn cảnh sống tốt, các mối quan hệ tốt đẹp, gặp nhiều thuận duyên
trong cuộc sống…


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

cúng dường Tam bảo,... hồi hướng cơng đức ấy cho việc gia đình và bản thân
tai qua nạn khỏi, khỏe mạnh, tai qua nạn khỏi và sự an lạc nội tâm.


Có thể nói cầu an chính là cầu nguyện cho người thân, cho chúng sinh và
cho bản thân mình được yên lành, an vui, không bệnh tật hoạn nạn, khổ não.
Để có được những điều đó, theo đức Phật là mỗi người phải tự trau dồi đời
sống đạo đức và trí tuệ, phát huy các hạnh lợi tha, giúp đỡ mọi người, sống an
yên, chính niệm và tỉnh thức trong từng phút giây của hiện tại. Không hồi
vọng về q khứ để thốt khỏi thế giới kinh nghiệm đau thương. Khơng hồi
vọng về tương lai để không lo âu và sợ sệt. Sống một cách sáng suốt, bình
thản trong hiện tại để khắc chế mọi tham ưu ở đời. Người sống được như vậy
thì lúc nào cũng "an" lúc nào cũng khỏe mạnh, cũng hạnh phúc, không cần
cầu nguyện và mong mỏi cũng được. Trái lại, nếu chúng ta sống buông lung,
sa đọa, bỏ rơi hiện tại, không làm các điều thiện, trái lại rơi vào con đường tội
lỗi thì dù có cầu nguyện bao nhiêu cũng không thể an ổn được.


Theo một số tín đồ Phật giáo, nếu như cầu an khơng đúng pháp là cầu an,
chỉ cầu cho vui lòng thân nhân của người bệnh, hay làm lấy lệ bài bản theo
nghi lễ cầu an cho xong chuyện. Trong lúc vị chủ lễ dâng lời cầu nguyện thì
người tham dự bận lo nghĩ chuyện khác, đủ thứ vọng tưởng chi phối. Đôi khi
họ không biết người bệnh hay người quá cố là ai. Cung cách cầu an hay cầu
siêu này, người đời thường dè bỉu là "cầu an hay cầu siêu xã giao" nghĩa là
làm để trả nợ cho người sống hay làm cho người sống an lòng. Người chủ lễ
và người tham dự cầu an hay cầu siêu khơng ngồi mục đích là giúp nạn nhân
an tâm thốt khổ vậy mà chính tâm của họ đang bất an, đang nghĩ tưởng lung
tung tạo thành một dịng năng lượng tạp niệm... thì khố lễ này hồn tồn thất


bại, khơng mang sự ích lợi nào cho người bệnh hay người mất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

đẹp lịng sếp. Vì nếu đồng nghiệp đi mà mình khơng đi thì sợ sếp ghét sẽ "đì"
mình, cho nên mọi người cùng đến tham dự Lễ Cầu An, nhưng bằng cái tâm
hời hợt lo ra như thế thì đâu tạo được năng lượng tốt đẹp gì để giúp cho người
bệnh qua cơn hiểm nghèo.


Một số khác lại cho rằng cầu an là một hình thức tín ngưỡng có từ ngàn
xưa, khắp nơi trên thế giới dưới những biểu hiện khác nhau tùy theo từng
vùng văn hóa và dân tộc. Đối với Phật giáo,việc cầu an chỉ là một hình thức,
quan trọng là mình muốn an thì phải sống bằng cái tâm, bằng con tim yêu
thương, biết giúp đỡ mọi người, sống thiện lương, giữ gìn thân khẩu ý, khơng
tạo nghiệp, sống một niềm vui chính niệm an lạc trong giây phút hiện tại. Lễ
cầu an có thể diễn ra ở tại gia và mời chư Tăng đến tiến hành nghi thức cầu an
đúng pháp, tụng kinh, niệm Phật. Nghi thức nên đơn giản, không quá cầu
kỳ. Điều quan trọng là người tham gia phải thành tâm sám hối, bỏ ác, làm
lành. Lễ cầu an cũng có thể tổ chức ở chùa, nơi có cảnh trí yên tĩnh, càng làm
cho nội dung của các nghi thức trên thêm phần trang nghiêm và thể hiện lòng
thành tín.


<b>1.2.</b> <b>Nghi lễ cầu an trong kinh điển của Phật giáo Đại Thừa </b>


<i><b>1.2.1.</b></i> <i><b>Nội dung và cách thực hành nghi lễ cầu an theo quan </b></i>
<i><b>niệm của Phật giáo Đại Thừa </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Nghi thức trong các khóa lễ của phật giáo thường có bốn phần


• Phần 1 : Tách bạch : gồm cả phần niệm hương, cúng dường Tam Bảo.
Phần này như một lời trình về duyên sự của buổi lễ, đây cũng là phần khởi
đầu của tất cả buổi lễ.



• Phần 2 : Lễ Tam Bảo : gồm phần xưng tán và lễ Tam Bảo. Tất cả các
thời khóa đều có phần này dù đầy đủ hay giản lược.


• Phần 3 : Kinh Văn : gồm những Phật ngôn hay kệ tụng phù hợp với tinh
thần của các khóa lễ đã xướng trong lời tác bạch. Phần này có thể linh
động. Vị chủ lễ có thể chọn những bài kinh thích hợp với thời giờ, hoàn
cảnh và căn cơ của những người tham dư khóa lễ.


• Phần 4 : Hoàn Kinh : là phần sau cùng của mỗi khóa lễ với Bát Nhã tâm
kinh , hồi hướng, phục nguyện và tự quy tam tự quy y.


Tùy theo mỗi hệ phái phật giáo mà các phần 1,2,4 có thể khác nhau về
những hình thức, lễ nghi có thể khác nhau nhưng nhìn chung vẫn có sự thống
nhất, vẫn giữ được sự trang nghiêm và hướng về phật.


a. Nội dung nghi lễ cầu an của phật giáo Đại Thừa


Nghi lễ cầu an đầu năm là một trong những nghi lễ quan trọng của phật
giáo nên nó cũng khơng nằm ngồi những nghi quy của phật giáo, nghi lễ cầu
an vẫn phải có đầy đủ bốn phần đầy đủ như những lễ nghi khác của phật giáo
như là tách bạch, lễ tam bảo, kinh văn và hoàn kinh.


Khóa lễ cầu an này thường được tổ chức vào tháng giêng âm lịch. Khóa
lễ được diễn ra một cách uy nghiêm và trang trọng tại ban Tam Bảo và
thường có


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

xếp, kiểm soát kinh sách, kinh sư, gia chủ, lễ vật và sớ điệp với sự phụ giúp
của công văn, phân nhiệm, mời thỉnh hay cắt cử nhân sự cho buổi lễ. Trong
khi hành lễ, chú tâm hướng thượng, quán chiếu, trình thỉnh, tán tụng với lịng


chí thành. Tư cách khiêm cung, kính cẩn, tránh lời nói hay hành động thơ,
ngồi cuộc lễ. có trách nhiệm hướng dẫn buổi lễ từ lúc bắt đầu đến lúc hồn
tất. Một sự việc vơ cùng nghiêm trang kính cẩn. Thơng thường ở chốn thiền
mơn, tịnh viện ngày trước được giao phó cho một số thầy chuyên môn cung
hành nghi lễ, nên việc lễ lạy rất long trọng, hài hịa phát triễn tốt đẹp. Tình
trạng ngày nay, qua chiến tranh lâu dài, chúng ta tỵ nạn nơi xứ lạ quê người.
Phần nghi lễ truyền thống đã phần nào bị biến chất hoặc không được đào
luyện đến nơi đến chốn nên việc hành trì có rất nhiều thiếu sót. Chúng tôi một
số cư sĩ có may mắn học được từ quí thầy nghi lễ ở quê nhà từ xưa. Xin trình
bày một số nét căn bản phải làm của một chủ sám, tạm thời ứng phú đạo
tràng.


•Cử chng (duy na) : hay còn được biết đến là người đánh chng
trong buổi lễ. Kiểm sốt kinh sách, pháp khí (chng), chuẩn bị nhang đúng
chỗ, đúng lúc để buổi lễ được uy nghiêm, thanh tịnh. Đại chúng thi lễ theo
tiếng chuông như mệnh lệnh. Tránh điểm tiếng chuông khi chưa dứt câu,
thường gọi là đánh chuông vào họng. Phụ giúp chủ lễ thỉnh diên hai hay phần
duy nguyện, tiếp hơi,…


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

•Kích tử : là người sử dụng tan, linh,.. Tùy theo bài bản của buổi lễ, mục
đích làm tăng phần uy nghiêm, trang trọng của buổi lễ. Cần được thực tập
nhiều, tránh lắc người, nhảy nhót, đứng nghiêng một bên.


•Cơng văn : là người có nhiệm vụ thiết lập bàn lễ, sớ điệp.Một chức vụ
nặng về cơng việc nhưng nhẹ về hình thức, ít ai biết và hiện nay hầu như các
nơi hành lễ đã không mấy để ý phần việc nầy nhiều nên các buổi lễ trở nên
đơn điệu, thiếu sót.Thường công văn phải tìm hiểu hồn cảnh của gia chủ để
cố vấn cách hành lễ. Sau khi phối hợp bài biện lễ xong, cơng văn phải hồn
thành bản văn dâng cúng gọi là sớ, điệp...



•Kinh sư : gồm những người tham gia hộ niệm, góp nguyện lực. hất tâm
thành kính tụng niệm và sẵn sàng giúp đỡ xử dụng pháp khí để buổi lễ tăng
thêm nguyện lực.


Ðể có những buổi lễ trang trọng , chúng ta cần phải có một ban nghi lễ
đơn giản như trên, nhưng phải thành thục khoa nghi.


Ngoài những tổ chức thực hiện khóa lễ cầu an còn có những người
tham dự khóa lễ. Những người này có thể là bất kỳ ai, già trẻ lớn bé,
không kể sang nghèo hay đã quy y hay chưa quy y, tất cả mọi người đều
có thể tham dự khóa lễ này bởi lẽ Phật thương chúng sinh như mẹ thương
con, chúng sinh nhớ Phật như con nhớ mẹ, chính vì vậy nên chỉ cần có
tâm hướng Phật, thành khẩn với đầy đủ đức tin đều có được sự cảm ứng
gia hộ của Chư Phật và Bồ Tát.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

tươi lễ Phật là: Hoa sen, hoa huệ, hoa mẫu đơn, hoa ngâu, không dùng các
loại hoa tạp, hoa dại.


Về hương cúng dàng, người Việt Nam đã quen chọn số lẻ (1, 3, 5, 7, 9)
lúc thắp nhang, nhưng cũng có trường hợp người ta đốt cả nắm nhang chứ
không chú trọng vào ý nghĩa con số. Còn theo lý giải của nhà Phật cho rằng,
số lẻ mang nhiều ý nghĩa linh thiêng hơn. Con số 3 thì có nhiều quan niệm
khác nhau: Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) , Tam giới (Dục giới, sắc giới và Vô
sắc giới) , Tam thời (Quá khứ, Hiện tại, Vị lai) ,Tam vô lậu học (Giới, Định,
Tuệ). Nén hương, cũng có thêm một ý nghĩa đặc biệt khác nữa, đó là thắp
hương để nhớ đến sự vô thường. Vô thường là không vĩnh viễn, tất cả đều giả
tạm, cho nên lúc nén hương tắt cháy thì cũng tượng trưng cho đời người tắt,
ngắn ngủi vô thường... Tàn tro của hương nhắc nhở chúng ta chớ để thời gian
trồi qua, uổng phí tháng ngày. Trong nghi lễ Phật giáo, hương là một trong
sáu lễ vật dâng cúng, gồm có: Hương, hoa, đăng (đèn), trà, quả, thực (thức


ăn). Tuy nhiên nhiều người không rõ về ý nghĩa sâu xa của việc cúng Phật
nên bày biện đủ thức ăn uống như yến tiệc, khơng những uổng phí mà lại còn
làm sai lạc ý nghĩa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

b. Nghi thức thực hiện khóa lễ cầu an đầu năm của Phật giáo Đại thừa


Mỗi thầy mỗi phép, mỗi chùa mỗi cách lễ, mỗi khóa lễ lại có những cách
thực hành nghi lễ theo cách khác nhau với những bài kinh kệ phù hợp với
mục đích thực hiện khóa lễ. Tuy nhiên, dù có sự khác nhau giữa các chủ lễ,
giữa các chùa, giữa các vùng nhưng luôn có sự đồng nhất, thống nhất chung
nhất định. Lễ cầu an cũng vậy, tuy mỗi nơi mỗi khác nhưng vẫn luôn tuân thủ
thực hiện đầy đủ nghiêm trang những bước căn bản, cốt lõi của khóa lễ, thời
kinh. Mỗi một nghi lễ sẽ có những văn sớ riêng, tùy theo mục đích của khóa
lễ mà sẽ có thời kinh phù hợp. Khi thực hiện lễ cầu an, chủ lễ có thể đọc kinh
cầu an, kinh Phổ - Môn, kinh dược sư,….nhưng chủ yếu những vị chủ lễ hoặc
chủ sám thường tụng kinh Phổ - Môn, kinh Dược – Sư.


•Khi bước vào buổi lễ, trước hết phải chuẩn bị kỹ càng về nhang, đèn,
hoa quả, mâm chay, đồ lễ,… trên bàn Phật,sau đấy chủ lễ sẽ bắt đầu đỉnh lễ
Tam Bảo với toàn bộ sự cung kính kính lạy Phật pháp tăng ở khắp mười
phương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

“cúng bái mười phương pháp giới tất cả chúng sinh”. Tuy nhiên, tùy mỗi
hoàn cảnh, mỗi vị chủ lễ mà nội dung quán trưởng thầm niệm khi dâng hương
khác nhau, có thể có người nén hương đầu cúng Phật, nén thứ 2 cúng pháp,
nén thứ 3 bái tăng,…tất cả đều sử dụng được. Sau khi cắm hương, chắp tay
khấn cầu : “Nguyện rằng làn hương sẽ bay thẳng đến nơi chư Phật cư ngụ,
cầu đại từ bi, ban niềm vui cho chúng sinh” hoặc xướng tụng bài “Hương kệ”.
[8,31]



•Sau đấy đến nghi thức thỉnh chng mõ hay khai chuông mõ. Ở trong
Chùa chuông luôn luôn để bên tay trái của tượng Phật hay Bồ Tát, mõ bên tay
phải. Người thỉnh chuông sẽ thỉnh 6 tiếng chuông với ý nghĩa giữ cho sáu căn
thanh tịnh để tụng kinh. Mỗi khi người chủ lễ, chủ sám vái hoặc lạy, thỉnh 1
tiếng, khi vị chủ lễ lạy xuống, thỉnh một tiếng chuông và khi trán vị chủ lễ
chạm nền chính điện thì dập chuông (dùng dùi gõ vào vành chuông rồi giữ
dùi chuông lại trên vành chuông, như thế âm thanh của chuông không vang
ra). Khi nghe được tiếng dập chng thì chủ lễ và đại chúng cùng tham dự
đứng lên.Tiếng chuông phát ra âm thanh lắng động, đêm khuya nghe tiếng
chng lịng chúng ta sẽ lắng động, thanh thản, phiền não dường như tiêu tan.
Ở trong chùa có bài kệ khi thỉnh chuông như sau:


<i>Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới, </i>
<i>Thiết vi u ám tất giai văn, </i>


<i>Văn trần thanh tịnh chứng viên thông, </i>
<i>Nhứt thiết chúng sinh thành chính giác. </i>
Bài kệ đọc khi nghe có tiếng chuông:


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

(Nghĩa là: Nguyện cho tiếng chuông này vang khắp nơi, ở Địa ngục u
ám Thiết vi cũng được nghe, ở trần thếđược thanh tịnh chứng quả, hết
thảy chúng sinh đều thành chính giác và bài kệ sau: Nghe tiếng chuông, phiền
não nhẹ đi, trí tuệ tăng trưởng thêm, sinh tâm Bồ đề, rời khỏi địa ngục, không
bị lửa địa ngục thiêu đốt, nguyện thành Phật để độ hết chúng sinh.)


Chuông thỉnh trước: thỉnh 3 tiếng chuông


Mõ gõ sau khi chuông chấm dứt: thỉnh 7 tiếng mõ (bốn tiếng rời, tiếp
theo hai tiếng liền nhau, cuối cùng một tiếng rời ra)



Sau đó chng mõ hịa nhau như sau: 1 tiếng chuông 1 tiếng mõ 1 tiếng
chuông 1 tiếng mõ 1 tiếng chuông 3 tiếng mõ 1 tiếng chuông


Chuông thỉnh một tiếng rồi mõ tiếp theo một tiếng, chuông đủ ba tiếng
ngưng chờ, mõ đánh thêm tiếng thứ tư, tiếng thứ năm và sáu liền nhau, rồi
chuông dập cùng lúc với tiếng mõ thứ bảy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

•Tiếp đến là 3 lần Nhất tâm đỉnh lễ với kinh Phổ Môn hoặc 9 lần nhất
tâm đỉnh lễ với kinh Dược Sư - một lòng, với thân, khẩu, ý thanh tịnh con xin
cúi đầu quỳ lạy. Mỗi lần nhất tâm đảnh lễ như vậy xong, chủ sám đứng lên
lạy 1 lạy và tất cả đại chúng đằng sau cũng như vậy, lúc đỉnh lễ 2 tay phải
chắp khép lại như hoa sen búp, tuyệt đối không nên để ở giữa trống. Đại Giải
Thoát Kinh chép: Như hoa sen búp 2 tay chắp khép lại, vô lượng thân nhóm
họp đỉnh lễ 10 phương Phật, đỉnh lễ là để đối trị ngã kiến, ngã mạn của chúng
ta, mượn hình thức bên ngoài để rèn luyện bản thân, khiến cho chúng ta tiêu
trừ kiêu mạn, còn Ấn Quang Đại Sư Văn Sao chép: Cúi đầu đỉnh lễ đây cũng
là một phương pháp tốt để rèn luyện thân, như giảm béo, và giúp cho thân thể
kiện khang, đây cũng chính là tác dụng phụ của việc cúi đầu đảnh lễ.Kính
lễchúng ta thấy chỉ là hình thức bên ngồi nhưng hàm tàng bằng tất cả lịng
thiết tha ngưỡng mộ. Do vậy, khi đỉnh lễ chúng ta phải thể hiện được tinh
thần đó. Đây cũng là một nét đẹp trong tín ngưỡng, đỉnh lễ cũng giúp ta đưa
tâm trở về với thực tại bình an, nhận diện rõ rệt được sự mầu nhiệm của sức
sống nội tâm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

mong năm mới không phạm phải những lỗi ấy nữa, giữ thân không làm điều
xấu là đủ mà cịn phải làm nhiều việc thiện thì mới trọn vẹn.


•Lúc này, khói hương đã bốc nghi ngút, chủ sám sẽ vào bài “Hương tán”
hoặc “Hương kệ” để nói đến hình dạng của khói hương giống như những
đám mây. Trong kinh Phật, “Trong số các loại hương thì hương vân có uy


thần nhất”, nhà Phật luôn cho rẳng hương chính là biểu tượng thành kính nhất
của tín đồ trước Chư Phật và Bồ Tát, thông qua việc đốt hương mà đạt đến
cảnh giới “Chư Phật hiện tồn thân”. Tiếp sẽ tụng những bài chân ngơn, thần
chú làm sạch nghiệp, an thổ địa, phả cúng dàng, … ngồi ra riêng với kinh
Phổ Mơn cịn tụng thêm chân ngôn như là “Thiên thủ thiên nhãn vô ngại Đại
Bi Tâm Đà La Ni”, “Như Ý Bảo Luân Vương Đà La Ni”, “Tiêu tai cát tường
thần chú”,…


• Khi bắt đầu vào Kệ khai kinh, dù là kinh Phổ Môn hay kinh Dược Sư
trước khi vào bài kinh đều phải có câu dẫn


“Pháp Phật cao sâu rất nhiệm màu
Muôn đời khó gặp dễ hay đâu
Con nay nghe thấy được trì thụ


Chân nghĩa Như Lai nguyện hiểu sâu.


Nam mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.” [9,67]


Lặp lại liên tục 3 lần với thỉnh 3 chuông ở cuối mỗi bài dẫn. Sau đó vị
chủ sám sẽ tụng bài kinh phù hợp với buổi lễ, ví như kinh Phổ Mơn thì tụng
“Kinh Diệu Pháp Liên Hoa” phẩm “Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ Tát” , kinh
Dược Sư thì tụng bài kinh nói về cơng đức bản nguyện của Đức Dược Sư Lưu
Ly Quang Như Lai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

đến giải thoát và giác ngộ tức chứng được quả vô thượng bồ để và khuyên
mọi người con Phật hãy mau mau tu chứng vì kinh và chú Bát nhã rất là diệu
dụng cứu cánh, giúp người tu hành mau lên bờ giác.Có tụng Bát Nhã Tâm
Kinh mới mở lối cho ta sám hối những ác nghiệp trước kia, mới có đủ duyên
để hồi hướng về chư Thiện Thánh hiền, Già lam Hộ pháp, Long thiên và cho


mọi chúng sinh trong tất cả các cõi.


•Tiếp theo là niệm những kệ niệm phù hợp theo từng bài kinh, đối với
kinh Phổ Mơn thì là “Kệ niệm Bồ Tát Quán Âm” , kinh Dược Sư là “Kệ niệm
Phật”. Niệm Phật chính là con đường nhanh nhất để thốt khỏi vòng luân hồi
đau khổ của cõi Ta Bà, do đó, phương pháp tu tập này trở thành một trường
phái phổ biến nhất trong Phật giáo hiện đại.


•Sau cùng tất cả, chủ sám cùng toàn thể đại chúng sẽ tụng bài kệ hồi
hướng - có nghĩa là gom về, là một phương pháp đem công đức niệm Phật,
niệm kinh gom về một nơi. Gom về việc cầu sinh về Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Vì thế, người học Phật phải nên đem hết cơng đức hồi hướng vãng sinh
Tây Phương thì lúc lâm chung mới có hy vọng được sinh về Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Nhưng niệm bài kệ Hồi Hướng cũng giống như niệm Phật từng
câu phát xuất từ nội tâm, chẳng thể niệm xuông nơi cửa miệng được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

•Mỗi một người, một gia đình tín chủ khi đăng ký lễ cầu an đều được
chùa viết cho một tấm lá sớ cầu an với văn cầu an , cầu tiêu tai ương, nghiệp
chướng, giảm hết phiền não, tăng tuổi thọ ,… ngoài ra nếu chùa tụng kinh
Dược Sư thì lá sớ cầu an sẽ được thay bằng văn cầu an đảo bệnh với mong
cầu bách bệnh tiêu tán, tự tại an tâm,…


•Sau cùng, kết thúc một khóa lễ được trọn vẹn, các thầy trưởng hoặc vị
chủ lễ sẽ đọc bài tuyên biểu như một lần nữa nhấn mạnh lời thỉnh cầu của
chúng sinh đến với Đức Phật, cầu mong cho được sở nguyện ý cầu, khấn xin
Đức Phật cứu độ chúng sinh.


Khi tham lễ cầu an mọi người sẽ được sống với những phút giây chính
niệm, quán tưởng làm theo những lời răn dạy của Phật,trong giây phút ấy bản
thân mỗi người từ suy nghĩ đến hành động đều một mực giữ gìn, khơng tạo


những điều xấu, ác để một năm mới được bình an. Biết sống theo lời Đức
Phật dạy chính là đang gieo cái nhân bình an cho cuộc đời chúng ta. Đã gieo
trồng bình an như thế thì cây phước đức của ta sẽ ngày một lớn mạnh hơn.


c. Những điều cần lưu ý khi hành lễ


Trong khi thực hiện nghi lễ có những điều căn bản cần lưu ý đó là cung
cách hành lễ và âm điệu của buổi lễ. Phật giáo luôn có chủ trương tĩnh lặng,
tư duy và chuyển hóa lắng dừng các tư tưởng loạn động, để tập trung vào một
cảnh giới, một đối tượng để chuyển hóa ác nghiệp thành thiện nghiệp, để đạt
tới giác ngộ và giải thoát.


*Âm điệu của buổi lễ cầu an


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

chuông có năng lực làm cho người sống được an yên, người khuất được siêu
thoát. Tiếng chng cảnh tình ln thong thả đều đặn, trầm ấm, nếu tiếng
chuông dồn dập làm tâm loạn thì nhất định đấy không phải tiếng chuông
chùa. Ngồi ra, khi tiếng kinh được hịa theo tiếng mõ, sâu sắc, trầm lắng , đại
chúng sẽ lắng dừng được các si mê vọng tưởng, mở rộng đơi mắt tuệ nhìn
thẳng vào nội tâm của mình để chuyển ác nghiệp thành chất thiện nghiệp, để
biến khổ đau thành an lạc, biến thế gian này thành Niết bàn.


Ngoài những âm điệu của pháp khí, Phật giáo còn rất coi trọng thanh
giọng của đạo tràng. Thanh giọng chính của việc tụng kinh là thanh giọng
trầm. Trong cách hành trì, truyền thống Tịnh độ tong, Mật tông và Thiền tông
đều đã triển khai các phong cách tán tụng và hình thành lên một nền lễ nhạc
Phật giáo phong phú. Căn bản của các điệu tán tụng vẫn là lấy thanh âm trầm
ấm làm âm thanh căn bản và nhịp điệu đều đặn theo nhịp của tim và của hơi
thở trong mục đích an tâm. Thỉnh thoảng cũng có khi vị chủ sám xướng giọng
cao nhưng việc đó chỉ là để gia tăng sự hùng lực của buổi lễ. Khi lên cao


cũng không đến mức là động tâm hay loạn tưởng. Tựu chung lại có một làn
điệu căn bản trong các cách tán của Phật giáo Việt Nam đó chính là làn hơi
trầm ấm nhịp nhàng với âm điệu giải thoát, khiến người nghe tỉnh ngộ, phát
tâm hướng thiện.


<i>* Cung cách hành lễ </i>


Để lời nguyện cầu của chúng ta có thể truyền tải được đến Đức Phật thì
cần phải chú ý rất nhiều trong cung cách hành lễ, cần bày tỏ sự thành tâm, sự
tán thán, sám hối, cầu độ,.. qua nghi lễ truyền thống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Vị chủ sám đội nón Hiệp chưởng hoặc nón Tỳ Lư, tay cầm tích trượng tuỳ
theo buổi lễ.


Cư sĩ mặc áo tràng màu lam hay màu nâu tuỳ theo địa phương, một
phong cách nhu nhã, thanh thảng. Chúng ta nên duy trì trong các buổi lễ, tối
thiểu vị chủ sám và duy na, duyệt chúng (chuông mõ) nên mặc áo tràng.


Ngay khi bắt đầu và xuyên suốt nghi lễ, đại chúng đằng sau chủ lễ với
tâm thế trang nghiêm, thanh tịnh thực hiện nghi lễ theo sự hướng dẫn của chủ
lễ. Chủ lễ đứng phía bên chuông, quay mặt về mõ. Chủ sám luôn trang
nghiêm, thanh tịnh, bình tĩnh giữ chính niệm quán trưởng thích hợp qua từng
đoạn kinh, kệ, chú,… Tránh thái độ vội vàng, khó chịu, bất bình, nhất là hành
động bất kính và ngơn ngữ thơ, lớn tiếng, ngoài cuộc lễ. Khi kết thúc, chủ lễ
vái tả hữu để tỏ lòng biết ơn: Long Thiên, Hộ pháp, Thiện thần, quý vị đạo
tràng đã bảo vệ, hộ đàn, giúp đỡ cho buổi lễ thành tựu viên mãn.


<i><b>1.2.2.</b></i> <i><b>Đặc điểm nghi lễ cầu an của Phật giáo Đại Thừa theo </b></i>
<i><b>kinh điển </b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

như vậy người đó làm gì có hạnh phúc. Cầu an là tại vì tâm của chúng ta bất
an, mà tâm bất an là khổ. Nhưng tại sao ta lại khổ? Đó là tại chúng ta không
hiểu và không sống đúng với lời Phật dạy. Phật dạy gì? Phật dạy ở đời cái gì
cũng có nguyên nhân gây ra nó. Khổ cũng có nguyên nhân gây ra khổ. Chúng
ta không có tri kiến chân chính để nhìn cuộc đời này vốn vơ thường, khổ, vơ
ngã, nên chúng ta khổ. Vì không hiểu nên chúng ta sống không đúng với luật
tương quan nhân quả, luôn tạo nhân bất thiện đến khi quả bất thiện trổ thì
chúng ta than khổ.


Hiện nay, rất nhiều người đang có sự lầm lẫn nghi lễ cầu an với nghi
thức dâng sao giải hạn, đây là một sự lầm lẫn hết sức là nghiêm trọng bởi lẽ
hai nghi lễ này hoàn toàn khác nhau và tách biệt. “Giải hạn” là một khái niệm
không hề có trong phật giáo đại thừa cũng như tiểu thừa từ xưa đến nay. “Giải
hạn” là một nghi lễ, nghi thức của đạo giáo. Còn về lễ cúng sao giải hạn:
Hằng năm, cứ vào dịp đầu năm Âm Lịch, nhất là tuần lễ thứ hai trong tháng
Giêng mà cao điểm là ngày Rằm, người Phật tử Việt Nam và Trung Hoa
thường có lệ đi chùa dâng sớ cầu an cúng sao giải hạn. Lễ Rằm Tháng Giêng,
còn gọi là lễ Thượng Nguyên là lễ hội dân gian ở Việt Nam, được du nhập từ
nước láng giềng Trung Hoa phương Bắc. Gọi thượng nguyên là cách phân
chia theo Âm lịch: thượng nguyên (Rằm tháng Giêng), trung nguyên (Rằm
tháng Bảy) và hạ nguyên (Rằm tháng Mười) của hệ thống lịch tính theo mặt
trăng.


Theo Đường Thư Lịch Chí, quyển 18 thì có chín ngôi sao phát sáng trên
trời. Có sách nói là bảy sao, rồi về sau có sách thêm vào hai sao La Hầu và Kế
Đơ. Chín vì sao đó là Nhật Diệu, Nguyệt Diệu, Hỏa Diệu, Thủy Diệu, Mộc
Diệu, Kim Diệu, Thổ Diệu, La Hầu và Kế Đô. Có sách thêm sao Thái Bạch
nữa thành mười sao1<sub>[39]. Chín vì sao này hay cịn gọi là Cửu Diệu là các sao </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

này cho rằng hàng năm mỗi tuổi âm lịch chịu ảnh hưởng của một vì sao gọi là


sao chiếu mạng.Tử vi dựa theo những chịm sao này mà cho phép ḷn đốn
cuộc đời con người căn cứ vào sự giao cắt của các chòm sao trong lá số Tử vi.
Theo vòng quay của sao Thái Tuế mà mỗi người sinh ra sẽ có một vì sao
chiếu mệnh tùy theo năm, mỗi năm sẽ căn cứ vào vị trí cát hung của các sao
mà luật ra số phận của người đó vào năm đó, tử vi có thể xấu hoặc có thể tốt.
Những ngôi sao xấu như Kế Đô hay La Hầu - sao xấu, là loại ám hư tinh vì
hai sao này chẳng thấy được mặt trời, những ngôi sao này thường mang lại
những điều hung, tai họa rất lớn nên người ta làm lễ cầu cúng để đề phòng bất
trắc, mong tai qua nạn khỏi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

dưới đất hiện lên, mà đều do các hành động qua thân, khẩu và ý của con
người tạo ra. Mọi sự thành công hay thất bại trong đời của mỗi người không
phải do ai ban phát cho, mà do những cái nhân chúng ta tạo nên từ trước, khi
nhân duyên đầy đủ thì quả thành. Những nhân duyên xấu do chúng ta tạo sẽ
trổ quả xấu, những nhân duyên tốt sẽ trổ quả tốt. Như vậy,bên cạnh những
nghi thức thuần túy Phật giáo, mục tiêu cuối cùng cũng vẫn là dùng phương
tiện để hóa độ chúng sinh, từ từ chuyển tâm họ quay về bờ Giác.


Còn nghi lễ cầu an lại đề cao sự giản dị, không được quá cầu kỳ, tuy
nhiên thực hành nghi thức cầu an phải đúng pháp, tụng kinh, niệm Phật ở nơi
có cảnh trí yên tĩnh, càng làm cho nội dung của các nghi thức trên thêm phần
trang nghiêm và thể hiện lòng thành tín như nhà chùa hoặc tại gia nhưng phải
là nơi trang nghiêm nhất trong gia đình. Điều quan trọng là người tham gia
phải thành tâm sám hối, bỏ ác, làm lành.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30></div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<b>TIỂU KẾT CHƯƠNG I </b>


Có thể nói cầu an chính là cầu nguyện cho người thân, cho chúng sinh và
cho bản thân mình được yên lành, an vui, không bệnh tật hoạn nạn, khổ não.
Để có được những điều đó, theo đức Phật là mỗi người phải tự trau dồi đời


sống đạo đức và trí tuệ, phát huy các hạnh lợi tha, giúp đỡ mọi người, sống an
yên, chính niệm và tỉnh thức trong từng phút giây của hiện tại tuy nhiên cũng
phải sống không buông lung, sa đọa, bỏ rơi hiện tại, luôn làm những điều
thiện để con người không rơi vào con đường tội lỗi bởi, khi ấy thì dù có cầu
nguyện bao nhiêu cũng khơng thể an ổn được.


Như chúng ta đã biết, nghiệp lực có sức chiêu cảm rất mạnh mẽ, lôi ké,
dẫn dắt chúng sinh vào thế giới an lạc hay khổ đau. Nghiệp lực của thời quá
khứ định hình cho cuộc sống hiện tại của mỗi con người. Chính sức mạnh của
nghiệp ác trong quá khứ đã đem đến tai nạn cho bản thân hay gia đình trong
hiện tại. Thế nhưng, các việc làm hiện nay như Phật sự, lễ cầu an đều là
nghiệp thiện, lành có sức mạnh tiêu tội lỗi, giảm tai ương. Đối với những
hồn cảnh đặc biệt như gia đình có người ốm đau, bệnh nặng… thì việc tiến
hành lễ cầu an, và những việc làm thiện khác để mong được phúc, tránh
họa,… là điều càng cần thiết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<b>CHƯƠNG 2: NGHI LỄ CẦU AN Ở MỘT SỐ NGÔI CHÙA TRÊN </b>
<b>ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY </b>


<b>2.1.</b> <b>Sơ lược địa bàn nghiên cứu </b>


Thơng cáo báo chí của Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứVII
(tháng 11 năm 2012) đã viết: Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện có khoảng
46.495 tăng ni và hàng chục triệu tín đồ Phật tử thuần thành tu học thường
xuyên tại các cơ sở tự viện trong cả nước. Những con số trên còn chưa kể đến
số người có tình cảm yêu mến, gắn bó với đạo Phật do truyền thống, tín
ngưỡng thờ tổ tiên của gia đình. Cũng theo như thơng cáo trên, tổng số cơ sở
tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường của cả nước tính tới năm 2012 là
14.778 cơ sở. Hội Phật tửViệt Nam không chỉ bao gồm những người theo
đạo Phật ở trong nước mà còn có cả những người ở nước ngoài như ở Úc,


Pháp, Lào, Séc, Ba Lan, Đức, Hungary, Nga, Ucraina, v.v...


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

công sức và ngày một thu hút nhiều những người quan tâm và đến với đạo
Phật.


Hà Nội có đến hơn 100 chùa lớn, nhỏ, nằm xen kẽ trong các phố phường
tấp nập như Trấn Quốc, Kim Liên, Một Cột,Quán Sứ, Liên Phái... Chùa nào
cũng mang trên mình những nét riêng, phần thiêng của mình, tuy nhiên bài
nghiên cứu này chúng tôi chọn ra ba địa điểm nghiên cứu : chùa Phúc Khánh,
chùa Quán Sứ và chùa Bằng. Bởi đây là những địa điểm chúng tôi thấy rằng
có số lượng và chất lượng việc tổ chức các nghi lễ tương đối cao để phục vụ
nhu cầu tâm linh cho quần chúng nhân dân, hơn hết vẫn giữ được các nghi
quỹ chung trong thực hiện các nghi lễ Phật giáo Đại Thừa.


<i><b>2.1.1.</b></i> <i><b>Chùa Phúc Khánh </b></i>


Chùa Phúc Khánh hay còn được gọi là chùa Sở, chùa Thịnh Quang, tọa
lạc tại số 382 phố Tây Sơn, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, Hà Nội.
Chùa Phúc Khánh là một trong những ngôi chùa lâu đời ở Hà Nội, được xây
dựng vào thời Hậu Lê là cơ sở đào tạo tăng tài cho Phật giáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Chùa có lịch sử lâu đời với nhiều cơng trình kiến trúc cổ kính mà vẫn giữ
được nét truyền thống, bình dị tạo cho mọi người đến chùa có cảm giác thân
thương và rất gần gũi. Chùa có cơng trình kiến trúc thờ Phật kiểu truyền
thống: Tam quan mở 3 cửa vòm giữa là cửa lớn, hai bên nhỏ hơn, trụ đắp hình
con sấu quay đầu vào nhau. Sau là một sân nhỏ dẫn đến tiền đường, tiền
đường và hậu cung thuộc phật điện. Tiền đường có 5 gian, chính giữa bờ nóc
có đắp nổi hình cuốn thư 3 chữ Hán “Hoành Kim Điện” có nghĩa “Điện rồng
vàng”. Tất cả vì kèo và kẻ đều được chạm trổ công phu đề tài là cúc điệp,
tùng hạc, liên áp... Hậu cung gồm 3 gian làm khá đơn giản, điện Mẫu, nhà Tổ


cũng mang một kết cấu vì kèo quá gian. Nhà khách và nhà trai đều làm kiểu
đầu hồi bít ốc. Bài trí thờ tự trong chùa được bố trí theo hướng từ ngồi vào
trong, ở tiền đường có 2 bệ thờ tượng Khuyến Thiện, Trừng Ác, 2 bệ thờ Đức
ông và Giám trai. Hậu cung đặt tượng Cửu Long, hai bên là tượng Phạm
Thiên và Đế Thích, lớp tượng Quan Âm, tượng Phật Niêm Hoa, A Di Đà Tam
tôn (A Di Đà, Quan Âm, Đại Thế Chí), Tam thế. Nhà Tổ thờ các vị sư từng
trụ trì tại chùa đã viên tịch. Di vật của chùa phong phú với 20 pho tượng được
tạc vào thế kỷ XVIII mang đậm phong cách nghệ thuật Tây Sơn, bia đá 21
tấm, sớm nhất là bia Chính Hịa 19 năm 1698. Chng đồng 3 quả, 1 quả thời
Cảnh Thịnh 4 năm 1796; cửa võng 14 bộ và một số đồ thờ khác như bát
hương đồng, lư hương đá, nhang án... Chùa đã được công nhận là Di tích lịch
sử - văn hóa Quốc gia năm 1988.


Không chỉ với kiết trúc đồ sộ, bề dày lịch sử mà chùa còn chiếm được
một phần khơng nhỏ trong lịng rất nhiều người dân bởi nhiều nguyên nhân
khác khiến chùa được nhiều người lựa chọn là nơi lễ Phật cầu an, giải hạn,
Tam Quy, Bán Khốn,…


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

lịng nhất tâm hướng về Phật, nên mỗi khi có đại lễ, khóa lễ diễn ra dù lượng
khách thập phương lên tới hàng nghìn người hay diện tích chùa có hẹp nhưng
vẫn ln được diễn ra rất hồn chỉnh, nghiêm trang theo đúng nghi quy của
nhà Phật.


<i><b>2.1.2.</b></i> <i><b>Chùa Quán Sứ </b></i>


Một trong những ngôi chùa linh thiêng, nổi tiếng bậc nhất ở Hà Nội
không thể không kể đến đó chính là chùa Quán Sứ. Là trụ sở của Trung ương
hội Phật giáo Việt Nam, chùa Quán Sứ là một phần không thể thiếu của hồn
thiêng Hà Nội, ngôi chùa tọa lạc tại số 73, phố Quán Sứ, quận Hoàn Kiếm –
Hà Nội.



Chùa được xây dựng vào thế kỷ 15. Vào thời vua Lê Thế Tông, nguyên
xưa ở phường Cổ Vũ chưa có chùa nên nhà vua cho dựng một tòa nhà gọi là
Quán Sứ để tiếp đón các sứ thần đến Thăng Long. Được biết sứ thần các nước
này đều sùng đạo Phật nên lại dựng thêm một ngôi chùa cũng nằm trong
khuôn viên Quán Sứ để họ có điều kiện hành lễ hay còn có thể nói chùa Quán
Sứ thuở ban đầu chính là một khu nhà cho các sứ thần các nước trú chân trước
khi vào chầu vua nước Việt. Sứ giả các nước Chiêm Thành, Ai Lao, Chà
Và… Vì lẽ này nên ngay từ đầu địa điểm này đã có sự kết hợp của dinh sở và
chùa chiền. Chùa Sứ Quán có thể coi như những sứ quán cổ nhất trong nền
ngoại giao của nước Việt với lân bang.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

Vĩnh Nghiêm duyệt. Chính nơi đây vào ngày 13/5/1951, lần đầu tiên lá cờ
Phật giáo thế giới do Thượng tọa Tố Liên mang về từ Colombo đã xuất hiện
trên bầu trời Hà Nội. [27]


Là trụ sở của một giáo hội lớn, chùa Quán Sứ có những điểm riêng biệt.
Ngôi chùa được xây hai tầng theo kiểu hiện đại đầu tiên trong cả nước. Chùa
là một quần thể kiến trúc rất độc đáo với những sự kết hợp hài hòa giữa
những phần kiến trúc nhỏ lẻ.Tam quan có ba tầng mái, nằm giữa là lầu
chuông. Qua tam quan là đến một sân rộng lát gạch, lên 11 bậc là tới chính
điện cao, hình vng, xung quanh có hành lang. Điện Phật gồm các pho tượng
đều khá lớn và thếp vàng lộng lẫy được bày trí trang nghiêm. Ở phía trong
cùng, ba vị Tam thế Phật được thờ trên bậc cao nhất. Gian bên phải chính
điện thờ Lý Quốc Sư - Thiền sư Minh Không với hai thị giả, gian bên trái thờ
tượng Đức Ơng và tượng Châu Sương, Quan Bình. Phía Đại Hùng Bảo Điện
là nhà thờ Tổ, nơi thờ Lịch Đại Tổ Sư của Phật giáo Việt Nam. Vào sâu bên
trong sân chùa chính là các dãy nhà dùng làm thư viện, giảng đường, nhà
khách và tăng phịng. Là một trong những ngơi chùa trung tâm của Phật giáo,
ý thức giữ gìn chính pháp rất cao, trong chùa khơng có ban thờ “mẫu tam tứ


phủ” vì đó là tín ngưỡng bản địa phát sinh không thuộc Phật giáo, điều khá
hiếm gặp trong hệ thống chùa ở Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

hội Phật giáo Việt Nam cùng các vị thượng tọa, đại đức, tăng ni của văn
phòng Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đều làm việc ở chùa Quán
Sứ và các hội nghị Phật giáo ở cấp quốc tế và quốc gia cũng thường được tổ
chức tại đây.


Có thể thấy chùa Quán Sứ đã đang và vẫn làm tốt vị trí là trung tâm Phật
giáo với những hoạt động văn hóa diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau,
các hoạt động thường nhật như: ngày sóc, vọng hoặc các dịp đại lễ như: Lễ
Vu Lan, Lễ Phật Đản. Trong các ngày đại lễ, những hoạt động sinh hoạt văn
hóa của các tín đồ, Tăng, Ni, Phật tử diễn ra sơi nổi vừa mang nét văn hóa
Phật giáo vừa mang hơi thở của thời đại mới nhưng vẫn đảm bảo những
nguyên tắc pháp quy của tơn giáo. Ngồi ra, các hoạt động học tập, nghiên
cứu tại Thư viện, Nhà giảng cũng thu hút các đối tượng khác nhau vừa đến
tìm hiểu văn hóa Phật giáo, được cầu Phật, lễ phật, Thánh; cầu xin cho bản
thân, gia đình, đất nước an khang thịnh vượng. Những hoạt động này có một
vai trò quan trong trong việc phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hóa Phật
giáo, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa tốt đẹp của người Việt.


Không những vậy, để những đại lễ được diễn ra thành công tốt đẹp, các
khóa lễ được diễn ra quy củ, những buổi sinh hoạt văn hóa, sinh hoạt đạo
tràng, các tổ kinh,…được diễn ra một cách chỉnh chu nhất thì chùa Qn Sứ
ln có những phịng ban chuẩn bị kỹ càng, bắt đầu từ ban tiếp lễ, đón tiếp,
ban truyền thông hay ban tri khách,…mỗi ban một việc, điều hành hoàn thiện
đại lễ, khóa lễ một cách nghệ thuật vô cùng độc đáo và hấp dẫn, tràn đầy sắc
thái linh thiêng hay buổi sinh hoạt với nhiều hoạt động sôi nổi và thiết thực,...


<i><b>2.1.3.</b></i> <i><b>Chùa Bằng </b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

dựng từ thuở ban đầu do thất lạc tài liệu sử sách nên chưa xác định được
chính xác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

nhân lễ kỉ niệm 350 năm ngày đại trùng tu chùa Linh Tiên lần đầu tiên
(1654-2004). Với chiều cao kỷ lục Từ mặt nền, lên đỉnh tháp cao 54,66m.Tháp gồm
13 tầng theo phẩm Phú chúc, kinh Niết bàn. 8 cột trụ ngoài của tháp đều được
làm bằng đá, chạm theo hình long phượng, tượng trưng cho khí âm dương hịa
hợp,đạt kỷ lục Tháp Phật giáo cao nhất Việt Nam năm 2007. Năm 2010, tháp
xác lập kỉ lục Việt Nam lần 2 với tiêu chí Tháp có nhiều tượng Phật bằng
đồng nhất Việt Nam với 104 tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng
ngồi trên bệ đá. [26] Bên cạnh quy mô tháp Báo Ân là 18 pho tượng La Hán
thẳng hàng được kiến trúc theo dáng mẫu của các vị La Hán chùa Tây Phương
(Hà Nội). Tiếp đó là Quan Âm viên, được tơn trí bởi 45 pho tượng được làm
bằng đá trắng cùng kích cỡ, thể hiện tinh hoa văn hóa của nghệ thuật tạc
tượng Việt Nam.


Với niên đại hơn 400 năm, chùa không chỉ là nơi để tăng ni, phật tử thăm
quan, lễ bái mà còn tổ chức các khóa tu ngắn hạn cho nhân dân, thanh thiếu
niên, sinh viên. Chùa còn là trụ sở tổ chức một số hoạt động của Hội Phật
giáo TP Hà Nội, Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Bên cạnh đó, Chùa Bằng cũng
tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội như Tiếp sức mùa thi,...


<b>2.2.</b> <b>Thực trạng nghi lễ cầu an trên địa bàn Hà Nội hiện nay </b>


<i><b>2.2.1.</b></i> <i><b>Tình hình thực hành nghi lễ cầu an ở chùa Phúc Khánh </b></i>


Vốn là một ngôi chùa nổi tiếng ở Hà Nội chính vì vậy lễ cầu an chính thức
đầu năm tại chùa Phúc Khánh ln thu hút hàng nghìn người về đây dự lễ.



Lễ cầu an đầu năm tại chùa Phúc Khánh thường được diễn ra vào 19 giờ
ngày 14 tháng riêng âm lịch. Chùa cho phát tâm đăng ký cầu an vào 15 tháng
chạp năm trước. Khóa lễ được diễn ra một cách trang nghiêm trong khoảng 45
phút đến 60 phút trong sự quán trưởng của tất cả đại chúng tham dự.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

thêm cho chủ lễ. Trong suốt buổi lễ, ngoài những vị chủ lễ, tăng sư thực hiện
trì, chú, tụng, niệm cịn có những bà vãi hay còn được gọi là tổ kinh của chùa
được ngồi sát chủ lễ và cùng tụng kinh theo các sư thầy, bên ngoài những
người tham dự cũng được phát một quyển sách in các bài cúng để cùng tụng
niệm theo thầy do những phật tử trong chùa phát tâm thực hiện, mỗi năm sẽ
được phát 200 – 300 cuốn, tuy nhiên do số lượng người tham dự đông nên số
lượng sách chỉ có thể đáp ứng cho một phần người tham dự. Ngoài ra, các vị
chủ lễ còn sử dụng thêm loa, mic để khi tụng kinh, niệm đại chung có thể
nghe được dù không được ngồi thầy, để mọi người có thể tung niệm theo
thầy. Tuy nhiên, số lượng người quá đông, dù có loa thì đơi khi khơng phải ai
cũng có thể nghe hết được những điều thầy tụng, chú. Những người ngồi
ngồi đường, dưới lịng đường cũng khó có thể nghe hết, không những vậy số
lượng người tham dự q đơng khiến khơng khí buổi lễ có đơi phần bị lỗng,
rất khó để nghe được điều gì. Ngồi ra, khơng phải ai về chùa dự lễ cũng có
thể hiểu hết được khóa lễ sẽ làm những gì, tụng kinh gì hay tụng như thế nào,
dù đã có phát sách kinh để đại chúng có thể tụng theo và hiểu đôi phần nghi
quy nhưng số lượng sách là có hạn so với số lượng khách thập phương về dự
nên trong khi buổi lễ diễn ra, đại chúng thường chỉ nhất tâm tụng niệm tên,
tuổi, địa chỉ gia đình mình cùng với ước nguyện cầu an, cầu sức khỏe,…
thành tâm hướng Phật, một lòng mong được sở nguyện ý cầu.


Thành phần được tham dự có thể là bất kỳ một ai, chỉ cần họ có lòng
hướng về Phật, tin tưởng vào Phật, pháp và tăng đều có thể đến chùa đăng ký
cầu an cho bản thân và người thân. Buổi lễ được thực hiện tại gian Tam Bảo
của chùa trong sự hoan hỉ, thành tâm chiêm bái, khấn Phật của mọi người.



</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

thì thầy chủ lễ sẽ để trống và mọi người sẽ tự nhất tâm nguyện tên, tuổi, địa
chỉ,.. gia đình mình với ý nguyện “Nguyện giải hết thảy tai ương nạn, ách
chướng, tật tiêu trừ, phúc thọ tăng duyên, bình yên gia cảnh, khỏe mạnh vui
tươi, hết thảy mọi người, thân tâm an lạc.”[20,90]


Nhà chùa thường cho phát tâm đăng ký lễ cầu an vào 15 tháng chạp hàng
năm, để phục vụ số lượng tín đồ đơng đảo, chùa đã sắp xếp nhiều bàn tiếp lễ,
bàn đăng ký. Sau đăng ký làm lễ, nhà chùa sẽ chuẩn bị hương, hoa, trà quả
cùng với lá sớ cho từng người, từng gia đình, người đăng ký chỉ cần gửi lại
tiền đồ lễ, lá sớ mà chùa đã chuẩn bị để làm lễ cho mình là 150.000 nghìn
đồng/ lượt mà khơng phải chuẩn bị thêm gì, ngồi ra bất kỳ ai cũng có thể
phát tâm cúng dường Tam Bảo tùy tâm, tùy theo điều kiện của mình. Khơng
những vậy, theo như Đại đức Thích Minh Đức trả lời trên báo điện tử 2<sub>thì bất </sub>


kỳ ai có nhu cầu nhưng điều kiện khơng cho phép thì có thể thỉnh cầu với nhà
chùa, nhà chùa sẽ giúp đỡ mà không lấy một đồng nào. [28]


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

phía bên chùa. Khách thập phương đến tham dự thì có thể gửi xe tại điểm
trông giữ phương tiện của phường Ngã Tư Sở hoặc một số điểm trông xe tự
phát gần chùa với chi phí từ 10.000 VNĐ đến 20.000 VNĐ, tuy nhiên những
người đến sau không có chỗ gửi xe đành đỗ xe ngay tại chỗ, đứng vái vọng
vào chùa để tham dự khóa lễ thậm chí có người đỗ trên cầu vượt vái vọng vào
chùa.


Không chỉ có người dân có mặt từ sớm mà hàng trăm cán bộ chiến sĩ
công an cũng đã có mặt từ sớm để đảm bảo an ninh trật tự và An toàn giao
thông cho người dự lễ cầu an tại chùa Phúc Khánh. Công an quận Đống Đa đã
huy động 13 đội nghiệp vụ, công an 16 phường với hơn 300 chiến sĩ, 100 bảo
vệ dân phố được bố trí làm 3 vịng khép kín chốt chặn tại các điểm, lực lượng


chức năng được huy động từ ngoài cổng vào tận trong chùa để đảm bảo an
ninh trật tự. Để đảm bảo an tồn giao thơng, giúp các phương tiện đi lại tḥn
lợi, lực lượng cảnh sát cơ động, cảnh sát giao thông đã được phân bố chốt
chặn tại các tuyến đường, ngã tư như Tây Sơn – Chùa Bộc, Tây Sơn – Láng -
Ngã Tư Sở, cảnh sát lập hàng rào barie ngăn và đứng thành hàng bên ngoài
hướng dẫn phân luồng, đảm bảo an ninh trật tự cho người dân dự lễ. Càng sát
giờ lễ, người dân đổ về chùa ngày càng đông, cảnh sát phải liên tục kéo lùi
hàng barie cho khách tham dự, nhiều người lưu thông qua khu vực đỗ xe lại
xem và chụp ảnh khiến giao thông bắt đầu ùn ứ. Dù khóa lễ kết thúc đã hơn
một tiếng nhưng đến 21 giờ các phương tiện lưu thông qua đoạn đường này
vẫn gặp phải nhiều khó khăn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

trong sân chùa đến ngoài cổng chùa như báo chải đất, vỏ chai nước, vỏ
bánh,…


Sau cùng mỗi buổi lễ, sớ cầu an mỗi gia đình sẽ được nhà chùa giúp hóa
tại chùa, mỗi người sẽ được nhà chùa phát một chút lộc sau khi buổi lễ kết
thúc. Nói là phát nhưng thực tâm là nhà chùa đã chuẩn bị sẵn những rổ, sọt,
thùng lộc to để xếp thành một hàng ở cạnh cổng chùa, sau khi kết thúc buổi lễ
mỗi người sẽ xin một chút lộc chùa mang về, lộc chùa có thể là oản,
chuối,…với đội ngũ con nhang đệ tử đông đảo, mỗi thùng lộc sẽ có một
người đứng phát lộc, điều này để chắc chắn một điều là ai cũng sẽ có lộc chùa
mang về sau khóa lễ. Xin lộc để tạo niềm tin trong cách sinh hoạt và đó là
biểu tượng của sự may mắn, tốt đẹp. Tuy nhiên, do số lượng người tham dự
khá là đơng nên sau khi kết thúc khóa lễ, tình trạng chen lấn xô đẩy xin lộc
chùa vẫn thường xuyên xảy ra.


Có thể thấy mọi người tin rằng cầu an chính là thiết lễ, tụng kinh, cầu
nguyện cho người sống thoát khỏi bệnh tật, tai qua nạn khỏi, cho gia đình
được hạnh phúc, mong cho con cái được nên người, lên lương,… (Phụ lục 1)


Sau buổi lễ, ai cũng cảm thấy bình tâm, mọi chuyện trong cuộc sống sẽ thoải
mái hơn, bình an tai qua nạn khỏi. (Phụ lục 1)


<i><b>2.2.2.</b></i> <i><b>Thực trạng thực hành nghi lễ cầu an tại chùa Quán Sứ </b></i>


Chùa Quán Sứ từ xưa đến nay ln chiếm được lịng rất đơng tín đồ đại
chúng, đây cũng chính là nơi mà nhiều du khách thập phương chọn làm điểm
đến trong đầu năm mới, đầu năm ở chùa nổi bật với lễ “Kỳ Yên”, “Kỳ
An”,…mong cầu sự bình an, may mắn, sức khỏe, cầu phúc, lộc, thọ,…


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

tâm đăng ký mà lịch làm lễ cầu an đầu năm sẽ được diễn ra trong các ngày từ
mùng 4 tháng riêng đến hết tháng riêng, có thể là mùng 9 hoặc ngày
14,….ngoài ra để đáp ứng nhu cầu của tín đồ, nhà chùa còn tổ chức các buổi
lễ cầu an vào ngày 30 âm lịch hàng tháng, và đơi khi cịn có tổ chức những
buổi lễ cầu an cho gia chủ nào có nhu cầu. Tuy nhiên, khóa lễ cầu an đầu năm
vẫn có số lượng người đăng ký đông nhất và đối với các buổi lễ cầu an theo
nhu cầu gia chủ nằm ngoài lịch cầu an trên chùa thì sẽ được sắp xếp tùy theo
lịch của các thầy chủ lễ. Khóa lễ được diễn ra trong khoảng 1 tiếng đến 1
tiếng rưỡi xuyên suốt là sự trang nghiêm và linh thiêng nơi cửa chùa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Sau khi ghi tên, tuổi, địa chỉ bản thân, người thân vào danh sách đăng ký
cầu an, ban tiếp lễ sẽ ghi thơng, cùng sự mong của gia đình vào sớ, sẽ báo lịch
lễ cầu an ln để mình có thể sắp xếp tham dự. Trong nghi lễ cầu an, đại
chúng không cần chuẩn bị bất kỳ hương, hoa, lễ, quả,… gì, tất cả đều được
các thầy chủ lễ cùng các tổ kinh chuẩn bị. Tổ kinh hay còn gọi là các bà vãi
thường phụ giúp các thầy, tham dự cùng buổi lễ bởi họ coi đó là việc làm
công quả phụ giúp các thầy và đại chúng. Trong buổi lễ, thường ngồi xung
quanh đại chúng, họ tự chuẩn bị sớ, kinh để đọc và mặc quần áo lam, tụng
niệm theo thầy.



Các thầy có chuẩn bị mic và loa để đại chúng có thể nghe rõ hơn chính vì
vậy việc tụng niệm cũng không gặp khó khăn trở ngại nhiều, nếu thuộc kinh
có thể tụng theo thầy cịn nếu khơng thì quỳ chắp tay, nhất tâm hướng về Tam
Bảo. Những cá nhân hay gia đình nào đã đăng ký làm lễ cầu an với chùa thì
thầy sẽ đọc sớ cầu an của từng gia đình, cịn ai chưa đăng ký hay khơng có sớ
thì có thể tự cầu nguyện thỉnh cầu tới Phật, xuất tâm thì Phật chứng, một lòng
thành tâm hướng xin cầu Phật.


Khi kết thúc khóa lễ, Phật tử ai ai cũng nhận được lộc chùa, có thể là
oản, xôi hay hoa quả tùy theo ban phát của các thầy, sớ cầu an của mỗi gia
đình cũng sẽ được nhà chùa hỗ trợ hóa giúp. Đặc biệt, chi phí mỗi khóa lễ cầu
an đều khơng có, tín đồ có nhu cầu thì nhà chùa thực hiện giải quyết những
vấn đề xuất phát từ những nhu cầu thực tế của con người bởi lẽ Phật giáo
không phải từ hư không hay từ trên trời rơi xuống mà nó được thai nghén từ
trong các vấn đề của cuộc sống và được sinh ra để giải quyết những vấn đề
đó. Ngồi ra, tín đồ nào phát tâm có thể cúng dường Tam Bảo tùy tâm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

và gia đình tai qua nạn khỏi, tăng khả năng tiêu tai, giảm tội, tăng phúc bình
an, thân tâm an lạc.


Tham gia lễ chùa như vậy, chính là được sống trong những phút giây
chính niệm, tịnh tâm. Phật ln dạy rằng, mọi phước đức ở đời đều được vun
trồng và chăm chút từ nhiều đời trước, khi biết nói lời ái ngữ, làm việc thiện
lành, giàu lòng nhân ái giúp mọi người thì cuộc sống sẽ được phúc, được an
lành ở những phút giây hiện tại.


Hàng trắm người từ thập phương đều quy tụ về đây mỗi dịp đầu xuân để
lễ tết cũng như cầu an với mong cầu một năm mới bình an, khơng lo lắng. Sauk
hi khóa lễ cầu an kết thúc, mỗi người thường cảm thấy tâm bình an hơn, yên
tâm về những kế hoạch trong năm mới với một tâm niệm khi đã cầu an trên


chùa như vậy những thành viên trong nhà đều được bình an, tai qua nạn khỏi.


<i><b>2.2.3.</b></i> <i><b>Thực hành nghi lễ cầu an ở chùa Bằng </b></i>


Mỗi năm tết đến, xuân về, chùa Bằng đều tổ chức tụng kinh Dược Sư cầu
cho quốc thái dân an bắt đầu vào 14 giờ hàng ngày từ mồng 1 đến mùng 7
tháng riêng. Chùa cho phát tâm đăng ký từ 15 tháng chạp năm trước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

chuẩn bị, sau khi khóa lễ kết thúc, tín đồ có thể tùy tâm hồi hướng cho nhà
chùa.


Thành phần tổ chức thường có chủ lễ là trụ trì Thích Bảo Nghiêm cùng
chư tơn đức Tăng làm nhiệm phụ vụ giúp các cơng việc trì, niệm cho chủ lễ,
bên cạnh cịn có những tình nguyện viện hay còn được gọi là bà vãi ngồi xung
quanh trong ban Tam Bảo cũng tham gia tụng niệm giúp các thầy. Thành
phần tham dự có thể là bất kỳ ai, già trẻ lớn bé, không kể sang nghèo hay đã
quy y hay chưa quy y, chỉ cần hoan hỉ có tâm hướng về Phật đều có thể đăng
ký tham dự.


Nghi thức đàn Dược Sư được bày biện trang nghiêm, cung thỉnh tôn
tượng của 7 Đức Phật Dược Sư tại 7 bàn thờ và bày biện hương, hoa, đèn, nến
trang nghiêm, treo phan, treo phướn mà lá phướn lớn nhất là 10 gang tay như
trong kinh Dược Sư đã dạy. Đồ lễ dâng lên Phật thường gồm : hương, hoa, trà
quả,.. đôi khi có thêm một mâm đồ chay tất cả đều được những tình nguyện
viên trong chùa chuẩn bị một cách kỹ lưỡng từ nhiều ngày trước để buổi lễ
được diễn ra suôn sẻ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

đều là đọc tụng bản kinh lưu truyền bằng chữ Hán. Bên cạnh trì tụng kinh
văn, phụng thờ 7 Phật Dược Sư thì cịn làm những việc như phóng sinh, tu
phúc hay làm những việc từ thiện, bố thí cho những người khốn khó bần


cùng, giúp đỡ những người gặp hoạn nạn, khó khăn rồi cho tới cúng dường
Tam Bảo, cúng dường cho việc trùng tu chùa cảnh, in ấn kinh sách và cúng
hiện tiền chư Tăng.


Mọi người đến chùa cầu an lễ Phật để khép lại một năm mới với tất bật
những muộn phiền, lo toan vất vả, cầu mong một năm mới bình an. ( Phụ Lục
1)


Sau khi khóa lễ kết thúc, nhà chùa sẽ hỗ trợ hóa giúp sớ cho các gia đình,
thầy chủ lễ hạ lễ và phát lộc mọi người tham dự. Đồ lễ cúng xong, thường
người ta khơng thường hưởng lộc một mình. Lộc chùa thường được chia làm
nhiều phần. Một phần được chính người dâng cúng đem về thụ lộc, một phần
để cho sư và những người coi sóc chùa, một phần thì để dành cho những
người lang thang cơ nhỡ, đói khát, nhưng trẻ không có nơi nương tựa...
Nhưng ở đây người chuẩn bị lễ là con nhang đệ tử của chùa, thì những người
khơng phải chuẩn bị kia có được nhận lộc không? Ai cũng được nhận lộc hết,
các thầy sư tại chùa thường phát hết lộc cho tất cả mọi người bởi lẽ Phật
thương dân như thương con, từ bi độ lượng, không so đo, nề hà, đầu năm
nhận một chút lộc chùa để một năm có sự may mắn đồng thời cũng nhắc nhở
bản thân tinh tiến tu tập, nuôi dưỡng và phát triển Phật tính, hạt giống bồ đề
trong con người, làm những việc thiện lành, ứng dụng lời Phật dạy để chuyển
hóa thân tâm,đặc biệt phải có niềm tin sâu vào nhân quả. Chỉ có như vậy, bản
thân mới được an từ tận bên trong.


<b>NHẬN XÉT </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

Khánh, chùa Quán Sứ và chùa Bằng, tôi rút ra một số nhận xét. Thứ nhất là
trong việc thực hiện nghi lễ thực tế tại các chùa vẫn giữ được những nghi quy
chung trong cách thực hiện tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm nổi bật khác biệt so
với kinh điển.



*Giống nhau


Có thể dễ dàng nhận thấy trong thực tế thực hành nghi lễ cầu an tại các
chùa thì tất cả nghi thức và quy định của một khóa lễ vẫn luôn được các thầy
chủ lễ truyền thừa từ nhiều đời, cốt là để hiểu rõ các điều căn bản các nghi
quy, những điều răn dạy của Phật gửi gắm qua các khóa lễ. Với những điều
căn bản này, các thầy chủ lễ vẫn giữ nguyên như thuở ban đầu khơng pha trộn
gì thêm, tuy nhiên mỗi nơi mỗi khác, tùy “mỗi thầy mỗi phép” mà thực hiện
khóa lễ một cách đơn giản hay cầu kỳ hơn sao cho phù hợp hoàn cảnh,
nguyện vọng đại chúng.


*Khác nhau


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50></div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

<b>TIỂU KẾT CHƯƠNG II </b>


Có thể thấy nhu cầu tín ngưỡng, học tập pháp điều Phật giáo của các tín
đồ Phật tử và quần chúng nhân dân ngày một tăng lên, đặc biệt là của giới trẻ
trong những năm qua đã và đang không ngừng gia tăng, nhưng đội ngũ sư có
kinh nghiệm và nhiệt huyết có thể giảng dạy, chỉ rõ bản chất của từng vấn đề
nghi lễ còn quá mỏng. Thêm vào đó nhiều vị sư, tăng chưa thực sự quan tâm
đến sự nghiệp giảng dạy Phật pháp mà nặng về tín ngưỡng, lễ bái nhiều.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

<b>KẾT LUẬN </b>


Tóm lại, từ những mưu cầu thiết yếu trong cuộc sống con người hàng
ngày đã nảy sinh ra những điều bất an, lo sợ vơ hình hiện hữu trong tâm thức
con người. Chính vì thế nên tín đồ Phật tử đến chùa ngoài mong cầu về tri
thức, giáo lý mà còn thực hiện. Đa phần họ đến chùa với niềm tin sâu sắc rằng
chỉ có nơi đây mới có thể giúp cho thân tâm họ được thanh thản, được giải


thoát khỏi những khổ ải, trầm luân của trần tục hướng tới cảnh giới siêu thoát.
Để làm được những việc đó, để xoa dịu những lo sợ của tín đồ, Phật giáo đã
đưa ra một nghi lễ được gọi là cầu an. Theo quan niệm của nhà Phật, việc tổ
chức lễ cầu an đầu năm khơng nằm ngồi mục đích để mình và gia quyến
thành tâm sám hối tội lỗi, tiêu trừ nghiệp chướng, bỏ ác làm lành và thực hiện
những thiện sự thì phát nguyện hồi hướng của những việc thiện đó sẽ là sự
bình yên cho bản thân và gia đình, tăng khả năng giảm trừ tiêu tai, giảm tội,
tăng phúc, bình an, thân tâm an lạc. Xét đến mối quan hệ rộng hơn đối với
dân tộc, đại lễ cầu an tổ chức vào đấu năm tại các chùa mang ý nghĩa cầu cho
quốc thái dân an, người dân được sống trong cảnh thanh bình.


Đề cao quan niệm nhân quả, Phật giáo ln dạy ta rằng tất cả những gì
trong hiện tại tạo nên, đó là thái độ sống, quan niệm, những suy nghĩ, hành vi
tiêu cực hoặc tích cực trong hiện tại của chúng ta. Cho nên không tạo nghiệp
nhân xấu, tạo nhiều nghiệp thiện trong hiện taị là thái độ sáng suốt để cải
thiện đời sống như ý và xây dựng đời sống an vui hạnh phúc cho mình, ta có
thể chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những
nghiệp đã tạo ra và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự
hình thành nghiệp quả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

khác…), nếu chúng ta sống buông thả không có trách nhiệm đối với bản thân,
đối với gia đình, xã hội (rượu chè, cờ bạc, sa đọa, truỵ lạc, làm khổ cho mình
và người khác…) thì dù có cầu cho nhiều cũng không an, cầu đến đâu cũng
không ai cứu độ được.


Lễ cầu an vào những ngày đầu năm là một sinh hoạt chính đáng và phù
hợp với nhu cầu tâm linh trong cuộc sống đời thường của người Phật tử, đồng
thời là nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt mỗi dịp xuân về. Một
điều cần nhớ là lễ cầu an như một hình thức cầu nguyện cao thượng, có hiệu
quả giúp chúng ta tiêu trừ nghiệp nhân xấu khi và chỉ khi bản thân chúng ta


biết sống chân chính, biết làm điều thiện và tạo được nghiệp lành.


Thế nhưng cái gì cũng có hai mặt, nghi lễ cầu an cũng có mặt tốt và hại,
mặt tốt chính là dẫn con người sống thanh tịnh, xóa bỏ âu lo trong cuộc sống,
làm việc thiện nói lời hay, không phạm những điều sai trái xuất phát từ thân,
khẩu, ý,… nhưng điều đấy có thực hiện được hay không phải phụ thuộc vào
cách thức tổ chức, phương pháp truyền đạt,.. mỗi địa điểm mỗi chùa lại có
cách truyền đạt, thực hiện, điều kiện khác nhau mà có những tác động lớn bé
đến với tín đồ Phật tử. Nhưng sức ảnh hưởng của nghi lễ cầu an đến đại
chúng nhân dân là không thể phủ nhận.


Khi tham gia lễ cầu an, mọi người sẽ được sống trong những giây phút
chính niệm, quán tưởng và làm theo những lời răn dạy của đức Phật. Mọi
phước đức đời này đều đã được vun trồng và chăm chút từ nhiều đời trước,
khi biết nói lời ái ngữ, làm việc thiện lành, giàu lòng nhân ái giúp mọi người
thì cuộc sống sẽ được phúc, được an lành ở những giây phút hiện tại. Một
điều đặc biệt nữa là, trong giờ phút ấy, tự bản thân của mỗi người, từ suy nghĩ
đến hành động đều một mực giữ gìn, khơng tạo ra những điều xấu, ác trong
những ngày thiêng liêng ấy để có được một năm mới suôn sẻ mọi điều.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

nhân quả, nghiệp báo; tránh suy nghĩ và hành động những điều xấu, ác để một
năm mới gặp được những quả ngọt, điều lành.


Cùng với ý nghĩa ấy, trong những ngày này, mỗi người con Phật sẽ lắng
lịng nhìn nhận lỗi lầm từ Tham - Sân - Si của tâm và nguyện sẽ sám hối, chừa
bỏ để cầu cho một năm mới hạnh phúc, an vui.


Mặt khác, việc cầu nguyện dễ làm cho người ta ỷ lại, rằng không cần làm
lành kiêng ác, cứ sống buông lung phóng túng để rồi người thân sẽ tổ chức
cầu nguyện cho mình được siêu thốt khi mình mất. Việc cầu nguyện, dù có


tác dụng đi nữa, nhưng nếu ỷ lại thì cái lợi q ít mà cái hại thì vô cùng to lớn
chẳng những cho cá nhân mà còn cho xã hội nữa. Với những lý do đó nên
Đức Phật đã quyết định không chủ trương cầu nguyện. Chỉ cần gieo nhân tốt
thì kết quả sẽ tự nhiên tốt mà thơi.


Nhìn chung, các chùa, các nơi thờ tự đều đang cố gắng hướng con người
sống và làm theo chích pháp mà Phật dạy, tổ chức những buổi lễ cầu tự theo
đúng nghi quy của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam tuy nhiên còn có những vấn
đề tiêu cực đang xảy ra trong cơ chế thị trường hiện nay tại một số chùa chiền
và những nơi thờ tự tâm linh Phật giáo như vấn nạn kinh doanh Phật giáo với
nhiều hình thức như “làm kinh tế” mạo danh Phật giáo làm suy giảm chính tín
và lịng tin của tín đồ Phật tử vào chính pháp và làm ảnh hưởng đến hình ảnh
tốt đẹp và mục đích cao thượng của đạo Phật. Hoặc tổ chức những buổi lễ
mang nặng về kinh tế, làm ảnh hưởng đến trật tự an ninh, an toàn giao
thông,…


Từ những bất cập, hạn chế trên, tôi xin phép được nêu ra một số kiến
nghị và giải pháp sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

2. Thường xuyên vận động các vị trụ trì, đặc biệt là các tăng, ni trẻ nêu
cao tinh thần và trách nghiệm trong cơng cuộc học tập Chính pháp, không lơ
là học tập và sống theo đạo lý Phật đề ra để có thể đáp ứng những nhu cầu tơn
giáo của tín đồ cũng như giải đáp những khó khăn khúc mắc của Phật tử trong
thời đại mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

<b>Danh mục tài liệu tham khảo </b>


1. Sabrino Acquaviva, Enzo Pace (1998), <i>Xã hội học tôn giáo, </i>Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.



2. Đào Duy Anh (1997), <i>Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa, </i>
Huế.


3. Đào Duy Anh (2001), Từ điển Hán Việt, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.
4. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
5. Thích Minh Châu và Minh Chi (1991), Từ điển phật học Việt Nam, Nhà


xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội.


6. Phan Huy Chú (1997), <i>Hồng Việt địa dư chí, tập 1, Nxb Thuận Hóa, </i>
Huế.


7. Nguyễn Đại Đồng (2011), Chùa Quán Sứ, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội.


8. Giáo hội Phật Giáo Việt Nam tỉnh hội Quảng Nam Đà Nẵng (1993),Nghi
<i>lễ phật giáo, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, thể thao Quảng Ngãi – Đà </i>
Nẵng, Đà Nẵng.


9. Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phân viện Nghiên cứu Phật học (1998), Từ
<i>điển Phật học Hán Việt,Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà nội. </i>


10. Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Thích Ngun Tồn (2013), Tiến trình lịch
<i>sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. </i>


11. Thích Nhật Hạnh (1965), Đạo Phật hiện đại hóa, Nxb Lá bối, ebook.
12. Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Nxb Tôn giáo và


Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.


13. Hội văn hóa giáo dục Linh Sơn Đài Bắc (2000), Phật quang đại từ điển.


14. Kinh Trung bộ, kinh Điều ngự địa, số 125


15. Trần Bá Lãm (1787), La Thành cổ tích vịnh, Thư viện Viện Hán Nôm.
16. Thịnh Lê (2001),Từ điển Nho Phật Đạo, Nhà xuất bản văn học, Thành


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

17. Nguyễn Thế Long, Phạm Mai Hưng (1997), Chùa Hà Nội, Nxb Văn hóa
- Thông tin, Hà Nội.


18. Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách (1999), Từ điển Phật học, Nxb
Thuận Hóa, Huế.


19. Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam (2008), Kinh chú thường tụng,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.


20. Trương Bội Phong (2012), <i>Nghi lễ Phật giáo, </i>Nhà xuất bản Lao Động,
Hà Nội.


21. Richard T.Schaefer, Chương 15: Tôn giáo, Xã hội học, Biên dịch Huỳnh
Văn Thanh, Nhà xuát bản Thống kê


22. Lưu Minh Trị (2010),Hà Nội - Danh thắng và Di tích, Nxb Hà Nội.
23. Đạo Uyển (2006),Từ điển phật học, Nhà xuất bản tôn giáo, Hà Nội.
24. Đặng Nghiêm Vại (2001), <i>Lý luận về tơn giáo và tình hình tơn giáo ở </i>


<i>Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </i>
25. Tạp chí Nghiên cứu Phật học – số 6 năm 2017


26. <i>Ấn Tượng chùa Bằng - </i>



27. <i>Chùa Quán Sứ - Ngôi chùa cổ linh thiêng bậc nhất thủ đô - </i>




28. <i>Chùa Phúc Khánh nơi linh thiêng giữa lòng Hà Nội - </i>



29. <i>Lịch sử chùa Bằng < </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

<b>PHỤ LỤC </b>
<b>PHỤ LỤC 1 </b>


* Câu hỏi phỏng vấn: Theo anh chị mục đích tham gia khóa lễ cầu an đầu
năm là gì? Việc tham dự khóa lễ cầu an đầu năm đem lại lợi ích gì?


* Trả lời


(Gỡ băng ngày 08/04/2019 - Người phỏng vấn Đ.T.Q - Phỏng vấn tại chùa
Phúc Khánh)


“Tôi thường tham dự khóa lễ cầu an đầu năm trên chùa Quán Sứ để mong
cầu một năm mới bình an, mạnh khỏe cho cả gia đình, cho con cho cháu
đồng thời cũng là để sám hối những lỗi lầm mà mình đã mắc, những điều sai
trái mình đã làm trong năm cũ với mong cầu sang năm mới mình sẽ khơng
mắc những lỗi này nữa, sống an tâm, tự tại hơn”


(Đ.Q.T – 75 tuổi – Nam)



“Ai cũng biết là đông, chùa Phúc Khánh lễ cầu an đầu năm lúc nào cũng
đông, nhưng nhà tôi đã xin cầu an ở đây mấy năm nay rồi, khơng làm gia
đình tơi thấy an tâm, bình an hơn cho một năm mới, làm bất kỳ điều gì
cũng thấy an tâm tự tin làm hơn mà nó cịn vơ tình thành thói quen rồi,
bây giờ mà không được làm lễ cầu an ở đây nữa cảm thấy khơng n. Vì
thế nên năm nào tơi cũng đăng ký cho gia đình mình làm lễ cầu an ở chùa
Phúc Khánh dù đông đến đâu”


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

(Gỡ băng ngày 08/04/2019 - Người phỏng vấn Đ.T.Q - Phỏng vấn tại chùa
Quán Sứ )


(Gỡ băng ngày 08/04/2019 - Người phỏng vấn Đ.T.Q - Phỏng vấn tại chùa
Bằng )


“Đầu năm chùa Bằng thường tổ chức đàn Dược Sư cầu cho quốc thái dân an, tôi
cũng thường đến để lễ Phật để khép lại một năm mới với tất bật những muộn
phiền, lo toan vất vả, mong cầu sự bình an cho gia đình, tai qua nạn khỏi, gặp dữ
hóa lành, làm ăn thuận lợi, cầu sức khỏe, cầu may mắn cho tồn gia đình trong
năm mới”


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

<b>PHỤ LỤC 2 </b>


* Câu hỏi phỏng vấn: Theo anh chị khóa lễ cầu an đầu với lễ dâng sao
giải hạn có phải là một khơng? Vì sao?


(Gỡ băng ngày 08/04/2019 - Người phỏng vấn Đ.T.Q - Phỏng vấn tại chùa
Bằng )


(Gỡ băng ngày 05/04/2019 - Người phỏng vấn Đ.T.Q - Phỏng vấn tại chùa
Qn Sứ )



“Theo tơi thì hai nghi lễ này khác nhau hồn tồn vì chúng tụng những bộ
kinh khác nhau. Lễ dâng sao giải hạn mang tính tâm linh nhiều và nặng
về nghi thức hơn vì lễ cầu an đầu năm chỉ đôi khi là muốn tâm an lạc,
muốn đất nước bình an thơi. Nhiều người vì tin rằng mỗi năm có một
ngôi sao chiếu nên chỉ khi nào sao xấu người ta mới lên chùa xin giải hạn.
Hiện nay, có nhiều chùa không tổ chức lễ dâng sao giải hạn nhưng lễ cầu
an đầu năm thì hầu như chùa nào cùng có.”


(T.T.A – 50 tuổi – Nữ)


“Cúng sao và cầu an là những nghi lễ khác nhau, cúng sao là một nghi lễ
tập tục có từ lâu đời của người dân Việt Nam, tục Sa-man, còn cầu an là
một nghi lễ của Phật giáo cầu cho tâm yên bình cho cuộc sống dễ thở hơn.
Theo Phật thì khơng có sao nào chiếu hết chỉ có họa do con người gây ra
mà thôi, tất cả những điều xảy ra hiện tại đều do con người tự tạo ra từ
trước”


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

<b>PHỤ LỤC 3 </b>


* Câu hỏi phỏng vấn: Theo anh chị khóa lễ cầu an là xấu hay tốt?


(Gỡ băng ngày 08/04/2019 - Người phỏng vấn Đ.T.Q - Phỏng vấn tại chùa
Phúc Khánh )


(Gỡ băng ngày 08/04/2019 - Người phỏng vấn Đ.T.Q - Phỏng vấn tại chùa
Phúc Khánh)


“Nhiều người cho rằng cầu an là mê tín dị đoan, nhưng thực chất là khơng
hề phài. Cầu an là cực kỳ tốt, cầu an giúp con người thoải mái hơn, sau khi


làm lễ cầu an trên chùa về chưa biết là Phật có cho những gì mình xin,
mong cầu khơng nhưng tâm mình cực kỳ yên, cực kỳ thoải mái, chẳng may
trong năm mà có gặp điều gì khó khăn thì tự nhiên mình cũng thấy đỡ hơn,
cảm thấy là may mắn vì có lễ cầu an đầu năm mình xin thì hạn mình chỉ
thế này thơi, nếu khơng làm lễ thì nó cịn nặng đến như thế nào nữa, cách
mình đón nhận những khó khăn ấy cũng nhẹ nhàng hơn.”


(N.T.H.L – 50 tuổi – Nữ)


</div>

<!--links-->
<a href=' /> Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân - kết quả để tìm hiểu về vấn đề ùn tắc giao thông ở Hà Nội hiện nay
  • 9
  • 4
  • 64
  • ×