Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Đề 08 Luật tài chính HLU Hoàn thuế giá trị gia tăng và biện pháp xử lí gian lận trong hoàn thuế GTGT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.8 KB, 19 trang )

ĐỀ SỐ 08:
Trên cơ sở các quy định về các trường hợp hoàn Thuế Giá trị gia tăng theo pháp luật Thuế Giá
trị gia tăng hiện hành ở Việt Nam, lý giải tại sao có hiện tượng gian lận trong hoàn Thuế Giá trị gia
tăng và các biện pháp xử lý, kết quả xử lý gian lận trong hoàn Thuế Giá trị gia tăng trong 3 năm trở
lại đây.


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật thuế
giá trị gia tăng. Các quy định của pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng là sự cơng nhận về mặt
pháp lí việc thực hiện cơ chế hồn thuế giá trị gia tăng trong q trình áp dụng thuế giá trị gia tăng
ở nước ta, đảm bảo cho cơ chế được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất, tác động tích cực tới
việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có nền kinh tế
đang hội nhập và phát triển, do đó việc áp dụng chế định hoàn thuế giá trị gia tăng là rất cần thiết,
phù hợp với mong muốn của các chủ thể nộp thuế khi tham gia hoạt động kinh tế. Chính vì vậy,
u cầu đặt ra là Nhà nước cần phải xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoàn thuế giá trị gia
tăng dựa trên các nghiên cứu lí luận về hoàn thuế giá trị gia tăng, đồng thời cơ quan thuế Nhà nước
và các Doanh nghiệp phải nghiêm chỉnh thực hiện chính sách về hồn thuế giá trị gia tăng, đảm bảo
tính pháp chế của pháp luật.
Nhằm tìm hiểu cụ thể hơn về các trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng theo quy định hiện hành
và các vấn đề phát sinh thực tiễn xoay quanh việc hoàn thuế, em xin được chọn đề bài số 08 cho
bài tiểu luận của mình: “Trên cơ sở các quy định về các trường hợp hoàn Thuế Giá trị gia tăng
theo pháp luật Thuế Giá trị gia tăng hiện hành ở Việt Nam, lý giải tại sao có hiện tượng gian
lận trong hồn Thuế Giá trị gia tăng và các biện pháp xử lý, kết quả xử lý gian lận trong hoàn
Thuế Giá trị gia tăng trong 3 năm trở lại đây.”
Do thời gian và kiến thức cịn hạn chế nên khó có thể tránh khỏi những sai sót trong bài, em rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cơ trong bộ mơn để giúp bài làm được hồn
thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!



3


NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG:
1. Khái niệm thuế giá trị gia tăng:
Thuế giá trị gia tăng quy định tại Điều 2 Luật Thuế giá trị gia tăng như sau: Thuế giá trị gia
tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất,
lưu thông đến tiêu dùng
2. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng:
- Đối tượng chịu thuế rộng: Mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ thể nộp thuế giá trị gia tăng
do hành vi tiêu dùng của mình. Việc đánh thuế trên mọi đối tượng trên phạm vi lãnh thổ thể hiện sự
công bằng của thuế và thái độ nhà nước với các loại tiêu dùng trong xã hội.
Do thuế giá trị gia tăng “thu hộ” của doanh nghiệp bán hàng là thuế giá trị gia tăng “trả hộ”
của doanh nghiệp mua hàng nên việc hoàn thuế giá trị gia tăng của một doanh nghiệp có liên quan
đến việc nộp thuế của doanh nghiệp khác
- Khâu đánh thuế: rộng, bắt đầu từ q trình sản xuất, lưu thơng đến tiêu dùng.
- Chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ: Khơng đánh thuế giá trị gia tăng
với tồn bộ giá trị hàng hóa dịch vụ làm cho thuế giá trị gia tăng áp dụng với mỗi khâu trong q
trình lưu thơng khơng gây đột biến cao về giá cả cho người tiêu dùng. Song yêu cầu làm rõ phần
giá trị tăng thêm làm căn cứ tính thuế. Thực tiễn pháp lí các quốc gia thường đều xác định giá trị
tăng thêm dựa trên cơ sở chứng từ hóa đơn chứng minh kết quả hoạt động kinh doanh của chủ thể
nộp thuế.
- Nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế giá trị gia tăng phải nộp không
thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau.
II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HOÀN THUẾ GIÁ
TRỊ GIA TĂNG:
1. Khái niệm hoàn thuế giá trị gia tăng:
Về phương diện lí thuyết, thuật ngữ “hồn thuế” được quan niệm và giải thích khơng hồn

tồn đồng nhất ở các nước1. Pháp luật Việt Nam không đưa ra khái niệm hoàn thuế mà chỉ quy định
các trường hợp được hồn thuế nói chung. Sự thiếu vắng một khái niệm này khiến có thể khiến
hiểu sai bản chất của hồn thuế bởi khơng thống nhất, nhà làm luật có thể thiết kế quy định không
phù hợp với bản chất của hồn thuế nói chung và hồn thuế giá trị gia tăng nói riêng.
Hồn thuế giá trị gia tăng là hành vi pháp lí của nhà nước, theo đó nhà nước thơng qua cơ
quan quản lí thuế, ra quyết định trả lại số tiền thuế giá trị gia tăng đã nộp vượt quá của chủ thể nộp
thuế hoặc số tiền thuế mà nhà nước đã thu nhưng khơng có căn cứ pháp luật2.

1 Cơ sở lí thuyết và những hạn chế, bất cập của chế định hoàn thuế giá trị gia tăng trong pháp luật Việt Nam / Nguyễn Văn
Tuyến // Luật học. Số 6/2018, tr. 60 - 71.

2 Xây dựng trên căn cứ PL và triết lí: Người được lợi về tài sản khơng có căn cứ PL phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu khi họ
yêu cầu – ghi nhận tại BLDS 2015 các điều 166, 236.

4


Quy định hoàn cho người nộp thuế bởi theo nhà làm luật, người nộp thuế là người đem lại tiền
cho ngân sách nhà nước, chứ không truy xuất nguồn gốc khoản tiền. Người nộp được hoàn lại với
tư cách là chủ của tài sản.
2. Các trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng theo quy định của Luật thuế giá trị gia
tăng 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2013,2016):
Điều 13 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2016) quy định các
trường hợp được hoàn thuế giá trị gia tăng gồm:
Trường hợp 1: Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế
nếu có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết trong tháng hoặc trong quý thì
được khấu trừ vào kỳ tiếp theo.
Đây là quy định rộng rãi với số đông doanh nghiệp. Điều kiện để doanh nghiệp được hoàn thuế
trong trường hợp này là có nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế và có số thuế
giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết trong tháng hoặc trong quý (Trước đây trong luật

thuế giá trị gia tăng năm 1997 chỉ quy định điều kiện hoàn thuế giá trị gia tăng này xét theo quý.
Làm cho cơ chế hoàn thuế giá trị gia tăng bị phụ thuộc vào niên độ kế toán, hạn chế ý nghĩa tích
cực của hồn thuế giá trị gia tăng).
Số thuế được hoàn là luỹ kế số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết của thời gian xin hoàn
thuế. Để xác định luỹ kế số thuế đầu vào, người ta dùng phương pháp khấu trừ để xác định số thuế
phải nộp, sau đó cộng số thuế phải nộp của các tháng liên tiếp với nhau, nếu trong ba tháng liên tục
trở lên, tổng giá trị thuế phải nộp có giá trị âm thì cơ sở kinh doanh được khấu trừ thuế đó. Quy
định này thể hiện ý nghĩa tích cực của cơ chế hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động kinh
doanh, sản xuất của doanh nghiệp. Khi số thuế giá trị gia tăng đầu vào trong tháng hoặc trong quý
chưa được khấu trừ hết, tức có khả năng doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong kinh doanh, do
nguyên liệu nhập vào cịn tồn kho, do lượng hàng hố, dịch vụ bán ra ít hoặc đang đầu tư kinh
doanh mà chưa thu được lợi nhuận đáng kể,… Theo đó, cơ chế hồn thuế có mặt giúp hỗ trợ một
phần vốn kinh doanh cho các doanh nghiệp trong trường hợp này, đồng thời khuyến khích các
doanh nghiệp tích cực sản xuất phát triển.
Tại khoản 1 này, dường như nhà làm luật đang có sự nhầm lẫn giữa khái niệm “khấu trừ thuế
giá trị gia tăng” với khái niệm “hoàn thuế giá trị gia tăng”. Điều này thể hiện ở chỗ, khấu trừ thuế
giá trị gia tăng là phương pháp tính thuế, theo đó nhà làm luật cho phép người nộp thuế được khấu
trừ số thuế giá trị gia tăng đầu vào khi tính thuế giá trị gia tăng phải nộp đối với số hàng hóa, dịch
vụ chịu thuế được bán ra trên thị trường. Cịn hồn thuế giá trị gia tăng là quan hệ tài sản theo đó
nhà nước trả lại cho người được hoàn thuế số tiền mà họ đã nộp thừa cho nhà nước hoặc do nhà
nước đã thu từ người nộp thuế nhưng khơng có căn cứ pháp luật.
Trường hợp cơ sở kinh doanh đã đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu
trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư có số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa,
dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ và có số thuế cịn lại từ ba trăm
triệu đồng trở lên thì được hồn thuế giá trị gia tăng.
Nhà nước cho phép kê khai bù trừ số thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử
dụng cho dự án đầu tư mới cùng với việc kê khai thuế giá trị gia tăng của hoạt động sản xuất kinh
doanh đang thực hiện. Sau khi bù trừ, nếu số thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử
dụng cho nhà đầu tư chưa được khấu trừ hết từ 300 triệu đồng trở lên thì được hồn thuế giá trị gia
5



tăng cho dự án đầu tư. Quy định này làm giảm bớt các thủ tục phức tạp trong quá trình thu nộp
thuế, đồng thời vẫn đảm bảo việc thu thuế và hoàn thuế đúng đối tượng. Trường hợp hoàn thuế này
là một biện pháp hỗ trợ từ phía nhà nước nhằm giúp đỡ về vốn cho các doanh nghiệp để tiếp tục
hoạt động đầu tư, kích thích mở rộng quy mơ sản xuất, kinh doanh của mình.
Tuy nhiên, thuế giá trị gia tăng là loại thuế gián thu với đặc thù chỉ đánh trên phần giá trị tăng
thêm của hàng hóa và dịch vụ chịu thuế qua mỗi lần luân chuyển trong chuỗi phân phối sản phẩm,
từ khâu sản xuất đến tay người tiêu dùng và thuế ở khâu sau không đánh chồng lên thuế của khâu
trước, bằng cách cho phép khấu trừ số thuế giá trị gia tăng đã nộp ở khâu trước khi mua hàng hóa
và dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng. Quy định này gây hậu quả khôn lường khi pháp luật chỉ quy
định người nộp thuế chỉ cần chứng minh mình có dự án đầu tư mới, đã đăng kí nộp thuế giá trị gia
tăng theo phương pháp khấu trừ, đang trong giai đoạn đầu tư có số thuế giá trị gia tăng của hàng
hóa và dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ và có số thuế cịn lại từ 300
triệu đồng trở lên thì sẽ được hoàn thuế giá trị gia tăng. Người nộp thuế giá trị gia tăng sẽ tìm mọi
cách gian lận để đủ điều kiện hoàn thuế giá trị gia tăng theo quy định trên. Trong khi đó, về bản
chất, thì người nộp thuế chỉ được khấu trừ số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ, chứ
khơng có cơ sở để Nhà nước chấp nhận cho hoàn thuế giá trị gia tăng. Để khắc phục điều này cần
quy định trường hợp trên sang điều luật về khấu trừ thuế giá trị gia tăng.
Trường hợp 2: Cơ sở kinh doanh trong tháng, quý có hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nếu có
số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn
thuế giá trị gia tăng theo tháng, quý, trừ trường hợp hàng hoá nhập khẩu để xuất khẩu, hàng
hoá xuất khẩu không thực hiện việc xuất khẩu tại địa bàn hoạt động hải quan theo quy định
của luật Hải quan.
Thực hiện hoàn thuế trước, kiểm tra sau với người nộp thuế sản xuất hàng hố xuất khẩu
khơng vi phạm pháp luật về thuế, hải quan trong thời gian hai năm liên tục; người nộp thuế
không thuộc đối tượng rủi ro cao theo quy định của luật quản lí thuế.
Về cơ bản việc nộp thuế giá trị gia tăng đến từ sự tự giác kê khai của người nộp thuế. Xét đến
các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu, có sự trung thực trong thực hiện nộp thuế, Nhà
nước cho phép tiến hành hoàn thuế trước cho doanh nghiệp rồi kiểm tra sau. Doanh nghiệp muốn

được hoàn thuế giá trị gia tăng thì phải thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn, chứng từ; thể hiện rõ số
thuế đầu vào, đầu ra để cơ quan thuế làm căn cứ xét hoàn thuế.
Trong giai đoạn nền kinh tế hiện nay, Nhà nước ln khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất khẩu hàng hố. Vì vậy, hàng hoá xuất khẩu được hưởng mức
thuế suất ưu đãi giá trị gia tăng là 0%. Trong đó, về nguyên tắc các cơ sở sản xuất kinh doanh phải
được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào với hàng hoá dịch vụ là đối tượng chịu thuế giá trị gia
tăng nên việc khấu trừ thuế giá trị gia tăng đối với hàng hoá dịch vụ là điều tất yếu. Nhằm hỗ trợ
vốn tạm thời cho doanh nghiệp tiếp tục sản xuất kinh doanh, Nhà nước quy định nếu số thuế giá trị
gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ từ 300 triệu đồng trở lên thì được hồn thuế giá trị gia tăng
theo tháng, quý. Điều này cũng giúp doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện cạnh tranh về giá cả với
các hàng hoá trên thị trường quốc tế. Hiện nay, việc hồn thuế cho doanh nghiệp có hàng hoá xuất
khẩu chiếm tỉ lệ lớn hơn các trường hợp hoàn thuế khác.
Trường hợp 3: Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế
được hoàn thuế giá trị gia tăng khi chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi doanh nghiệp, sáp nhập, hợp

6


nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động có số thuế giá trị gia tăng nộp thừa hoặc
số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết.
Việc tiến hành các hoạt động sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, chuyển đổi sở
hữu, chuyển đổi doanh nghiệp sẽ làm thay đổi một số nội dung pháp lí của doanh nghiệp và có thể
làm chấm dứt tư cách pháp lí của doanh nghiệp. Chính vì vậy, Nhà nước thực hiện quyết tốn và
hồn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp trong trường hợp này. Tuy nhiên trường hợp này không
phản ánh đúng bản chất của cơ chế hoàn thuế.
Quy định này thể hiện cách tiếp cận theo hướng người nộp thuế giá trị gia tăng là chủ thể được
hoàn thuế giá trị gia tăng nếu chứng minh được có số thuế đã nộp thừa cho Nhà nước. Tuy nhiên,
vấn đề phát sinh là muốn xác định việc hoàn thuế cho cơ sở kinh doanh trong trường hợp này có
thỏa đáng và hợp lí hay khơng, cần phải xác định xem số tiền thuế giá trị gia tăng do cơ sở kinh
doanh nộp thừa thực chất là thu nhập của ai đã được chuyển vào ngân sách nhà nước dưới hình

thức thuế giá trị gia tăng Về lí thuyết cũng như thực tiễn, có 02 trường hợp xảy ra trong tình huống
này:
- Nếu số thuế nộp thừa của cơ sở kinh doanh khi chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi doanh nghiệp,
sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động được xác định là số thuế đầu
vào do cơ sở kinh doanh này nộp cho ngân sách nhà nước qua việc mua hàng hóa, dịch vụ đầu vào
của cơ sở cung cấp hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng thì việc nhà nước quy định hồn
thuế giá trị gia tăng là hồn tồn hợp lí, vì khi đo cơ sở kinh doanh có số thuế nộp thừa thực chất
đóng vai trị người chịu thuế giá trị gia tăng.
- Nếu số thuế giá trị gia tăng nộp thừa khi chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi doanh nghiệp, sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động là số thuế giá trị gia tăng đầu ra
do cơ sở kinh doanh nộp cho ngân sách nhà nước khi bán ra các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị
gia tăng thì việc Nhà nước quy định hoàn thuế cho cơ sở kinh doanh này là khơng hợp lí. Do xét về
bản chất, số thuế giá trị gia tăng do cơ sở kinh doanh nộp thừa chính là phần thu nhập của người
mua hàng hóa, dịch vụ chịu thuế do cơ sở kinh doanh đã bán (với giá thanh tốn là giá đã có thuế
giá trị gia tăng, chứ không phải thu nhập của cơ sở kinh doanh dùng để trả thuế cho nhà nước). Nếu
giữ quy định này thì thực chất cơ sở kinh doanh này đã được hưởng lợi về tài sản mà không có căn
cứ pháp luật (căn cứ Bộ Luật Dân sự 2015).
Trường hợp 4: Người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang hộ chiếu
hoặc giấy tờ nhập cảnh do cơ quan có thẩm quyền nước ngồi cấp được hồn thuế đối với hàng
hóa mua tại Việt Nam mang theo người khi xuất cảnh.
Xuất phát từ nguyên tắc chỉ đánh thuế giá trị gia tăng trên hàng hóa dịch vụ tiêu dùng trên lãnh
thổ Việt Nam, tức không có phần giá trị tăng thêm trên lãnh thổ Việt Nam 3. Hiện nay được quy
định cụ thể tại Thông tư 92/2019/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư 72/2014/TT-BTC về hồn thuế
giá trị gia tăng đối với hàng hóa của người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài
mang theo khi xuất cảnh.
Quy định này đảm bảo sự phù hợp với pháp luật Quốc tế cũng như góp phần thúc đẩy du lịch
thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu quản lý, đảm bảo giám
sát chặt chẽ, tránh thất thoát tiền hồn thuế.
3Trường ĐH Luật Hà Nội – Giáo trình luật thuế Việt Nam – NXB CAND 2018 – trang 175.


7


Tuy nhiên, khi tham gia bán hàng, các doanh nghiệp bán hàng hồn thuế sẽ bắt buộc phải nhập
các thơng tin về hàng hóa, khách nước ngồi vào hóa đơn giá trị gia tăng kiêm tờ khai hoàn thuế
trên Hệ thống quản lý hoàn thuế giá trị gia tăng cho người nước ngoài. Hệ thống này được xây
dựng sẽ kết nối thông suốt giữa cơ quan hải quan, cơ quan thuế, kho bạc nhà nước, doanh nghiệp
bán hàng và ngân hàng thương mại nhằm đảm bảo sự quản lý chặt chẽ trong hoàn thuế, tránh việc
lợi dụng để chiếm đoạt tiền hoàn thuế của ngân sách nhà nước đồng thời đảm bảo ứng dụng công
nghệ thông tin trong công tác hồn thuế phục vụ hồn thuế nhanh, chính xác, đúng đối tượng. 4 Khi
hệ thống xảy ra sự cố, doanh nghiệp không truy cập được vào hệ thống, doanh nghiệp lập hóa đơn
kiêm tờ khai hồn thuế theo mẫu, ký, đóng dấu và giao cho người nước ngồi. Chứng từ in ra là cơ
sở để cơ quan hải quan kiểm tra đối chiếu với hàng hóa của người nước ngồi. Trường hợp doanh
nghiệp bán hàng khơng lập hóa đơn kiêm tờ khai hồn thuế trên Hệ thống hoặc lập hóa đơn kiêm tờ
khai hồn thuế nhưng khơng truyền đến hệ thống thì trên cơ sở thơng tin của cơ quan hải quan cung
cấp, cơ quan thuế lập biên bản vi phạm.
Trường hợp 5: Việc hoàn thuế giá trị gia tăng đối với các chương trình, dự án sử dụng
nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) khơng hồn lại hoặc viện trợ khơng hồn lại,
viện trợ nhân đạo
VD: Hội chữ thập đỏ Việt Nam được tổ chức quốc tế viện trợ tiền để mua hàng viện trợ nhân
đạo cho nhân dân các tỉnh miền Trung bị thiên tai là 200 triệu đồng. Thuế giá trị gia tăng tính trên
số hàng đó là 20 triệu đồng. Hội chữ thập đỏ sẽ được hoàn thuế theo quy định là 20 triệu đồng.
Đây là trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng do không phát sinh giá trị tăng thêm trong một
khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Điều kiện để được hoàn thuế trong trường hợp này là
nguồn vốn sử dụng cho các dự án, hoạt động phải là từ nguồn vốn viện trợ khơng hồn lại, hoặc
tiền viện trợ nhân đạo và được sử dụng để mua hàng hoá dịch vụ tại Việt Nam. Quy định này nhằm
đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triểu sử dụng vốn ODA và viện trợ nhân đạo, viện trợ khơng hồn
lại tại Việt Nam, đồng thời cũng khuyến khích tiêu thụ hàng hố trong nước, có ý nghĩa tích cực
trong phát triển kinh tế xã hội, thu hút vốn đầu tư nước ngồi vào Việt Nam, giải quyết khó khăn về
vốn, kinh nghiệm, cơng nghệ,… góp phần giúp nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng; cùng với

đó là phù hợp với mục tiêu hỗ trợ nhân đạo được nhà nước khuyến khích từ trước tới nay.
Trường hợp 6: Đối tượng được hưởng quyền ưu đãi miễn trừ ngoại giao:
Trong mối quan hệ ngoại giao, các ưu đãi được các nước thỏa thuận áp dụng trên nguyên tắc
có đi có lại. Các đối tượng hưởng quyền ưu đã miễn trừ ngoại giao thường là các cá nhân, tổ chức ở
nước ngoài nên việc tiêu dùng hàng hoá dịch vụ của họ cũng chính là thực hiện hành vi xuất khẩu
tại chỗ, hơn nữa trong quá trình hội nhâp Việt Nam tham gia rất nhiều các Điều ước quốc tế và thực
hiện chính sách ngoại giao rộng mở, quy định này một mặt thể hiện việc nội luật hoá quy định
Quốc tế mà Việt Nam là thành viên, mặt khác thể hiện chính sách ưu đãi trong ngoại giao của nước
ta.
Trường hợp 7: Cơ sở kinh doanh có quyết định hồn thuế giá trị gia tăng của cơ quan có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật và trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng theo điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

4 />%95i%20b%E1%BA%ADt

8


Về cơ bản, đây là trường hợp để nhà làm luật dự phịng việc khơng dự liệu hết các sự kiện phát
sinh trong thực tiễn và quy định này mang tính chất giải quyết tình huống. Song “quyết định hồn
thuế giá trị gia tăng của cơ quan có thẩm quyền” là căn cứ phát sinh quyền hoàn thuế của đối
tượng nộp thuế giá trị gia tăng là chưa hợp lí. Về cơ bản việc hoàn thuế giá trị gia tăng xuất phát từ
yêu cầu thực tế và các quy định của pháp luật Việt Nam về thuế giá trị gia tăng, nhưng ở đây căn cứ
hoàn thuế lại là quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chứ khơng dựa trên
ngun tắc chuyển giao hàng hố, dịch vụ có thuế đầu vào lớn hơn thuế đầu ra. Đây có thể là một
ngun nhân dẫn đến hồn thuế giá trị gia tăng sai với mục đích ban đầu, ảnh hưởng tới việc thực
hiện thuế giá trị gia tăng nói chung và hồn thuế giá trị gia tăng nói riêng.
Nói tóm lại, các quy định về đối tượng và trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng là tương đối cụ
thể, góp phần thúc đẩy hoạt động thực hiện luật thuế giá trị gia tăng. So với các quy định trước đây
của luật thuế giá trị gia tăng về đối tượng và trường hợp hồn thuế thì các quy định này đã có phần

linh hoạt hơn để phù hợp với tình hình thực tế xã hội những năm gần đây, đặc biệt là việc loại trừ
trường hợp hoàn thuế tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 13, qua đó giảm thiểu các trường hợp gian
lận về hồn thuế giá trị gia tăng, đảm bảo mục tiêu yêu cầu của việc hoàn thuế.
III. NGUYÊN NHÂN HIỆN TƯỢNG GIAN LẬN TRONG HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ
GIA TĂNG:
Thực tiễn thực hiện chính sách hồn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam những năm gần đây cho
thấy rằng có nhiều cá nhân, tổ chức lợi dụng chính sách này để chiếm đoạt tiền thuế của nhà nước.
Gian lận trong hoàn thuế giá trị gia tăng được hiểu là hành vi của cá nhân, tổ chức cố ý làm sai
lệch, làm tăng số thuế được hoàn lại.
Thứ nhất, về hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật: Việc quy định hoàn thuế cho
người nộp thuế giá trị gia tăng là sai so với bản chất của việc hoàn thuế, cụ thể là sai về đối tượng.
Do người nộp thuế giá trị gia tăng đa phần không phải là người bỏ chính tiền túi của mình ra nộp
mà nguồn gốc khoản tiền đó là từ phía của người tiêu dùng, người nộp thuế chỉ là người trung gian.
Chính vì vậy, về ngun tắc khoản tiền đó phải hồn cho người chịu thuế.
Tuy nhiên, họ không bảo giờ được xác định trong luật, bởi nếu luật quy định rõ ai là người
thực sự chịu thuế thì điều tất yếu xảy ra là nhà nước khó khăn trong việc thu được số tiền thuế như
mong muốn, do người chịu thuế biết mình là người vị điều tiết thu nhập bằng thuế, sẽ có xu hướng
“lẩn tránh” thuế bằng mọi cách, kể cả cách tồi tệ nhất là chấp nhận từ bỏ việc mua hàng hóa, dịch
vụ thuộc diện chịu thuế. Hơn nữa, nhiều hiều văn bản được ban hành còn chồng chéo nhau, khiến
cho cơ quan thu thuế lúng túng trong việc áp dụng.
Việc quy định doanh nghiệp tự chủ về hóa đơn của mình khi đáp ứng các điều kiện nhất định
thay vì phải xin phép in hóa đơn hoặc mua hóa đơn do Bộ Tài chính phát hành – có ý kiến cho rằng
sẽ gây tăng hành vi gian lận thuế giá trị gia tăng, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp “ma” lập ra để
mua bán hóa đơn khống và chiếm đoạt tiền hoàn thuế của nhà nước. Một hệ quả có thể nhận ra là
khi một doanh nghiệp làm ăn uy tín gặp phải doanh nghiệp “ma” cùng với thứ hóa đơn kê khai
khơng được cơ quan thuế chấp nhận thì khơng những doanh nghiệp này bị thiết hại về kinh tế mà
cịn có thể bị dính líu đến các rắc rối pháp lí khác.
Thứ hai, ý thức của người dân trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế: Trình độ của một bộ
phận dân cư còn thấp, nhất là trong việc nắm bắt các quy định, nội dung của các luật thuế. Thói
quen mua hàng lấy hóa đơn chưa hình thành. Ở góc độ doanh nghiệp, muốn được hồn thuế giá trị

gia tăng thì doanh nghiệp phải có đầy đủ giấy tờ hóa đơn giá trị gia tăng đầu vào hợp lệ. Do đó, khi
9


mua hàng thì doanh nghiệp sẽ ln địi hỏi hóa đơn của nhà cung cấp để có thể được hồn thuế.
Nhà cung cấp khơng thể khơng cấp hóa đơn để trốn thuế và cũng không thể giảm giá trị hàng bán
để giảm số thuế phải nộp trong trường hợp này. Nếu làm như vậy doanh nghiệp sẽ chịu thiệt tương
ứng mà Chính phủ thì hầu như khơng bị thiệt hại gì xét trên bình diện tổng thể. Tuy nhiên đối với
khoản thuế giá trị gia tăng đầu ra thì doanh nghiệp gần như khơng quan tâm đến việc xuất hóa đơn
giá trị gia tăng cho người tiêu dùng. Trong khi đó do người tiêu dùng khơng được khấu trừ thuế giá
trị gia tăng đầu vào nên họ cũng khơng có động cơ địi hỏi và nhận hóa đơn giá trị gia tăng.
Điều này dẫn đến tình trạng tiếp tay với các hành vi cố ý của các doanh nghiệp trong việc mua
bán hàng hóa, sử dụng hóa đơn nhằm trục lợi. Bên cạnh đó, việc tun truyền chính sách thuế của
Nhà nước nhìn chung vẫn chưa đến được với mọi tầng lớp dân cư, nên người dân không nhận thức
rõ nghĩa vụ và quyền lợi khi đóng góp vào ngân sách nhà nước.
Thứ ba, về phía cơ quan nhà nước – Hạn chế trong việc quản lý thuế của cơ quan thuế và
các đội ngũ thực thi pháp luật khác:
Đội ngũ cán bộ, công chức thuế chưa được trang bị đầy đủ về các biện pháp phòng, chống các
hiện tượng gian lận thuế,nhất là đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra. Một bộ phận cán bộ cơng chức
thuế cịn trục lợi, không liêm khiết, thỏa hiệp với người nộp thuế để bỏ qua các hành vi gian lận;
chưa có cơ chế phối hợp tốt giữa cơ quan thuế và các cơ quan cơng an, kiểm tốn nhà nước. Thiếu
sự quyết liệt trong xử phạt vi phạm.
Cùng với đó, một số ngành nghề kinh doanh mới phát sinh như: Kinh doanh thương mại điện
tử, kinh doanh đa cấp... gây khó khăn cho cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra, do chưa am hiểu
về lĩnh vực này. Mặt khác, công tác phối hợp giữa bộ phận kê khai và bộ phận thanh tra, kiểm tra
chưa tốt, công tác rà soát đánh giá rủi ro để phát hiện các doanh nghiệp có rủi ro cao, doanh nghiệp
“ma”, doanh nghiệp “đen” có thủ đoạn chiếm đoạt tiền thuế ở địa phương chưa hiệu quả.
Thứ tư, về phía doanh nghiệp: Muốn chuộc lợi cho mình: tránh doanh thu, hoặc điều
chuyển số thuế giá trị gia tăng hàng tháng, tránh bật dương thuế quá lớn, ảnh hưởng đến dòng tiền
và nghĩa vụ phải nộp; Sử dụng hóa đơn bất hợp pháp, thực chất là hóa đơn giả;, hóa đơn chưa có

giá trị sử dụng, hết giá trị sử dụng… Hiện tượng bán hàng khơng xuất hố đơn để che dấu doanh
thu đầu ra, nhằm chiếm đoạt tiền thuế giá trị gia tăng người mua đã nộp cho người bán, đồng thời
tránh tối đa nghĩa vụ thuế phải nộp. Các doanh nghiệp liên kết với nhau hình thành đường dây kinh
doanh hóa đơn khống. VD: làm khống hồ sơ xuất khẩu,…Một doanh nghiệp cho ra đời nhiều cơng
ty có đăng kí kinh doanh, có mã số thuế, nhưng địa chỉ giả, nhiều tháng không khai báo thuế, để đi
mua hóa đơn; Bán hàng khơng lập hóa đơn, khơng kê khai doanh thu và tiền thuế giá trị gia tăng;
Bán hàng ghi hóa đơn chênh lệch giữa các liên hóa đơn(giá trị hàng hóa, dịch vụ trên liên giao
khách hàng cao hơn giá trị hàng hóa dịch vụ trên các liên cịn lại…
Bên cạnh đó, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật còn chưa đầy đủ, chưa theo kịp tình
hình thực tế, những cơng cụ thực thi và kiểm sốt của cơ quan Nhà nước cịn hạn chế đã tạo ra mơi
trường kinh doanh thiếu tính cơng bằng, sự đối xử khác nhau về mặt pháp lý, dẫn tới hành vi trốn
và gian lận thuế ở mức tối đa của các doanh nghiệp thuộc quy mơ, thành phần có ưu thế hơn. Từ
hai lí do này đã tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi, bắt buộc các chủ thể kinh doanh phải trốn thuế, lậu
thuế, bóp méo hành vi kinh doanh chân chính. Bởi lẽ, nếu họ kinh doanh chân chính thì họ sẽ bị
thua thiệt, lợi nhuận thấp hoặc không thể tồn tại trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế thị
trường.

10


Do vậy gian lận qua chứng từ, hoá đơn khống hiện nay là một thực trạng đáng sợ. Nó đang
đánh trực tiếp và đánh rất mạnh vào ngân sách nhà nước – trái tim của toàn bộ huyết mạch nền
kinh tế nước ta. Ngồi thất thu và thất thốt ngân sách nhà nước, vấn nạn nêu trên còn gây ra hàng
loạt tác hại khác. Về kinh tế, gian lận trong hoàn thuế giá trị gia tăng chẳng những gây thiệt hại
khổng lồ cho ngân sách quốc gia, mà trốn thuế, gian lận thuế nếu phát triển mạnh cũng sẽ dẫn theo
tệ nạn buôn lậu tăng nhanh, gây ô nhiễm môi trường đầu tư, làm rối loạn sản xuất kinh doanh và
triệt tiêu cạnh tranh lành mạnh. Về xã hội, hiện tượng này nếu không sớm được khắc phục một
cách triệt để và hiệu quả sẽ làm vơ hiệu hố hệ thống quản lý nhà nước và đánh mất lòng tin của
nhân dân đối với Nhà nước.
IV. CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÍ, KẾT QUẢ XỬ LÍ GIAN LẬN TRONG HỒN THUẾ

GIÁ TRỊ GIA TĂNG TRONG 03 NĂM GẦN ĐÂY:
1. Các biện pháp xử lí gian lận trong hồn thuế giá trị gia tăng:
- Quy định của Bộ Tài chính và Chính phủ: Có nhiều mức xử phạt với hành vi trốn và gian lận
thuế như: Phạt cảnh cáo, phạt hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngồi việc phải nộp đủ
số tiền thuế trốn, số tiền thuế gian lận thì cịn bị xử phạt theo số lần tính trên số tiền thuế trốn, số
tiền thuế gian lận.
- Bộ Tài chính đã chỉ đạo quyết liệt các Cục thuế địa phương phải giám sát và theo dõi các
hành vi, thủ đoạn gian lận trong hoàn thuế giá trị gia tăng để kịp thời phối hợp với các cơ quan
chức năng xử lý, kể cả việc điều tra, truy tố và xét xử về hành vi phạm tội này. Phối hợp giữa các
cơ quan như cơ quan thuế, cơ quan hải quan, cơ quan Kiểm tốn nhà nước kiểm tra, xử lí kịp thời
và nghiêm khắc các hành vi vi phạm Trong đó, các biện pháp đã được triển khai cụ thể như:
Một là, giao cho các Cục thuế tổ chức phân loại doanh nghiệp rủi ro cao về thuế và tăng cường
công tác quản lý thuế đối với các doanh nghiệp này trong đó lưu ý các dấu hiệu như:
(i) Các doanh nghiệp kinh doanh, xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy, hải sản sử dụng các
hóa đơn bán hàng của các doanh nghiệp có trụ sở tại các địa phương khơng có nguồn ngun liệu;
(ii) Các doanh nghiệp mới thành lập đăng ký kinh doanh đa ngành nghề nhưng số vốn đăng ký
thấp;
(iii) Các doanh nghiệp có quy mơ kinh doanh bất hợp lý (quy mô kinh doanh cao gấp nhiều lần
so với vốn chủ sở hữu);
(iv) Các doanh nghiệp có giao dịch qua ngân hàng đáng ngờ.
Hai là, giao các Cục Thuế tập trung công tác thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp rủi
ro cao về thuế. Đối với các Cục thuế có đối tượng khấu trừ thuế giá trị gia tăng, hoàn thuế giá trị
gia tăng hàng hóa là cao su, hạt tiêu, cà phê... thì rà sốt và điều chỉnh lại kế hoạch thanh tra, kiểm
tra5 các chủ thể có thể có hành vi vi phạm: Người nộp thuế, Cơ quan thuế, Công chức ngành thuế
và các chủ thể khác (VD: Người biết rõ hành vi vi phạm mà không tố cáo, người được yêu cầu
cung cấp thông tin mà không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin,…)

5 />
11



Kiểm tra, kiểm sốt chặt chẽ cơng tác hồn thuế, đảm bảo việc hồn thuế đúng đối tượng, theo
đúng chính sách pháp luật, giúp các doanh nghiệp chủ động bố trí và sử dụng nguồn lực tài chính
phục vụ cho sản xuất kinh doanh của đơn vị mình một cách tối ưu.
Cải thiện quy trình hồn thuế: Theo đó, từ 1/11/2020, tất cả các doanh nghiệp phải sử dụng
hóa đơn điện tử trong các giao dịch của mình. Đây là một bước đi mạnh mẽ trong việc hạn chế các
gian lận liên quan đến hóa đơn, hạn chế bớt tình trạng sử dụng hóa đơn giả, mua bán hóa đơn bất
hợp pháp. Mặc dù vậy, tình hình chuyển đổi sang áp dụng hóa đơn điện tử ở các địa phương cũng
gặp khó khăn do phần lớn các doanh nghiệp ở Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, siêu nhỏ nên
trình độ ứng dụng cơng nghệ thơng tin cịn hạn chế.
Hệ thống hoàn thuế điện tử được triển khai tại tất cả 63/63 Cục Thuế, đạt 96,2% số doanh
nghiệp và 96,7% số hồ sơ hoàn thuế theo phương thức điện tử. Triển khai thí điểm hóa đơn điện tử
có mã xác thực của cơ quan thuế tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đối với 254 doanh nghiệp đạt
263.991 hóa đơn điện tử. Hiện nay đang xây dựng Thơng tư hướng dẫn thi hành Nghị định số
119/2018/NĐ-CP ngày 12/9/2018 hướng dẫn về hóa đơn điện tử.
Đồng thời, Tổng cục Hải quan chỉ đạo các cục hải quan tỉnh, thành phố chủ động phối hợp với
cục thuế trên địa bàn xây dựng cơ chế trao đổi thông tin liên quan đến hàng hóa XK thuộc đối
tượng được cơ quan thuế hoàn thuế GTGT định kỳ 6 tháng l lần, trong đó cung cấp các thơng tin về
các thủ đoạn gian lận đối với hàng hóa XK (khai sai tên hàng, số lượng, trị giá hoặc sử dụng các
chứng từ tài liệu không hợp pháp để làm thủ tục XK hàng hóa) nhằm mục đích hợp pháp hóa hồ sơ
hồn thuế GTGT, lập danh sách các DN vi phạm chuyển cục thuế để cập nhật thông tin DN vi
phạm trong quá trình thực hiện hồn thuế GTGT.
Cùng với đó, cục hải quan tỉnh, thành phố phối hợp với Cục Kiểm tra sau thông quan, Tổng
cục Hải quan lựa chọn một số doanh nghiệp có dấu hiệu nghi vấn trong việc lợi dụng xuất khẩu để
gian lận hoàn thuế giá trị gia tăng để thực hiện kiểm tra sau thông quan trong năm (có dấu hiệu bất
thường trong khai báo số lượng hàng hóa xuất khẩu như: khai tăng số lượng so với số lượng thực
tế, khai sai tên hàng, khai sai về trị giá hải quan trên tờ khai xuất khẩu; sử dụng các chứng từ tài
liệu không hợp pháp). Trường hợp xác định dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan, căn cứ thông tin
thu thập thực hiện tạm dừng đưa hàng qua khu vực giám sát để kiểm tra theo quy định.
2. Kết quả xử lí gian lận trong hoàn thuế giá trị gia tăng trong 03 năm gần đây:

Năm 2017: Tổng cục Thuế đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, chấn chỉnh công tác thanh tra,
kiểm tra trước và sau hoàn thuế giá trị gia tăng... Từ đó, cơng tác thanh tra, kiểm tra hồn thuế đã
đạt được những kết quả tích cực, hạn chế hành vi gian lận, chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước,
đồng thời nâng số thuế truy thu, truy hoàn vào ngân sách nhà nước. Trong vòng 5 tháng đầu năm
2017, cơ quan thuế các cấp đã thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế giá trị gia tăng với tổng số là 2.141
quyết định hồn thuế trước, kiểm tra sau. Trong đó, QĐ hoàn trước phát sinh năm 2017 đã thanh
tra, kiểm tra là 242 quyết định, quyết định hoàn trước phát sinh trước năm 2017 là 1.899 quyết
định. Tổng số tiền phải thu hồi hoàn, truy hoàn và xử lý vi phạm hành chính với số tiền là 83,2 tỷ
đồng. Tổng số tiền đã nộp ngân sách nhà nước vào khoảng 54,8 tỷ đồng.6

6 />
12


Năm 2019: Tính đến 31/3/2019, cơ quan thuế đã ban hành 4.834 quyết định hoàn thuế với
tổng số tiền thuế giá trị gia tăng được hoàn là 28.726,5 tỷ đồng, bằng 25,6% so với năm 2018, bằng
25,8% so với dự tốn hồn thuế giá trị gia tăng đã được Quốc hội giao.7
Năm 2020: Tổng cục Thuế cho biết, tính đến hết 31/8/2020, cơ quan thuế trên cả nước đã ban
hành 14.541 quyết định hoàn thuế giá trị gia tăng với tổng số tiền thuế hoàn là 82.868,3 tỷ đồng,
bằng 63,7% so với dự tốn hồn thuế giá trị gia tăng năm 2020 đã được Quốc hội thông qua
(130.000 tỷ đồng), bằng 61,9% so với cả năm 2019, bằng 95,8% so với cùng kỳ năm 2019. 8 Cụ thể
đối với từng trường hợp hoàn thuế như sau: Hoàn cho xuất khẩu là 12.786 quyết định với tổng số
tiền được hoàn là 67.418,5 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 81,4% tổng số đã hoàn, bằng 105,2% so với
cùng kỳ năm 2019. Hoàn cho dự án đầu tư là 1.077 quyết định với tổng số tiền được hoàn là
15.055,3 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 18,2% tổng số đã hoàn, bằng 69,7% so với cùng kỳ năm 2019.
Hoàn cho trường hợp khác là 678 quyết định với tổng số tiền được hoàn là 394,5 tỷ đồng, chiếm tỷ
trọng 0,5% tổng số đã hoàn, bằng 50,2% so với cùng kỳ năm 2019.
V. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG GIAN LẬN TRONG HOÀN THUẾ GIÁ TRỊ GIA
TĂNG:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện tốt công tác cải cách thủ tục hành chính thuế; Cắt giảm các thủ tục

khơng cần thiết, rườm rà, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp; Tăng cường quản lý kỷ
cương, phát huy tinh thần trách nhệm của cán bộ thuế trong thực thi công vụ;
Thứ hai, thời gian tới, cơ quan thuế cần tiến hành sắp xếp, bổ sung thêm nguồn nhân lực cho
công tác thanh, kiểm tra;
Thứ ba, tăng cường phối hợp với cơ quan cảnh sát phòng, chống tội phạm về kinh tế để điều
tra, xác minh, đưa ra xử lý cơng khai một số đường dây sử dụng hóa đơn bất hợp pháp chiếm đoạt
tiền thuế, nhằm răn đe, ngăn chặn các tội phạm trốn, chiếm đoạt tiền thuế, góp phần tạo mơi trường
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, bộ phận thanh, kiểm tra của
cơ quan thuế sẽ phối hợp chặt chẽ với bộ phận kê khai, tin học rà soát và quản lý chặt chẽ đối
tượng nộp thuế, phân loại, giám sát các đối tượng có dấu hiệu kinh doanh mua bán hóa đơn bất hợp
pháp. Đồng thời, có giải pháp ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm, chống thất thu cho ngân
sách nhà nước
Thứ tư, tập trung đẩy mạnh ứng dụng tin học; tiếp tục nâng cấp và triển khai phần mềm cho
công tác lập kế hoạch thanh tra trên cơ sở bộ tiêu chí rủi ro; xây dựng và triển khai phần mềm ứng
dụng kiểm tra hồ sơ khai thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp tại trụ sở cơ quan thuế. Đồng thời,
tập trung cập nhật dữ liệu người nộp thuế vào hệ thống cơ sở dữ liệu của ngành để tạo cơ sở nền
tảng cho việc hiện đại hóa, nhằm phát huy hiệu quả thanh, kiểm tra.
Thứ sáu, bù trừ số thuế giá trị gia tăng chưa khấu trừ hết với số thuế khác còn phải nộp của
doanh nghiệp. Giải pháp này nhằm hạn chế chi tiền từ ngân sách, tuy nhiên lại gây phức tạp cho cơ
quan thuế khi theo dõi nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp.

7 />dDocName=MOFUCM150629&_afrLoop=2249833991781466#%40%3F_afrLoop
%3D2249833991781466%26dDocName%3DMOFUCM150629%26_adf.ctrl-state%3Dq40xldkip_177
8 />
13


Thứ bảy, có thể tạo cơ chế giảm bớt phát sinh thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với những
trường hợp thường hay phát sinh hoàn thuế, nhất là khâu xuất khẩu.9


9 Theo tạp chí tài chính - />
14


KẾT LUẬN
Thuế giá trị gia tăng từ khi ra đời đến nay luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm, đặc biệt là tư
phía các nhà kinh doanh, chứng tỏ nó là loại thuế quan trọng và chiếm tỉ trọng cao, góp phần đáng
kể trong việc giải quyết nhu cầu chi tiêu của Chính phủ. Thuế giá trị gia tăng hỗ trợ tốt cho hđ xuất
khẩu do điều kiện ưu đãi về thuế suất, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xk được hoàn thuế đầu
vào, giúp cho nhà xk giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh, khuyến khích XK. Do đặc thù cơ chế
khấu trừ của thuế giá trị gia tăng buộc các cơ sở kinh doanh phải sử dụng chứng từ hóa đơn khi bán
và mua hh từ đó giúp việc quản lí thuế chặt chẽ hơn. Tuy nhiên cơ chế khấu trừ cũng là kẽ hở để
doanh nghiệp thực hiện hành vi gian lận bằng vệc kê khai hóa đơn giá trị gia tăng và chiếm đoạt
tiền thuế nhà nước qua việc hoàn thuế. Việc hồn thuế giá trị gia tăng có bản chất ưu đãi, hỗ trợ,
khuyến khích các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh; đảm bảo sự ổn định bền vững
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Đồng thời việc hoàn thuế; phải được
dựa trên quy định pháp lý của nhà nước trong việc quản lý thuế; đảm bảo công bằng xã hội trong
việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách Nhà nước; góp phần xây dựng trật tự kỷ cương
trong lĩnh vực tài chính.
Vì vậy, cần có những hướng giải pháp mới trong thời gian sớm nhất để hạn chế thấp nhất có
thể việc gian lận trong hồn thuế, đảm bảo lợi ích giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế
giá trị gia tăng.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cơ sở lí thuyết và những hạn chế, bất cập của chế định hoàn thuế giá trị gia tăng trong pháp
luật Việt Nam / Nguyễn Văn Tuyến // Luật học. Số 6/2018, tr. 60 - 71.
2. Hồn thuế nhìn từ góp độ pháp lý / Nguyễn Thị Thương Huyền // Tạp chí Luạt học Số

6/2001, tr.28-31.
3. Lý luận và thực tiễn về hoàn thuế giá trị gia tăng theo quy định của pháp luật hiện hành :
khố luận tốt nghiệp / Ngơ Thị Kim Dung ; Nguyễn Đức Ngọc hướng dẫn
4. Một số biện pháp pháp lý trong việc quản lý chế độ hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam
hiện nay : khoá luận tốt nghiệp / Vũ Minh Nhã ; TS. Phạm Thị Giang Thu hướng dẫn
5. Một số vấn đề về khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng theo pháp luật thuế ở Việt Nam /
Nguyễn Khánh Linh, Nguyễn Xuân Bắc // Tòa án nhân dân. Số 14/2018, tr. 14 - 18, 47.
6. Pháp luật về hoàn thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay : khoá luận tốt nghiệp / Ngô Thị
Ngọc Anh ; TS. Nguyễn Minh Hằng hướng dẫn
7. />8.
Công tác thanh tra, kiểm tra trong hồn thuế giá trị
gia tăng
9. Thơng tư 99/2016/TT-BTC hướng dẫn về quản lý hoàn thuế giá trị gia tăng
10. Giải pháp chống gian lận trong hoàn thuế giá trị gia
tăng
11. Lê Thị Hòa - Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp 16:57 10/07/2014
/>12. />13. Công tác thanh tra, kiểm tra trong hoàn thuế giá trị gia tăng />14.
/>15. />dDocName=MOFUCM150629&_afrLoop=2249833991781466#%40%3F_afrLoop
%3D2249833991781466%26dDocName%3DMOFUCM150629%26_adf.ctrl-state
%3Dq40xldkip_177

16


16. Kỷ yếu hội thảo khoa học “Gian lận trong khấu trừ thuế, hoàn thuế và hướng hoàn thiện
thuế GTGT trong tiến trình hội nhập AFTA (CEPT)” – Tháng 1/2003

17



PHỤ LỤC
CÁC HÀNH VI GIAN LẬN HOÀN THUẾ GTGT CHỦ YẾU CỦA DOANH NGHIỆP
(Nguồn bài viết: />Thứ nhất, tăng thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ và giảm thuế giá trị gia tăng
đầu ra phải nộp.
Cụ thể, theo quy định, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa sẽ có thuế suất thuế giá trị gia
tăng là 0% nên các đơn vị xuất khẩu sẽ được hoàn lại thuế giá trị gia tăng, do đó doanh nghiệp tìm
cách lập hồ sơ hàng bán ra là “xuất khẩu” để có số thuế giá trị gia tăng bằng khơng (0). Khi đó,
doanh nghiệp sẽ được Nhà nước hồn tồn bộ số thuế giá trị gia tăng đầu vào hoặc giảm số thuế
phải nộp (nếu có).
Ở mức độ phức tạp, doanh nghiệp đăng ký kinh doanh với rất nhiều ngành nghề, nhưng thực tế
khơng có trụ sở kinh doanh, kho hàng, thành lập ra doanh nghiệp là để bán hóa đơn giá trị gia tăng
cho các cá nhân và tổ chức hoạt động kinh doanh khác sử dụng vào việc hợp thức hàng hóa bn
lậu, trốn thuế hoặc chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng của Nhà nước.
Hành vi gian lận trong hoàn thuế giá trị gia tăng đang được thực hiện với hình thức ngày càng
tinh vi như thành lập nhiều doanh nghiệp trung gian ở nhiều nơi khác nhau, lập hồ sơ khống…
nhằm hạn chế sự kiểm soát của cơ quan thuế.
Thứ hai, hành vi tăng thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ:
Theo đó, doanh nghiệp kê khai khấu trừ thuế giá trị gia tăng các hố đơn bất hợp pháp, hóa
đơn giả, hóa đơn chưa có giá trị sử dụng, hết giá trị sử dụng… doanh nghiệp khấu trừ thuế giá trị
gia tăng của hàng hóa-dịch vụ khơng phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc kê
khai khấu trừ các hóa đơn dùng cho cá nhân, gia đình khơng mang tên, mã số thuế của công ty.
doanh nghiệp kê khai thuế giá trị gia tăng được khấu trừ không đúng với ngày chứng từ nộp thuế
giá trị gia tăng ở khâu nhập khẩu (giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước); doanh nghiệp không
phân bổ hoặc phân bổ sai thuế giá trị gia tăng đầu vào cho mặt hàng chịu thuế và không chịu thuế.
Thứ ba, hành vi giảm thuế giá trị gia tăng đầu ra:
Các sai phạm về thuế giá trị gia tăng đầu ra chủ yếu tập trung vào việc giảm doanh thu và thuế
giá trị gia tăng đầu ra. Nghiêm trọng hơn là hiện tượng bán hàng khơng xuất hố đơn để che dấu
doanh thu đầu ra, nhằm chiếm đoạt tiền thuế giá trị gia tăng người mua đã nộp cho người bán,
đồng thời tránh tối đa nghĩa vụ thuế phải nộp. Có thể thống kê ra một số hành vi của các doanh
nghiệp: Một số doanh nghiệp không kê khai hoặc kê khai thiếu doanh thu tính thuế giá trị gia tăng

của hoạt động xây dựng, kinh doanh bất động sản (xây nhà để bán). Phần lớn doanh nghiệp gian
lận bằng cách xuất hoá đơn chưa kịp thời hoặc hàng hố, dịch vụ đã hồn thành bàn giao nhưng
chưa thu được tiền của khách hàng nên chưa ghi nhận doanh thu và xuất hoá đơn. doanh nghiệp
chủ yếu kê khai doanh thu và thuế giá trị gia tăng theo giá trị đã thanh toán tiền mà không kê khai
doanh thu theo biên bản nghiệm thu cơng trình bàn giao, hoặc thu tiền của khách hàng theo tiến độ
hợp đồng nhưng chưa kê khai thuế giá trị gia tăng theo quy định. Mục đích của việc này là tránh
doanh thu, hoặc điều chuyển số thuế giá trị gia tăng hàng tháng, tránh bật dương thuế quá lớn, ảnh
hưởng đến dòng tiền và nghĩa vụ phải nộp.

18


Việc khai thiếu thuế giá trị gia tăng đầu ra cịn xảy ra ở khâu hàng hố tiêu dùng nội bộ: doanh
nghiệp thường “lờ đi” việc khai thuế giá trị gia tăng vì cho rằng đây là việc tiêu dùng nội bộ, không
phát sinh doanh thu, lợi nhuận và cơ quan thuế cũng ít để ý đến nên đã “bỏ qua” khoản thuế đầu ra
này. “Chiêu” gian lận này cũng lặp lại ở doanh thu xuất cho chi nhánh, doanh nghiệp thường kê
khai thiếu hoặc không kê khai thuế giá trị gia tăng.
Thứ tư, điều chỉnh thuế giá trị gia tăng đầu vào và đầu ra không đúng quy định:
Nhiều doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở cán bộ thanh tra chỉ kiểm tra tính hợp lý của bảng kê
(chấm hóa đơn) mà không để ý đến các khoản điều chỉnh tăng, giảm thuế giá trị gia tăng của kỳ
trước nên doanh nghiệp đã cố tình điều chỉnh giảm doanh thu và thuế giá trị gia tăng đầu ra (giảm)
và điều chỉnh tăng thuế giá trị gia tăng đầu vào của kỳ trước (tăng) không đủ cơ sở, các khoản điều
chỉnh khơng có hóa đơn, chứng từ kèm theo chứng minh, dẫn đến giảm thuế giá trị gia tăng phải
nộp kỳ này hoặc tăng thuế giá trị gia tăng được khấu trừ chuyển sang kỳ sau nhằm gian lận thuế.
Thứ năm, xác định sai thuế suất đối với hàng hoá, dịch vụ:
Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh còn gian lận thuế giá trị gia tăng bằng cách “nhập
nhèm” thuế suất. Lợi dụng chính sách kích cầu, giảm khó khăn cho các doanh nghiệp của Chính
phủ, doanh nghiệp kê khai sai thuế suất của một số mặt hàng được giảm thuế suất 50% xác định
không đúng đối tượng hoặc trên cùng hố đơn có mặt hàng được giảm và khơng được giảm nhưng
khơng tách riêng. Việc cố tình kê nhầm thuế suất thuế đầu ra kê khai thuế giá trị gia tăng mặt hàng

chịu thuế suất 10% thành mặt hàng chịu thuế suất thấp hơn là 5%, hoặc đưa mặt hàng thuộc diện
chịu thuế sang mặt hàng không chịu thuế; Cố tình “khai man” thuế đầu vào khai thuế suất 5% (vận
chuyển, hàng nông sản, đất, đá, cát sỏi) thành 10% để được tăng khấu trừ hoặc hoàn thuế cũng diễn
ra phổ biến ở các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng được ưu đãi thuế suất.

19



×