Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng của đảng bộ huyện hậu lộc, tỉnh thanh hóa trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 125 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
***

TRỊNH QUỐC PHƯỢNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA
ĐẢNG BỘ HUYỆN HẬU LỘC, TỈNH THANH HÓA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2017


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
***

TRỊNH QUỐC PHƯỢNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA
ĐẢNG BỘ HUYỆN HẬU LỘC, TỈNH THANH HÓA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01



ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Viết Quang

Nghệ An, 2017


3

LỜI CÁM ƠN
Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến: Ban Lãnh đạo nhà trường, Phòng
đào tạo Sau đại học, Khoa Giáo dục Chính trị trường Đại học Vinh đã tạo điều kiện
thuận lợi cho chúng tôi được học tập, rèn luyện.
Xin chân thành cảm ơn các nhà giáo, các nhà khoa học đã nhiệt tình giảng
dạy, giúp đỡ chúng tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt,
PGS.TS. Trần Viết Quang - người hướng dẫn khoa học đã tận tình, quan tâm
định hướng, hỗ trợ tơi trong suốt q trình hồn thành luận văn tốt nghiệp
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn lãnh đạo cơ quan Huyện ủy, HĐND, UBND
huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, UBND các xã, Thị trấn cùng các đồng chí lãnh
đạo, cán bộ huyện Hậu Lộc, Phịng Thống kê Hậu Lộc, cán bộ Lưu trữ Văn phòng
Huyện ủy, Ban tuyên giáo Huyện ủy, Trung tâm chính trị huyện đã cung cấp cho tôi
những tư liệu hết sức quý báu để tơi hồn thành luận văn này.
Tơi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến những người thân
trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người đã ln động viên, khích lệ, tạo
mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và
thực hiện đề tài.
Nghệ An, tháng 8 năm 2017
Tác giả luận văn

Trịnh Quốc Phượng



4
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN

2

MỤC LỤC

3

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN

4

KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

5

A. MỞ ĐẦU

6

B. NỘI DUNG

12

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠNG TÁC

TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

12

1.1. Tư tưởng và cơng tác tư tưởng

12

1.2. Nội dung công tác tư tưởng của Đảng

16

1.3. Vai trị cơng tác tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay

25

1.4. Tiêu chí đánh giá chất lượng cơng tác tư tưởng

36

Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA
ĐẢNG BỘ HUYỆN HẬU LỘC, TỈNH THANH HÓA

47

2.1. Khái quát về huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa và Đảng bộ
huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa

47


2.2. Tình hình cơng tác cơng tác tư tưởng của Đảng bộ huyện
Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa hiện nay

64

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG BỘ
HUYỆN HẬU LỘC, TỈNH THANH HÓA

88

3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng công tác tư tưởng ở Đảng
bộ huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa

88

3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tư tưởng
của Đảng bộ huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa hiện nay

100

C. KẾT LUẬN

113

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

115



5
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN VĂN
Trang
Biểu 2.1. Tỷ trọng kinh tế huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa

51

Biểu 2.2. Cơ cấu độ tuổi Ban chấp hành Đảng bộ huyện Hậu Lộc,

61

tỉnh Thanh Hóa


6
KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
1CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

2CNH, HĐH

:

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

3GD-ĐT


:

Giáo dục – Đào tạo

4HĐND

:

Hội đồng nhân dân

5HTNV

:

Hoàn thành nhiệm vụ

6MTTQ

:

Mặt trận Tổ quốc

7TSVM

:

Trong sạch vững mạnh

8UBND


:

Ủy ban nhân dân

9UBKT
10 XHCN

Ủy ban kiểm tra
Xã hội chủ nghĩa


7
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác tư tưởng là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng, quyết định đến
nhận thức về chính trị, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền thống cách
mạng và đạo đức của Đảng; những kiến thức mới về khoa học cơng nghệ, kinh tế,
văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh;… nhằm xây dựng lập trường tư tưởng vững
vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn đã cho thấy, từ khi Đảng ta ra đời cho đến nay, cơng tác tư tưởng
đã có những đóng góp xứng đáng vào mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam,
khẳng định tầm quan trọng và vai trị của cơng tác tư tưởng đối với sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc, xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Hiện nay
tình hình chính trị quốc gia đang chịu nhiều ảnh hưởng bởi những diễn biến phức
tạp trong và ngoài nước. Các thế lực thù địch ln tìm mọi cách xuyên tạc lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chống lại chế độ XHCN ở nước ta;
tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường làm băng hoại phẩm chất đạo đức con
người, trong đó có một bộ phận cán bộ, Đảng viên. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện
nay, hiện tượng mất đoàn kết trong nội bộ Đảng, tự dao động, tự diễn biến, tự

chuyển hố và mất lịng tin vào Đảng, vào chế độ, đang là nguy cơ đối với đảng
cầm quyền. Vì vậy, việc tăng cường hiệu quả công tác tư tưởng là vấn đề mang tính
thời sự và cấp bách của Đảng hiện nay.
Lĩnh vực tư tưởng và chất lượng công tác tư tưởng nói chung đã thu hút được
nhiều nhà khoa học, nhà lãnh đạo, người làm cơng tác chính trị quan tâm, nghiên
cứu trong thời gian dài.
Các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến những vấn đề lý luận về chất
lượng công tác giáo dục tư tưởng cho cán bộ, đảng viên: Các tác phẩm dựa trên


8
quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, phân tích, nhìn nhận, đánh giá dựa trên thực
tiễn của quốc gia, dân tộc cụ thể. Trên cơ sở dự báo diễn biến tình hình trong giai
đoạn tiếp theo để có những nhận định khoa học về tư tưởng, đề xuất giải pháp nâng
cao chất lượng công tác tư tưởng. Đồng thời các cơng trình khoa học này cũng
nhận định về vai trị, vị trí của cơng tác tư tưởng của Đảng trong sự nghiệp cách
mạng Việt Nam. Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến công tác tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên ở Việt Nam như: Văn kiện của Đảng về cơng tác tư tưởng - văn
hóa, tập I của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2000), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội; "Một số vấn đề về công tác lý luận tư tưởng và văn hóa" của Nguyễn
Đức Bình (2001), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; "Đổi mới và nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác tư tưởng" của Hà Học Hợi (chủ biên) (2002), Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội; "Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam" của Đào
Duy Quát (2004), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội …
Các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến thực trạng chất lượng cơng tác
giáo dục tư tưởng cho cán bộ, đảng viên có các cơng trình sách như: "Một số vấn
đề về cơng tác tư tưởng" của Đào Duy Tùng (1999), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội; "Tăng cường giáo dục, rèn luyện chính trị tư tưởng, đạo đức cách mạng, nâng
cao năng lực hoạt động thực tiễn cho cán bộ đảng viên trong tình hình mới" của
Đại tá Phạm Quang Định, Phạm Bá Toàn, Nguyễn Đức Hùng (chỉ đạo nội dung),

(2007) Nxb. Quân đội nhân dân; "Công tác tư tưởng, lý luận thời kỳ mới: Thực
trạng, quan điểm và giải pháp" của Phạm Tất Thắng (chủ biên) (2010), Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội…
Các cơng trình khoa học sau đây đã dựa trên sự đánh giá đúng thực trạng của
chủ thể công tác tư tưởng, hoạt động tư tưởng để đánh giá sâu hơn thực trạng của
công tác tư tưởng trong mỗi giai đoạn, trên cơ sở nhìn nhận theo quan điểm lý luận
khoa học, các tác giả đã đề ra nhiều giải pháp để giải quyết vấn đề, nhất là nâng cao
chất lượng hoạt động công tác tư tưởng của Đảng ta hiện nay. Một là các cơng trình


9
sách liên quan đến vấn đề này: "Những giải pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn và đẩy
lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị của cán bộ, Đảng viên ở nước ta hiện nay" của
Lương Khắc Hiếu (2005), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; "Đổi mới công tác tư
tưởng, lý luận trong tình hình mới" của Phạm Tất Thắng (chủ biên) (2010), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội…
Các đề tài, luận văn, luận án có liên quan: Đề tài cấp bộ (2009): "Giáo dục
chính trị - tư tưởng cho sinh viên Việt Nam hiện nay", do PGS. TS Trần Thị Anh
Đào chủ biên; Đề tài khoa học cấp bộ (2000 - 2001): "Phương thức đào tạo cán bộ
ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trong thời kỳ mới", do TS Trần Ngọc Uẩn
(Chủ biên); Luận án của Cầm Thị Lai (2010) về "Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính
trị, hành chính cho đội ngũ cán bộ cấp xã ở các tỉnh Tây Bắc giai đoạn hiện nay";
Luận văn thạc sĩ của Vũ Anh Tuấn (2010): "Chất lượng giáo dục chính trị - tư
tưởng cho sinh viên các trường cao đẳng ở tỉnh Thái Nguyên: Thực trạng và giải pháp”
Các bài viết được đăng trên các trang web, tạp chí có liên quan: "Đổi mới
cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng góp phần thực hiện hiệu quả Nghị quyết
Trung ương 4" của Dương Trung Ý đăng trên website Tạp chí Tuyên giáo số 7,
ngày 05/9/2015; "Một số giải pháp phịng, chống suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay" của Vũ Văn Phúc
đăng trên trang thông tin điện tử nhà xuất bản chính trị quốc gia - Sự thật, ngày

19/3/2015…
Nhìn chung, các cơng trình khoa học, hội thảo, luận án, luận văn, các bài viết
nêu trên đã tiếp cận và nghiên cứu sâu sắc nhiều góc độ khác nhau về cơng tác tư
tưởng nói chung và cơng tác giáo dục chính trị - tư tưởng nói riêng, có nhiều cơng
trình nghiên cứu đã đặt ra những vấn đề rất cơ bản cả về lý luận lẫn thực tiễn, nêu
những thành tựu, những hạn chế, yếu kém, đề ra những phương hướng và giải pháp
để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ đảng viên. Sự kế thừa có


10
chọn lọc các cơng trình nghiên cứu, tài liệu q từ trước đến nay sẽ tạo điều kiện
cho luận văn được hoàn chỉnh và khả thi.
Trong bối cảnh chung của đất nước, với tình hình thực tế của địa phương,
Đảng bộ huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa ln xác định cơng tác tư tưởng là cơng
tác trọng tâm của tồn Đảng bộ, là nhiệm vụ chính trị quan trọng của mỗi cấp uỷ,
của mỗi cán bộ, đảng viên và các tổ chức trong hệ thống chính trị, là một trong ba
mặt của công tác xây dựng Đảng. Trong những năm qua Đảng bộ huyện đã tích cực
kiện tồn bộ máy làm cơng tác tư tưởng, đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp
hoạt động, vận dụng sáng tạo bài học về sức mạnh tổng hợp vào công tác tư tưởng.
Nhờ vậy chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng được nâng cao, góp phần tăng
cường sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó
vẫn cịn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cần phải được tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
Từ những kiến thức lý luận được học tập và nghiên cứu, xuất phát từ yêu cầu thực
tiễn về đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
nhất là công tác tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay, tơi chọn đề tài "Nâng
cao hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng bộ huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa
trong giai đoạn hiện nay", làm luận văn tốt nghiệp Cao học chính trị của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng công tác tư tưởng
ở Đảng bộ huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, đề xuất một quan điểm và giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của Đảng bộ huyện hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về tư tưởng và công tác tư tưởng của Đảng.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác tư tưởng ở Đảng bộ huyện Hậu Lộc,
tỉnh Thanh Hóa hiện nay.


11
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tư
tưởng ở Đảng bộ huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề tư tưởng, công tác tư tưởng, giải pháp chất
lượng công tác tư tưởng của Đảng bộ huyện.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chất lượng công tác tư tưởng của Đảng bộ huyện Hậu
Lộc, tỉnh Thanh Hóa từ năm 2010 đến năm 2016 và đề xuất giải pháp trong giai
đoạn năm 2017 đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng Cộng Sản Việt Nam về tư
tưởng và công tác tư tưởng.
- Đề tài tiếp cận một cách có hệ thống những tiền đề lý luận về tư tưởng và
công tác tư tưởng, đồng thời tiếp thu, kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của
các cơng trình khoa học có liên quan để tổng kết và đánh giá thực tiễn, đề xuất
những giải pháp nâng cao chất lượng của công tác này.
- Phương pháp thu thập, nghiên cứu tài liệu: Trên cơ sở lý thuyết những bộ
môn đã học kết hợp với việc tìm đọc và chọn lọc nội dung những tác phẩm, ấn
phẩm có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp khảo sát thực tế: Tiến hành đi cơ sở khảo sát thực tế cơ sở để

thu thập thông tin.


12
- Phương pháp xử lý thông tin logic: Trên cơ sở những thông tin thu thập
được, bằng phương pháp logic học, những thông tin ấy sẽ được kết nối chặt chẽ với
nhau giúp cho luận văn có tính thuyết phục.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Tiếp cận và luận giải một cách có hệ thống các tư tưởng, quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về chất
lượng cơng tác tư tưởng của Đảng.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng, xác định rõ nguyên nhân và tổng kết
những bài học, kinh nghiệm góp phần làm sáng tỏ yêu cầu cấp thiết phải nâng cao
chất lượng công tác tư tưởng của Đảng cho cán bộ, đảng viên ở huyện Hậu Lộc,
tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao
chất lượng cơng tác tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh
Hóa trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn thành công sẽ là tài liệu tham khảo đối với các cá nhân, tập thể,
các cơ quan quan tâm đến công tác tư tưởng nói chung và cơng tác tư tưởng của
Đảng bộ huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương, 9 tiết.


13
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG
1.1. Tư tưởng và công tác tư tưởng

1.1.1. Tư tưởng
Khái niệm tư tưởng được nhìn nhận và nghiên cứu ở nhiều góc độ, với nhân
sinh quan khoa học và cách tiếp cận khác nhau. Theo Từ điển triết học: "Tư tưởng
là hình thức phản ánh thế giới bên ngồi, trong đó bao hàm sự ý thức về mục đích
và triển vọng của việc tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới bên ngoài. Tư tưởng
khái quát hoá kinh nghiệm của sự phát triển tri thức trước đó và được dùng làm
ngun tác để giải thích các hiện tượng" [30].
Theo từ điển Wikipedia “ Tư tưởng là hệ thống các mục đích và quan niệm
giúp điều chỉnh mục tiêu, dự tính và hành động của con người. Một tư tưởng có thể
hiểu như một tầm nhìn bao quát, như cách thức để xem xét sự vật, thường gặp
trong một vài trường phái triết học trong xã hội” [31].
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: "Mọi tư tưởng đều bắt nguồn từ
kinh nghiệm và là sự phản ánh sự vật, hiện tượng, quá trình của thế giới khách
quan. Tư tưởng còn xác định các con đường để cải tạo thế giới khách quan ấy. Vì
vậy nội dung của bất kỳ tư tưởng nào cũng đều có việc đề ra mục đích và qui định
nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn. Sau khi xuất hiện tư tưởng có tính độc lập tương
đối và ảnh hưởng tích cực trở lại sự phát triển của hiện thực." [39, tr.629]. Các Mác
nhận định: "Tư tưởng xưa và nay không thể đưa người ta vượt ra ngoài trật tự thế
giới cũ, nhiều lắm chúng cũng chỉ có thể đưa người ta vượt ra ngoài phạm vi tư
tưởng của trật tự thế giới cũ mà thơi. Tư tưởng nói chung khơng thể thực hiện được
gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng được lực
lượng thực tiễn".[39, tr. 652], "…Tư tưởng là phần ý thức hình thành chủ yếu do


14
tác động xã hội bao gồm lý tưởng, hoài bão, ước mơ, ý chí, phương hướng, nhiệm
vụ, phương châm hành động, kinh nghiệm...." [39, tr.683].
Có thể nói, có khá nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về khái niệm
tư tưởng, nhưng đều có quan điểm chung là nói đến tư tưởng là nói đến sự phản
ánh hiện thực trong ý thức, là sự suy nghĩ, hay ý nghĩ của con người. Tuy nhiên

không phải sự phản ánh hay sự suy nghĩ nào cũng đều được coi là tư tưởng; chỉ khi
nào, sự phản ánh, sự suy nghĩ đó phát triển đến một trình độ khái quát nhất định, nó
trở thành kinh nghiệm và hiểu biết của con người về một vấn đề nhất định, về thế
giới tự nhiên, về xã hội và con người, thì sự khái quát đó của suy nghĩ mới được coi
là tư tưởng.
Là một phạm trù thuộc ý thức xã hội, tư tưởng vừa có sự thụ động nhất định
so với những thay đổi của tồi tại xã hội vừa có khả năng vượt trước, tức là tư tưởng
có khả năng dự báo và trên cơ sở dự báo đó, đề ra mục tiêu, chương trình, kế
hoạch, dự định nhằm tiếp tục nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan đó. Như
vậy, chúng ta có thể hiểu rằng: Tư tưởng là một hình thức tồn tại (một bộ phận) của
ý thức xã hội, là kết quả của quá trình nhận thức hiện thực khách quan, hình thành
nên những quan niệm, quan điểm của con người (của cá nhân, cộng đồng người,
giai cấp xã hội) nhằm phản ánh hiện thực khách quan, biểu thị thái độ của con
người đối với hiện thực đó và nhằm phục vụ lợi ích của con người theo một mục
đích nhất định.
Trong cuộc sống có nhiều tư tưởng khác nhau. Các tư tưởng tương tác với
nhau, tập hợp lại với nhau một cách tự nhiên thành một chuỗi các nhận thức, được
thừa nhận và bị loại bỏ theo quy luật tự nhiên. Là công cụ của nhận thức, tư tưởng
thể hiện thông qua các hành vi, cả những hành vi của tư duy lẫn hành vi bản năng.
Tư tưởng được liên tục lựa chọn bởi các cá nhân cụ thể và có vai trị định hướng
hành động.


15
1.1.2. Hệ tư tưởng
Hệ tư tưởng là hệ thống những quan điểm và tư tưởng: chính trị, luật pháp,
đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo, triết học... Hệ tư tưởng là một bộ phận của kiến trúc
thượng tầng và với tính cách là kiến trúc thượng tầng, xét cho cùng, phản ánh
những quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội đang tồn tại.
Hệ tư tưởng là sản phẩm của xã hội có giai cấp, do đó hệ tư tưởng ln mang

tính giai cấp; phản ánh vị trí lợi ích của một giai cấp. Hệ tư tưởng thường gắn liền
với giai cấp đại diện cho một phương thức sản xuất nhất định về các vấn đề: chính
trị, luật pháp, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo, triết học nhằm phản ánh và bảo vệ lợi
ích của giai cấp đó. Các giai cấp thống trị, qua những nhà tư tưởng của mình tiếp
tục phát triển, hoàn thiện hệ tư tưởng; xây dựng các mục tiêu, chương trình, thiết
chế để bảo vệ và truyền bá tư tưởng đó trong xã hội.
Nói về vai trị của tư tưởng, lý luận, C.Mác đã khẳng định: "Vũ khí của sự
phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật
chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành
lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [38,tr.580]. Như vậy, hệ
tư tưởng của một giai cấp gắn liền với lợi ích của giai cấp đó nên cuộc đấu tranh tư
tưởng, đấu tranh ý thức hệ là cuộc đấu tranh giai cấp rất quyết liệt. Có thể nói,
trong cuộc đấu tranh giai cấp, tư tưởng, lý luận có vai trị rất quan trọng.
1.1.3. Công tác tư tưởng
Lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần
chúng, vì vậy, cơng tác tư tưởng có tầm quan trọng, nó khơng những đóng vai trị
định hướng, dẫn đường, là cơ sở của các hoạt động thực tiễn, mà cịn là sức mạnh
góp phần cải biến hiện thực. Theo quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin,
cơng tác tư tưởng có vai trị rất lớn, do đó, Đảng của giai cấp vơ sản cần phải xác
định công tác tư tưởng là một nhiệm vụ quan trọng và phải được tiến hành thường


16
xuyên trong suốt quá trình thực hiện mục tiêu của Đảng. Từ thực tiễn phát triển của
xã hội loài người và trên cơ sở học thuyết mác xít có thể khẳng định, cơng tác tư
tưởng hình thành từ khi xã hội có giai cấp. Mọi chính đảng, nhà nước đều tiến hành
cơng tác tư tưởng và coi đó là hoạt động quan trọng bậc nhất của mình.
Nếu xét theo quá trình hình thành, phát triển và truyền bá hệ tư tưởng của
giai cấp giữ vị trí thống trị trong lịch sử thì “Cơng tác tư tưởng là hoạt động có mục
đích của một giai cấp, một chính đảng, nhằm hình thành và phát triển hệ tư tưởng,

truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích
của chủ thể hệ tư tưởng” [28, tr.11-12]. Nếu tiếp cận theo quan điểm của giai cấp
vô sản thì “Cơng tác tư tưởng là hoạt động đa dạng và quan trọng vào bậc nhất của
Đảng Mác-Lênin và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhằm xây dựng, xác lập, phát triển
hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, hình thành niềm tin, định hướng giá trị đúng đắn, góp
phần xây dựng thế giới quan khoa học cho con người, thúc đẩy con người hành
động tích cực và sáng tạo, để thực hiện thắng lợi lý tưởng và mục tiêu xã hội chủ
nghĩa” [28, tr.23]. Cũng theo cách tiếp cận này, công tác tư tưởng là một bộ phận
cấu thành rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động cách mạng của Đảng. Công tác tư
tưởng cùng với công tác tổ chức góp phần xây dựng Đảng thành đội tiền phong, bộ
tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó có nhiệm vụ
giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối, chủ trương của Đảng cho cán bộ, đảng
viên và quần chúng, nhằm nâng cao tính tự giác, chủ động, sáng tạo của họ trong
việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra; đồng thời nó cũng
góp phần vào việc hình thành đường lối, chủ trương của Đảng…góp phần xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa.
Nhận định của tác giả Trần Thị Anh Đào: Công tác tư tưởng ở Việt Nam
hiện nay là hoạt động tư tưởng có mục đích của giai cấp công nhân Việt Nam do
Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thơng qua Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội, cơng tác tư tưởng có nhiệm vụ bảo vệ, phát triển và truyền bá chủ nghĩa Mác -


17
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thông
tin theo định hướng của Đảng trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội. Công tác tư
tưởng nhằm xây dựng ý thức xã hội chủ nghĩa; định hướng giá trị xã hội đúng đắn;
hình thành niềm tin cách mạng có căn cứ khoa học, thúc đẩy quần chúng tích cực
tham gia vào sự nghiệp cơng nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước
vững chắc tiến lên chủ nghĩa xã hội…

Như vậy, theo nghĩa chung nhất, công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích
của một giai cấp, một chính đảng, nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư
tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể tư
tưởng. Công tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động có mục đích của Đảng
Cộng sản, nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa
thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội; hình thành,
phát triển, truyền bá cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng trong xã hội, cổ vũ
động viên mọi người hành động chủ động, tích cực, sáng tạo vì lý tưởng, mục tiêu
xã hội chủ nghĩa; đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái phản động; bảo vệ
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, giữ
gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
Xuất phát từ quan điểm mácxít và từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta
khẳng định rằng, công tác tư tưởng phải coi trọng phương châm lý luận đi đôi với
thực tiễn, nói đi đơi với làm. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Thực tiễn khơng có lý
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực
tiễn là lý luận suông” [27, tr.496].
1.2. Nội dung công tác tư tưởng của Đảng
1.2.1. Công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng
Cơng tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng là nội dung quan trọng hàng
đầu, nhằm bồi dưỡng, nâng cao nhận thức lý luận chính trị, lịng u nước, u q


18
hương, tình cảm cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, thông qua việc tổ
chức nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Công tác giáo dục lý luận chính trị tạo nên sự nhất trí, tin tưởng
và quyết tâm thực hiện thắng lợi các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng là bộ phận đặc biệt quan trọng trong
tồn bộ hoạt động của Đảng, ln song hành với việc thực hiện các chủ trương,

đường lối, chính sách của Đảng cũng như việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ
chức đảng và đảng viên. Không những thế, công tác giáo dục chính trị tư tưởng cịn
phải đi trước, mở đường cho việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất
là đối với những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp hoặc ở những thời điểm có tính bước
ngoặt của cách mạng. Nhận thức được vấn đề đó, trong suốt q trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta ln coi trọng và thực hiện có hiệu quả cơng tác này.
Từ Đại hội VII của Đảng xác định rõ: "Công tác chính trị tư tưởng có nhiệm
vụ làm cho thế giới quan Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh thấm nhuần trong
đảng và giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, nâng cao ý chí phấn đấu,
xây dựng niềm tin vững chắc vào con đường XHCN, đấu tranh không khoan
nhượng với các luận điệu xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, xây dựng
phương pháp tư duy khoa học, chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm
và chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc; khắc phục những biểu hiện bi quan, dao
động, giảm sút ý chí phấn đấu, bảo thủ trì trệ, chủ quan nóng vội. Đặc biệt, chú
trọng giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ". [14, tr.491].
Trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, cơng tác giáo dục chính trị tư
tưởng đã có những đóng góp hết sức quan trọng, góp phần tạo nên những thắng lợi
và thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước, đưa thế và lực của nước ta ngày càng
được nâng lên. Đại hội XII và Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) tiếp tục khẳng
định: Cơng tác tun truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới. Coi trọng hơn


19
nhiệm vụ xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; tập trung chỉ đạo
có hiệu quả Chỉ thị số 05 của Bộ chính trị về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh", gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; chủ động hơn trong đấu tranh chống "diễn biến hồ bình", bác bỏ các quan
điểm sai trái, luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch… Đa số cán bộ, đảng
viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới
và triển vọng phát triển của đất nước. Tư tưởng tích cực vẫn là xu hướng chủ đạo

trong đời sống xã hội.
Tình hình tư tưởng và thực trạng cơng tác tư tưởng của Đảng ta hiện nay bên
cạnh mặt tích cực khơng tránh khỏi mặt tiêu cực, trong đó, mặt tích cực là cơ bản,
đã và đang quyết định chiều hướng phát triển của xã hội, là nhân tố quan trọng tạo
nên thắng lợi của công cuộc đổi mới. Tuy vậy, mặt tiêu cực có lúc, có nơi diễn ra
rất nghiêm trọng. Một số mặt tiêu cực về tư tưởng đang có biểu hiện phức tạp, tiềm
ẩn các nguy cơ gây mất ổn định chính trị, đe dọa đến vai trị lãnh đạo của Đảng và
sự tồn vong của chế độ. Điều đáng lo ngại nhất là sự suy thoái tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ra Nghị
quyết "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" đã nhấn mạnh: "Cơng
tác tun truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều khi cịn hình
thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí cách mạng của cán
bộ, đảng viên" và "một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những
đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý
tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền
tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc..." [51].


20
Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) thống nhất ban hành Nghị quyết về "Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong
nội bộ", xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Đây là Nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về xây
dựng Đảng và cũng là nhiệm vụ trọng tâm đầu tiên của nhiệm kỳ Đại hội XII của
Đảng. Nghị quyết vừa cụ thể hóa thực hiện 10 nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng
Đảng mà Nghị quyết Đại hội XII đề ra; tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI) trong điều kiện mới. Điều đó chứng tỏ quyết tâm chính trị rất cao, sự nỗ

lực rất lớn và tư tưởng nhất quán của Đảng về tầm quan trọng đặc biệt của cơng tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống suy thối, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; đồng
thời, thể hiện tầm tư duy và thái độ kiên quyết, kiên trì thực hiện của Đảng trước
yêu cầu về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu trong tình hình mới.
1.2.2. Cơng tác tun truyền
Cơng tác tuyên truyền là khâu quan trọng của công tác tư tưởng nhằm truyền
bá các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước đến với quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh dạy rằng, tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân
làm. Tuyên truyền có hai lĩnh vực: tuyên truyền lý luận và tuyên truyền các quan
điểm đường lối của Đảng, xây dựng nhận thức mới, củng cố niềm tin và cổ vũ hành
động. Như vậy, công tác tuyên truyền nhằm truyền bá sâu rộng trong cán bộ, đảng
viên và Nhân dân về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước; trang bị cho quần chúng Nhân dân
những tri thức về quy luật phát triển của xã hội, trên cơ sở đó xây dựng niềm tin
vào lý tưởng cộng sản và nâng cao tính tích cực, sáng tạo trong quần chúng, trong
công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Như vậy công tác tuyên truyền


21
tiếp nối công tác lý luận, làm cho lý luận có sức sống mạnh mẽ, thể hiện sinh động
trong thực tiễn, trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn.
Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, công tác tuyên truyền của Đảng là một
trong ba bộ phận cấu thành công tác tư tưởng của Đảng nhằm truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, các quan điểm, tư
tưởng của Đảng đến với quần chúng nhằm tạo nên sự thống nhất ý chí và hành
động trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, cổ vũ, động viên quần chúng thực
hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Công tác tuyên truyền cùng với công
tác lý luận và công tác cổ động là ba hình thái cấu thành cơng tác tư tưởng của
Đảng. Cơng tác tun truyền của Đảng có vai vai trị quan trọng là truyền bá, phổ

biến hệ tư tưởng cách mạng trong xã hội, trước hết là trong các lực lượng xã hội
tiên tiến; khơi dậy tính sáng tạo cách mạng của quần chúng; cổ vũ, động viên quần
chúng tham gia sự nghiệp cách mạng, góp phần tổ chức các phong trào cách mạng;
chuẩn bị tiền đề tư tưởng, lý luận và con người cho các cuộc cách mạng. Vì vậy,
công tác tuyên truyền trở thành một công tác cách mạng và là công tác cách mạng
đầu tiên của bất kỳ giai cấp và tổ chức cách mạng nào.
Có thể hiểu chung nhất: Công tác tuyên truyền của Đảng là hoạt động truyền
bá hệ tư tưởng của Đảng, là hoạt động vận động nhân dân thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng nhằm hiện thực hóa các mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Trong
điều kiện là đảng lãnh đạo, Công tác tuyên truyền của Đảng là một phương thức
lãnh đạo của Đảng; trong điều kiện đảng cầm quyền, Công tác tuyên truyền của
Đảng là một phương thức cầm quyền của Đảng.
1.2.3. Công tác cổ động
Bên cạnh công tác tuyên truyền, cơng tác cổ động có vai trị rất quan trọng;
là khâu chuyển hoá lý luận đã được nhận thức, niềm tin đã được xây dựng và củng
cố thành hành động cách mạng, là phương thức công tác thông qua những phương
pháp, hình thức, phương tiện, cơng cụ để tác động trực tiếp đến đám đông (như


22
panơ, áp phích, mít tinh, biểu tình, biểu ngữ, khẩu hiệu...) để tác động lên đối
tượng, cổ vũ, lôi cuốn họ hành động theo những định hướng, mục tiêu đã định sẵn.
Cơng tác cổ động có nhiệm vụ thơng tin, giải thích để quần chúng nắm bắt kịp thời
những sự kiện đang diễn ra trong cuộc sống, cổ vũ động viên họ thúc đẩy nhanh
những hành động cách mạng để ủng hộ hoặc phản đối những sự kiện diễn ra trong
cuộc sống mà họ được thông tin.
Cổ động là bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng. Trong điều kiện bùng
nổ thông tin, công tác cổ động càng trở nên quan trọng để định hướng thêm thông
tin, làm cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tiếp nhận các chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách đầy đủ, đúng đắn.

Công tác cổ động và công tác tuyên truyền thể hiện tập trung ở các khía cạnh
cụ thể sau:
- Là phương tiện quan trọng để phổ biến, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, những vấn đề thời sự lớn của đất nước và quốc tế, những vấn đề mới
đặt ra trong sự nghiệp đổi mới, qua đó nâng cao nhận thức chính trị của cán bộ,
đảng viên và nhân dân; động viên mọi người thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị
trong mỗi thời kỳ. Là công cụ để định hướng tư tưởng, hướng dẫn suy nghĩ và hành
động của tồn xã hội. Góp phần quan trọng để xây dựng nền văn hóa mới, con
người mới xã hội chủ nghĩa.
- Qua tuyên truyền, cổ động để phát huy vai trị làm chủ, tính tích cực, sáng
tạo của quần chúng, trước hết là ở cơ sở trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng, đối ngoại.
- Góp phần tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây
dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường sự đồng thuận trong xã hội.
- Là công cụ sắc bén trong đấu tranh bảo vệ chân lý, chống lại mọi âm mưu,
thủ đoạn "diễn biến hịa bình" của các thế lực thù địch; phê phán các quan điểm sai


23
trái, lệch lạc nảy sinh trong cán bộ, đảng viên và nhân dân trong quá trình thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước.
1.2.4. Cơng tác văn hóa, nghệ thuật
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh thiên chức riêng biệt của
văn hóa, văn nghệ là bám sát đời sống con người, miêu tả và khám phá con người,
bảo vệ và khẳng định, góp phần trực tiếp xây dựng con người mới đang hình thành
trong cuộc chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ và vĩ đại vì sự ra đời, chiến thắng của
xã hội mới. Chính do vị trí, vai trị đặc biệt của văn hóa trong đời sống xã hội, đồng
thời do văn hóa ln ln có mặt trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động của xã hội và
con người nên cần phải biết phát huy tối đa sức mạnh của văn hóa, làm cho các

nhân tố văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi phương diện
của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng và cơng tác tư tưởng.
Văn hóa giữ vai trị cực kỳ quan trọng và trực tiếp trong nhiệm vụ xây dựng
con người, cũng có nghĩa là xác nhận vai trị to lớn và có vị trí đặc biệt của văn hóa
trong cơng tác và hoạt động tư tưởng… Như vậy, cũng có nghĩa là hoạt động văn
hóa - văn nghệ và cơng tác tư tưởng có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ vì đều là
cơng việc trực tiếp với con người. Trong quan hệ đặc thù này, văn hóa - văn nghệ
trở thành một sức mạnh, một phương thức độc đáo, có hiệu quả của cơng tác tư tưởng.
Nội dung tư tưởng này là hạt nhân, là cốt lõi, là yếu tố xuyên thấm trong các sản
phẩm văn hóa, đặc biệt là sản phẩm văn hóa tinh thần nói chung và các tác phẩm
văn học nghệ thuật nói riêng.
Trong tất cả các chức năng cơ bản của văn hóa như nhận thức giáo dục, thẩm
mỹ, giao tiếp, dự báo, giải trí - cùng với sự tác động đồng bộ, toàn diện đến con
người, thoả mãn các nhu cầu đa dạng, rất khác nhau của con người - đều chứa đựng
những nhân tố có sức tác động trực tiếp đến tư tưởng, bằng cách này hay cách khác,
ở mức độ này hay mức độ khác. Vì vậy, u cầu khơng ngừng nêu cao và khẳng
định nội dung tư tưởng của văn hóa, của các sản phẩm và hoạt động văn hóa - văn


24
nghệ khơng chỉ là định hướng chính trị cơ bản trong cơng tác văn hóa - văn nghệ
trước cuộc đấu tranh tư tưởng - văn hóa đang diễn ra ngày càng gay gắt và phức tạp
hiện nay, mà còn là một nhu cầu của chính văn hóa để tạp ra được các giá trị văn
hóa theo đúng vai trị và chức năng nó đảm nhận trước xã hội. Nghị quyết số 23NQ/TW, ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về "Tiếp tục xây dựng và phát triển văn
học, nghệ thuật trong tình hình hình mới" khẳng định: "văn hóa, văn học, nghệ
thuật là một trong những động lực to lớn trực tiếp xây dựng nền tảng tinh thần của
xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam".
1.2.5. Cơng tác nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội
Cơng tác nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội là một bộ phận quan
trọng trong công tác tư tưởng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, lãnh

đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để
giúp đỡ thiết thực trong cơng tác; vì tư tưởng thơng suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng
nhằng thì khơng làm được việc.
Thời gian qua, việc nắm bắt tình hình tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và dư
luận xã hội trong quần chúng nhân dân tại các cơ sở Đảng được quan tâm nhiều
hơn thông qua các buổi sinh hoạt chi bộ, Đảng bộ, cơ quan, đơn vị và các tổ chức
chính trị - xã hội, Qua đó các cấp ủy Đảng kịp thời thông tin những quan điểm, chủ
trương của Đảng và định hướng tư tưởng, dư luận xã hội, góp phần giải quyết có
hiệu quả một số vấn đề phức tạp trên lĩnh vực tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên và
Nhân dân như việc lấy ý kiến Hiến pháp năm 1992, lấy ý kiến đóng góp vào dự
thảo Báo cáo chính trị Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2015 – 2020, một số dự thảo
Luật, Nghị định; việc thực hiện các dự án giải tỏa, đền bù trên địa bàn huyện;
những diễn biến phức tạp trên Biển Đơng, tình hình bất ổn của các nước trong khu
vực.... Trong đó, có chú trọng việc nhận diện và phòng, chống các biểu hiện suy


25
thối về tư tưởng chính trị, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng và
phản bác các quan điểm sai trái.
Các cơ sở Đảng từ Trung ương đến địa phương thường xuyên củng cố dư
luận xã hội tại cơ quan, đơn vị. Đây cũng là việc thể hiện rõ trách nhiệm của các
cấp ủy Đảng, các đồng chí Bí thư cấp ủy và cấp ủy viên trong việc nắm bắt tình
hình tư tưởng góp phần tích cực trong việc tham mưu, đề xuất cho Đảng bộ, chính
quyền địa phương giải quyết những vấn đề bức xúc trên địa bàn, nhất là duy trì tốt
việc phản ánh qua điện thoại khi có những tình huống phức tạp, đột xuất phát sinh
như tệ nạn xã hội, ma túy, tình trạng ô nhiễm môi trường ở các tỉnh miền Trung và
các tỉnh khác trong cả nước.

1.2.6. Công tác đấu tranh tư tưởng, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch
Đấu tranh tư tưởng, lý luận luôn là bộ phận rất quan trọng và nhạy cảm của

cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, liên quan trực tiếp đến sự hưng thịnh
hay suy vong của quốc gia dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin đã chỉ ra
rằng: "…sự chống đối của kẻ thù về phương diện chính trị – tư tưởng là sự chống
đối sâu sắc nhất và mãnh liệt nhất…" Trong chiến lược chống phá Việt Nam, âm
mưu cơ bản, lâu dài của các thế lực thù địch là thủ tiêu độc lập dân tộc, xoá bỏ chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, đưa nước ta theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Chúng xác
định "khâu đột phá" là lĩnh vực chính trị, tư tưởng, với mục tiêu phủ nhận chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam, truyền bá hệ tư tưởng tư sản trong các thế hệ người Việt Nam, đặc
biệt là lớp trẻ. Bên cạnh sự chống phá của các thế lực thù địch, sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang đặt ra nhiều vấn đề mới cần
phải giải quyết cả về lý luận và thực tiễn; những tác động tiêu cực bởi mặt trái của
kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, những tác động của tình hình thế giới, khu


×