Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.35 KB, 19 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HẠCH TOÁN CHI PHÍ
SẢN XUẤT TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI
I-/ SỰ CẦN THIẾT TỔ CHỨC HẠCH TOÁN CHÍNH XÁC CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH ĐÚNG, TÍNH ĐỦ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM.
Chi phí sản xuất gắn liền với việc sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn, lao động
trong sản xuất. Quản lý chi phí sản xuất thực chất là quản lý việc sử dụng hợp lý,
tiết kiệm và có hiệu quả các yếu tố sản xuất trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Mặc khác, chi phí sản xuất là cơ sở tạo nên giá thành sản phẩm, tiết kiệm chi phí
sản xuất là cơ sở để hạ giá thành sản phẩm.
Yêu cầu của công tác quản lý kinh tế nói chung, công tác quản lý sản xuất và
tính chi phí sản xuất nói riêng đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức công tác kế toán
tập hợp chi phí sản xuất một cách chính xác. Kế toán chính xác chi phí sản xuất phát
sinh không chỉ là việc tổ chức, ghi chép, phản ánh một cách đầy đủ trung thực về
mặt hao phí của từng loại chi phí, mà cả về mặt tính toán các chi phí bằng tiền, theo
đúng nguyên tắc về đánh giá và phản ánh theo đúng giá trị thực tế của chi phí ở thời
điểm phát sinh chi phí. Kế toán chính xác chi phí sản xuất đòi hỏi phải tổ chức việc
ghi chép, tính toán và phản ánh từng loại chi phí sản xuất theo đúng địa điểm phát
sinh chi phí và theo đúng đối tượng chịu chi phí.
Bên cạnh đó, chúng ta biết rằng giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn
sử dụng chỉ tiêu giá thành sản phẩm vào quản lý cần thiết phải tổ chức tính đúng,
tính đủ giá thành của các loại sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Tính đúng là
tính chính xác và hạch toán đúng nội dung kinh tế của chi phí đã hao phí để sản
xuất sản phẩm. Muốn vậy, phải xác định đúng đối tượng tính giá thành, vận dụng
phương pháp tính giá thành thích hợp và giá thành phải được tính trên cơ sở số liệu
kế toán tập hợp chi phí sản xuất một cách chính xác. Tính đủ là tính toán đầy đủ
mọi hao phí đã bỏ ra trên tinh thần hạch toán kinh doanh, loại bỏ mọi yếu tố bao
cấp để tính đủ đầu vào theo đúng chế độ quy định. Tính đủ cũng đòi hỏi loại bỏ
những chi phí không liên quan cần thiết đến hạch toán sản phẩm như: những khoản
chi phí mang tính chất tiêu cực, lãng phí không hợp lý, những khoản thiệt hại


không được quy trách nhiệm đầy đủ.
Việc tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm giúp cho việc phản ánh đúng đắn
tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp, xác định đúng
đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tránh được hiện tượng lãi giả, lỗ thật.
Chính vì vậy, tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng và
thiết thực đối với việc tăng cường và cải tiến công tác quản lý giá thành nói riêng và
công cuộc đổi mới quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp nói chung.
Nhận thức được điều đó, cũng có nghĩa là chúng ta nhận thức được rằng, việc
hoàn hiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hết sức
quan trọng và cần thiết, mà mỗi doanh nghiệp đều luôn luôn quan tâm tới. Tuy
nhiên, để có thể tiến tới việc hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm thì mỗi doanh nghiệp, cụ thể hơn là mỗi một chúng ta phải nắm
vững các nguyên tắc cơ bản của việc hoàn thiện này.
II-/ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA VIỆC HOÀNT HIỆN CÔNG TÁC HẠCH TOÁN
CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi đã bước vào thương trường đều phải cố gắng
mọi cách để đạt mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được điều đó, đòi
hỏi doanh nghiệp phải giám sát chặc chẽ quá trình chi tiêu vật tư, tài sản, tiền vốn, lao
động một cách có hiệu quả trên cơ sở tổ chức ngày càng hợp lý quá trình hạch toán
chi phí sản xuất phát sinh. Từ đó, cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết cho các nhà
quản lý, để kịp thời ra quyết định quản lý tối ưu nhất nhằm phấn đấu tiết kiệm chi phí
sản xuất hạ giá thành sản phẩm. Việc phấn đấu hạ giá thành sản phẩm chỉ có thể được
thực hiện trên cơ sở tiết kiệm các chi phí theo khoản mục trong giá thành sản phẩm, vì
giá thành không chấp nhận toàn bộ chi phí liên quan đến sản phẩm hoàn thành. Thực
hiện tiết kiệm chi phí trong sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng và đã được Đảng và
Nhà nước ta đề cập như một nhiệm vụ quan trọng của cả nước trong sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội: “Thực hành tiết kiệm triệt để trong các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh và xây dựng cơ bản,...”
Xuất phát từ các yêu cầu trên, vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện công tác hạch
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp nói chung

và ở công ty Dệt may Hà Nội nói riêng là đều phải tập trung giải quyết các nhiệm
vụ cơ bản sau:
Một là, xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, lựa chọn phương
pháp tập hợp và tiêu thức phân bổ chi phí sản xuất phù hợp với đặc điểm quy trình
công nghệ và yêu cầu quản lý của từng doanh nghiệp. Từ đó, tổ chức thực hiện tốt
việc tập hợp chi phí sản xuất.
Hai là, xác định đúng đối tượng tính giá thành, lựa chọn phương pháp tính giá
thành thích hợp.
Ba là, xây dựng quy tắc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
của doanh nghiệp. Quy định trình tự từng công việc sao cho công tác hạch toán chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được tiến hành thuận lợi và kịp thời phù
hợp với yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
Chúng ta đã biết, hoàn thiện là việc thay đổi, sửa đổi và bổ sung để cho công
việc thực hiện được tiến hành tốt hơn và đạt hiệu quả cao nhất. Việc hoàn thiện
công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải dựa trên các
nguyên tắc cơ bản sau:
- Các chế độ về hệ thống các phương pháp thực hiện hạch toán kế toán do Bộ
Tài chính ban hành.
- Thực hiện đúng quy định về các biểu mẫu kế toán chứng từ kế toán và các
tài khoản sử dụng.
- Vận dụng được yêu cầu thực tế sản xuất kinh doanh để có thể rút ngắn, thay đổi
được công tác kế toán cho phù hợp, đồng thời không trái với quy định chung.
- Đảm bảo được tính kinh tế và hiệu quả của công tác kế toán.
Như vậy, hoàn thiện có ý nghĩa là hoàn chỉnh sao cho thực tế phù hợp với lý
luận và ngược lại từ thực tế cần thiết phải bổ sung để hoàn thiện hơn nữa lý luận và
chế độ kế toán hiện hành theo thông lệ quốc tế, trong từng thời kỳ phát triển kinh tế
của đất nước.
Qua một thời gian thực tập tại công ty, được sự giúp đỡ của các đồng chí lãnh
đạo công ty, các phòng ban và đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của các anh chị phòng
kế toán tài chính, em đã có sự hiểu biết nhất định về tình hình thực tế công tác kế

toán tại công ty nói chung và công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm nói riêng. Chính điều này đã giúp em củng cố thêm kiến thức đã tiếp thu
tại nhà trường.
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, mặc dù còn có sự hạn chế về thời gian và
trình độ bản thân, song để góp phần hoàn thiện hơn nữa công tác tổ chức hạch toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, em xin mạnh dạn nêu ra một số ý kiến
nhận xét và đề xuất hướng khắc phục trong công tác kế toán nói chung cũng như
trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng tại
công ty.
III-/ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY DỆT MAY HÀ NỘI.
1-/ Đánh giá chung công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm.
Công ty Dệt May Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước có quy mô khá lớn,
trong suốt những năm hình thành và phát triển, công ty đã đạt được nhiều thành tựu
đáng kể trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những thành tựu đó, trước hết phải kể
đến sự đóng góp của ban lãnh đạo, cũng như của toàn thể công nhân viên trong công
ty. Với cơ cấu bộ máy quản lý hợp lý, các phòng ban chức năng đã được tổ chức sắp
xếp gọn nhẹ, thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, giúp ban lãnh đạo công ty quản lý và
điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Trong những năm gần đây, ngành Dệt May Việt Nam đang gặp nhiều khó
khăn. Đặc biệt là sự cạnh tranh của các mặt hàng dệt, may mặc ngoại nhập với chất
lượng cao, mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý đã hạn chế việc tiêu thụ hàng hoá của ngành
Dệt may nói chung và của công ty nói riêng. Đứng trước thách thức đó, song song
với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới mẫu mã, tổ chức nghiên cứu thị
trường và mở rộng mạng lưới tiêu thụ,... Công ty đã không ngừng nâng cao hiệu
quả sử dụng vật tư, tiền vốn nhằm tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm, đáp
ứng yêu cầu công tác hạch toán kế toán. Nổi bật lên các điểm sau:
* Về tổ chức bộ máy kế toán.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá

thành sản phẩm, nhất là trong cơ chế thị trường, công ty đã tăng cường công tác
quản lý chi phí sản xuất và kế toán thực sự được coi là một trong những công cụ
quan trọng của hệ thống quản lý. Bộ máy kế toán của công ty được tổ chức tương
đối hoàn chỉnh với đội ngũ nhân viên kế toán có trình độ cao, nghiệp vụ chuyên
môn vững vàng và được phân công trách nhiệm rõ ràng theo từng phần hành kế
toán phù hợp với năng lực của từng nhân viên. Do có sự phân chia trách nhiệm và
sự bất kiêm nhiệm trong công tác kế toán, nên đã tạo ra sự chuyên môn hoá trong
lao động kế toán. Vì vậy, các nghiệp vụ kế toán được tiến hành nhanh hơn, tránh
được sai sót và gian lận. Điều đó chứng tỏ khả năng tổ chức công tác kế toán tại
công ty là đảm bảo thực hiện tốt chế độ kế toán hiện hành và phù hợp với đặc điểm
tổ chức kinh doanh của công ty.
Là một doanh nghiệp sản xuất có quy mô lớn, tính chất kinh doanh đa dạng,
phức tạp, nên công ty có quan hệ rất rộng rãi với khách hàng, đòi hỏi yêu cầu trình
độ quản lý và lao động kế toán cao. Thấy rõ được điều kiện này, công ty đã áp
dụng hình thức kế toán Nhật ký - Chứng từ. Đây là hình thức tiên tiến nhất hiện
nay, đảm bảo cho hệ thống kế toán của công ty thực hiện tốt những chức năng,
nhiệm vụ trong sản xuất kinh doanh, đảm bảo cung cấp thông tin chính xác, kịp
thời cho quản lý doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, công ty đã sử dụng hệ thống chứng từ kế toán và sổ sách tương
đối đầy đủ theo quy định của chế độ kế toán, đảm bảo phù hợp với hoạt động của
công ty. Hệ thống chứng từ sổ sách được luân chuyển giữa các phần hành kế toán
một cách trình tự tạo điều kiện thuận lợi cho hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm.
* Về công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty Dệt
may Hà Nội được tiến hành đều đặn vào cuối mỗi quý. Sự phối hợp nhịp nhàng
giữa nhân viên kế toán, thống kê các nhà máy với phòng kế toán, và giữa các nhân
viên trong phòng kế toán với nhau đã giúp cho việc tính giá thành sản phẩm được
tiến hành nhanh chóng, kịp thời và chính xác hơn. Việc xác định đối tượng tập hợp
chi phí, đối tượng tính giá thành tại công ty là hợp lý, phù hợp với đặc điểm sản

xuất và yêu cầu quản lý doanh nghiệp.
Tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm gắn với việc nâng cao chất
lượng sản phẩm và hiệu quả lao động luôn là mục tiêu phấn đấu của công ty. Trong
cơ chế thị trường, để làm được điều đó, công ty cần phải tập hợp và quản lý đầy đủ
chi phí phát sinh trong từng phân xưởng, từng nhà máy. Mặc dù đã khá hợp lý, song
công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty Dệt may
Hà Nội vẫn còn bộc lộ một số nhược điểm trong công tác hạch toán và cung cấp
thông tin cho quản trị doanh nghiệp. Với tư cách là một sinh viên thực tập, em xin
mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị và giải pháp sau:
2-/ Một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí và
tính giá thành sản phẩm tại Công ty Dệt May Hà Nội.
* Thứ nhất, kỳ tính giá thành.
Trong nền kinh tế thị trường, kế toán được coi là công cụ quản lý kinh tế quan
trọng, là phong vũ biểu xác định nguồn thông tin trung thực, nhằm phản ánh quá
trình hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp, việc
cung cấp các thông tin chính xác là cơ sở cho các chủ doanh nghiệp nắm được tình
hình sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn, tình hình chi phí và kết quả sản xuất kinh
doanh, tính hiệu quả đúng đắn của các giải pháp đã đề ra và thực hiện trong sản
xuất kinh doanh. Từ đó, có các biện pháp phù hợp với chiến lược phát triển của
doanh nghiệp.
Tại Công ty Dệt May Hà Nội, giá thành sản phẩm được tính vào cuối quý nên
thông tin về chi phí và giá thành không đáp ứng được yêu cầu của quản lý. Mặt
khác, do đặc điểm sản xuất của công ty là chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm hoàn
thành nhập kho liên tục trong tháng, giá cả sản phẩm lại thường xuyên biến động,
nên kỳ tính giá thành một quý/1 lần không còn phù hợp nữa.
Theo em, công ty nên tính giá thành theo từng tháng để số liệu đưa ra kịp
thời, nhanh chóng góp phần đẩy mạnh sản xuất, hoà nhịp chung với sự phát triển
của thị trường cạnh tranh tự do.
Tuy nhiên, việc rút ngắn kỳ tính giá thành xuống 1 tháng đòi hỏi công tác kế
toán phải được tiến hành thường xuyên, liên tục hơn, nên các nhân viên kế toán sẽ

phải tăng cường độ làm việc. Nhưng nếu biết tổ chức, sắp xếp công việc một cách
hợp lý, làm việc có ý thức trách nhiệm thì với trình độ chuyên môn và bề dày kinh
nghiệm, cộng với sự trợ giúp của máy vi tính, chắc chắn các nhân viên kế toán sẽ
hoàn thành tốt nghiệm vụ tính giá thành sản phẩm trong một tháng.
Việc thay đổi kỳ tính giá thành sẽ làm thay đổi toàn bộ các phần hành kế toán
khác. Vì vậy, xem xét sự thay đổi này phải được thống nhất trong phạm vi toàn
công ty.
* Thứ hai, phương pháp hạch toán chi phí nhân công trực tiếp.
Mặc dù công ty đã áp dụng đúng chế độ kế toán về cách tính lương cho công
nhân sản xuất trực tiếp, cũng như tỷ lệ trích các khoản theo lương, nhưng trong
việc hạch toán và ghi sổ chi phí nhân công trực tiếp còn có một số điểm cần được
xem xét lại.
Trước hết, là việc tiến hành trích BHYT và KPCĐ cho 2 quí (quí II và quí III)
vào chi phí sản xuất kinh doanh. Điều này trái với nguyên tắc phù hợp được thừa
nhận trong kế toán là: Chi phí liên quan đến doanh thu kỳ nào phải tính vào chi phí
của kỳ đó. Do đó, ảnh hưởng tới việc tập hợp chi phí sản xuất trong kỳ và tính giá
thành sản phẩm. Vì vậy, công ty nên quy định lại việc trích BHYT, KPCĐ theo
đúng kỳ tính giá thành - đảm bảo phù hợp với chế độ kế toán.
Ngoài ra, nếu nhìn lại bảng phân bổ số 1: “Bảng phân bổ tiền lương và bảo
hiểm xã hội quí III/1999” - (Biểu số 01), chúng ta sẽ hiểu sai nội dung, ý nghĩa của
từng số liệu. Bởi vì, số liệu về lương chính của công nhân sản xuất trực tiếp là
549.522.880đ và các khoản phụ cấp là 433.057.417đ không phản ánh lên các cột
tương ứng trên bảng phân bổ 1, mà cột lương chính lại ghi số liệu về lương phải trả
cho công nhân sản xuất trực tiếp trong quí III là: 982.580.297đ. Mặt khác, toàn bộ
khoản trích BHYT, KPCĐ cũng phản ánh lên một tài khoản là 3382: 40.548.757đ.
Trong khi đó theo chế độ: TK 3382 : KPCĐ là 20.274.378,5đ. TK 3384 : BHYT là
20.274.378,5đ
Như vậy, số liệu trên bảng phân bổ số 1 đã không ngừng phản ánhd dúng được
nội dung của nó. Sự bất hợp lý này thuộc về kỹ thuật ghi sổ nên kế toán tiền lương
cần phải xem xét để tiến hành hạch toán và ghi sổ theo đúng chế độ kế toán.

* Thứ ba, kế toán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ.
Hiện nay, công ty sử dụng phương pháp thẻ song song để hạch toán chi tiết
NVL. Phương pháp này tuy đơn giản, dễ làm song công việc ghi chép nhiều và
trùng lắp, tốn nhiều công sức. Mặt khác, do đặc điểm NVL tại công ty có rất nhiều
chủng loại, với tần suất nhập xuất nhiều, nên việc theo dõi tình hình nhập, xuất, tồn
NVL của 2 kế toán viên vẫn không đảm bảo được công việc ghi chép, hạch toán
hàng ngày. Do đó, các kế toán thanh toán vẫn phải trợ giúp một phần công việc
này. Như vậy, phương pháp thẻ song song không phù hợp với tình hình hiện tại của
công ty. Để đáp ứng yêu cầu này, công ty nên áp dụng phương pháp sổ số dư trong
việc hạch toán chi tiết về NVL.
Đặc điểm nổi bật của phương pháp này là sự kết hợp chặt chẽ giữa việc hạch
toán nghiệp vụ của thủ kho với việc ghi chép của kế toán NVL. Trên cơ sở đó, ở
kho chỉ hạch toán về số lượng và ở phòng kế toán chỉ hạch toán về giá trị NVL.
Với phương pháp này có thể khắc phục được hạn chế của phương pháp sổ chi tiết
và sẽ tạo điều kiện thực hiện kiểm tra thường xuyên, có hệ thống giữa kế toán và
thủ kho, đảm bảo số liệu kế toán chính xác, kịp thời.
* Thứ tư, hạch toán chi phí trả trước.
Chi phí trả trước là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh, nhưng có liên quan
tới nhiều kỳ hạch toán, nên chưa thể tính hết vào chi phí sản xuất kinh doanh kỳ
này, mà được tính cho hai hay nhiều kỳ hạch toán tiếp theo. Tại công ty Dệt may
Hà Nội thường phát sinh các khoản chi phí trả trước như: giá trị CCDC nhỏ xuất
dùng thuộc loại phân bổ nhiều lần, giá trị sửa chữa lớn TSCĐ ngoài kế hoạch, chi
phí mua bảo hiểm tài sản, bảo hiểm kinh doanh,... Các khoản này, mặc dù có liên
quan đến nhiều kỳ hạch toán hoặc là những chi phí phát sinh một lần quá lớn,
nhưng đều được tính một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ phát sinh
chi phí.
Ví dụ, trong quí III/1999, khi xuất dùng CCDC thuộc loại phân bổ ba lần, kế
toán ghi vào bên Nợ TK 6271 : 48.605.730đ (đối ứng bên Có TK 1531) trên bảng
kê số 4+5.
Cách ghi này cũng đã vi phạm nguyên tắc phù hợp được thừa nhận trong kế

toán. Do đó, để khắc phục nhược điểm này, kế toán nên tiến hành theo trình tự sau:
TK 1524
(1)
TK 142
(2)
TK 6271
TK 1531
(1)
TK 142
(2)
TK 6271
(1) : Tập hợp chi phí công cụ dụng cụ thuộc loại phân bổ nhiều lần.
(2) : Định kỳ tiến hành phân bổ cho đối tượng sử dụng.
Hoặc, trong quí III phát sinh chi phí phụ tùng thay thế để sửa chữa máy móc
thiết bị với giá trị là: 2.162.868.940đ. Nhưng được tập hợp và phân bổ hết một lần
trong quý theo sơ đồ:

×