Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CHI NHÁNH HÀ NỘI CÔNG TY XÂY DỰNG SỐ 18

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.45 KB, 14 trang )

MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HẠCH TOÁN CHI
PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CHI NHÁNH HÀ
NỘI CÔNG TY XÂY DỰNG SỐ 18
I - Đánh giá thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây
lắp tại chi nhánh Hà Nội
1- Những ưu điểm:
 Bộ máy kế toán:
Bộ máy kế toán của chi nhánh được tổ chức tương đối hoàn chỉnh, chặt chẽ, quy
trình làm việc khoa học vớ đội ngũ kế toán có năng lực, nắm vững chế độ, nhiệt tình trong
công việc lại được bố trí hợp lý, phù hợp với năng lực của mỗi người .
Trong quá trình áp dụng chế độ kế toán mới, tuy còn gặp nhiều khó khăn do phải
tiếp cận với những khái niệm mới, cơ chế mới nhưng bộ máy kế toán của chi nhánh không
ngừng học hỏi, cập nhật thông tin , vận dụng một cách linh hoạt sáng toạ và có hiệu quả
chế độ kế toán mới vào đièu kiện cụ thể của đơn vị mình.
 Tổ chức công tác kế toán:
Hệ thống chứng từ ban đầu được tổ chức hợp pháp họp lệ, đầy đủ theo chế độ của
Bộ tài chính ban hành. Ngoài ra còn có một số chứng từ khác theo quy định của công ty.
Các chứng từ của chi nhánh được đánh số thứ tự theo từng loại và nguồn gốc phát sinh, số
hiệu chứng từ được làm căn cứ để ghi sổ nhật ký chung, sổ chi tiết và sổ cái theo từng bộ
chứng từ. Sau mỗi bộ chứng từ kế toán lập bảng hạch toán tổng hợp ghi các định khoản
ban đầu để vào sổ kế toán. Cách vào sổ như vậy sẽ ttránh được nhầm lẫn, thuận tiện cho
việc theo dõi, tra cứu và đối chiếu khi cần thiết .
Để phản ánh được các nghiệp vụ kinh tế phát sinh , ngoài việc áp dụng hệ thống
tài khoản theo chế độ quy định,
chi nhánh còn mở chi tiết các tài khoản đến cấp 2, cấp 3, cho từng công trình, hạng
mục công trình đồng thời mở sổ chi tiết cho từng loại tài khoản.
Phương pháp kê khai thường xuyên được chi nhánh sử dụng rất phù hợp với đặc
điểm sản xuất kinh doanh, yêu cầu quản lý của chi nhánh, nó cho phép phản ánh một cách
kịp thời và thường xuyên tình hình sản xuất kinh doanh và cung cấp đầy đủ thông tin cần
thiết cho các nhà quản lý doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Chi nhánh áp dụng hình thức sổ Nhật
ký chung ( kết hợp giữa kế toán thủ công và kế toán máy ). Hình thức này tương đối đơn


giản và thuận lợi cho công tác tổ chức quản lý ở chi nhánh.
 Công tác chi phí sản xuất và tính giá thánh sản phẩm:
Phương pháp kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ssược áp dụng tại
chi nhánh là phương pháp tính giá giản đơn, trực tiếp. Nhờ vậy việc tính giá thành sản
phẩm tuơng đối dễ dàng và chính xác đảm bảo cung cấp thông tin kế toán kịp thời cho bộ
phận quản lý.
Hiện nay, chi nhánh đang thực hiện giao khoán cho các tổ, đội thi công thông qua
hợp đồng khoán gọn. Hình thức này góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của người lao
động và tăng cường công tác quản trịcủa chi nhánh . Tuy là hình thức khoán gọn nhưng
không phải là khoán trắng mà có sự quản lý chặt chẽ của các phòng ban cả về khối lượng,
chất lượng thi công công trình. Phòng kế toán giám sát về mặt tài chính cùng với phòng kế
hoạch lập thủ tục thanh toán vói chủ đầu tư. Các đội trưởng thi công chịu trách nhiệm
trước Giám Đốc chi nhánh về tiến độ, chất lượng thi công công trình, đảm bảo quản lý các
thủ tục, hoàn tất hồ sơ hoàn công công trình, quyết toán và bàn giao công trình. Trong quá
trình thi công, căn cứ vào kế hoạh và tiến độ thi công, đội trưởng chịu trách nhiệm mua
sắm vật tư, máy móc thiết bị thi công, tổ chức thi công công trình. Các hoá đơn, chứng từ
phải có sự xét duyệt của các phòng kinh tế, kỹ thuật, kế toán. Sự phối hợp giữa các phòng
ban của chi nhánh với các đội đã đảm bảo cho việc tính đầy đủ, chính xác giá thánh công
trình.
Về vật tư, chi nhánh giao quyền chủ động cho các đội tự lập kế hoạch mua sắm
vật tư theo tiến độ thi công và nhu cầu sử dụng vật tư. Do đó vật tư mua về được chuyển
thẳng tới chân công trình và sử dụng ngay (có thể được bảo quản tại kho của đội ), giảm
được chi phí vận chuyển , tránh bị tồn đọng vật tư gây ứ đọng vốn. Quá trình hạch toán chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp ở chi nhánh về cơ bản là theo dõi được vật tưmua cho thi công
công trình qua các chứng từ, hoá đơn do đội trưởng gửi lên.
Về công nhân, chi nhánh áp dụnghình thức khoán sản phẩm và tính lương cho
người lao động căn cứ vào bảng chấm công và khối lượng công việc giao khoán hoàn
thành. Việc hạch toán chi phí nhân công ở chi nhánh tương đối rõ ràng, đảm bảo nguyên
tắc làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít giúp chi nhánh sử dụng hợp lý lao động và
nâng cao năng suất lao động. Việc áp dụng hình thức trả lương khoán sản phẩm kết hợp

với trả luơng theo thời gian ở chi nhánh đã tạo điều kiện gắn liền lợi ích vật chất của người
lao động và tiến độ thi công.
Về máy thi công, thông thường các đội sử dụng máy thi công của chi nhánh để
phục vụ cho quá trình thi công. Khi cần thiết đội có thể thuê ngoài tuỳ theo nhu cầu sử
dụng máy thi công của mỗi đội. Điều này tạo nên tính chủ động cho các đội vì có những
công trình ở xa hoặc máy thi công của chi nhánh không đáp ứng được nhu cầu sử dụng của
các đội. Các hoá đơn, chứng từ về chi phí sử dụng máy thi công do đội gửi lên sẽ giúp kế
toán chi nhánh heo dõi và hạch toán đầy đủ khoản mục chi phí này. Máy thi công phục vụ
cho công trình nào thì hạch toán trục tiếp cho công trình đó, trường hợp máy thi công sử
dụng cho nhiều công trình thì tiến hành phân bổ theo tiêu thức chi phí nhân công trực tiếp,
tạo ra tính hợp lý của khoản mục này trong chi phí của từng công trình.
Tương tự chi phí máy thi công, chi phí sản xuất chung cũng đựoc hạch toán một
phần trực tiếp và phân bổ phần còn lại cho công trình.
Công tác đánh giá sản phẩm dở dang có sự tham gia đầy đủ của các bộ phận có
liên quan đã đánh giá được tương đối chính xác khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ, nhờ
vậy việc tính giá thành sản phẩm hoàn thành cũng chính xác hơn. Công tác tính giá cho sản
phẩm hoàn thành được thực hiện trên Bảng tổng hợp chi phí và giá thành xây lắp. Nhờ việc
tập hợp chi phí sản xuất đã chi tiết cho từng đối tượng tính giá thành nên việc tính giá
tương đối thuận tiện. Số liệu trình bày trên Bảng tính giá thành rất khoa học hợp lý góp
phần cung cấp thông tin cho quản lý được thuận tiện và dễ dàng.
Có được những thành quả trên đây là nhờ vào sự năng động sáng tạo của ban lãnh
đạo chi nhánh cùng sự cố gắng nỗ lực của toàn thể các cán bộ công nhân viên trong chi
nhánh đặc biệt là phòng kế toán đã thực hiện tốt vai trò quản lý chi phí và cung cấp thông
tin cho các nhà quản trị doanh nghiệp.
Bên cạnh những ưu điểm trên, công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp tại chi nhánh Hà nội vẫn còn những tồn tại cần khắc phục .
- Về tổ chức và luân chuyển chứng từ:
Chi nhánh giao trực tiếp cho đội tự cung ứng vật tư, tổ chức sản xuất tạo tính chủ
động cho các đội thi công. Các chứng từ phát sinh được đội trưởng ghi chép, thu thập và
quản lý sau đó chuyển lên phòng kế toán để hạch toán. ở các đội không bố trí nhân viên kế

toán nên đội trưởng phải kiêm nhiều việc: Giám sát, đôn đốc, kiểm tra các tổ thi công, tìm
kiếm các nguồn vật tư, lao động để tổ chức sản xuất, đồng thời thu thập chứng từ chuyển
lên phòng kế toán.
Mặt khác, là doanh nghiệp có địa bàn hoạt động trải rộng, các công trình thi công ở
nhiều vùng khác nhau nên việc hoàn chứng từ của đội lên Chi nhánh thường bị chậm trễ là
điều không thể tránh khỏi. Theo quy định của Chi nhánh, chậm nhất là từ ngày mùng 5 đến
ngày mùng 10 tháng sau phải hoàn trả chứng từ về Chi nhánh, song thực tế việc luân
chuyển hoá đơn chậm hơn nhiều so với yêu cầu. Do công tác hạch toán chi phí cuối kỳ gặp
nhiều khó khăn.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý cũng như hạch toán các khoản chi phí, Chi nhánh
nên bố trí thêm nhân viên kế toán ở đội để theo dõi tình hình chi phí phát sinh và cung cấp
kịp thời các thông tin cho phòng kế toán, đồng thời phải đôn đốc việc hoàn chứng từ từ
phía các đội xây dựng và đề ra những quy định chặt chẽ hơn.
- Công tác hạch toán chi phí:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Trên thực tế với hình thức khoán gọn Chi
nhánh đã để các đội tự mua sắm vật tư cho đội mình, đảm bảo tính chủ động cho các đội
thi công, giảm bớt kho trong Chi nhánh, vật tư không bị ứ đọng gây lãng phí. Tuy nhiên có
những vấn đề bất cập trong giá cả, nguồn cung cấp không ổn định, chất lượng chưa đảm
bảo. Vì không bố trí nhân viên kế toán đội nên việc tự mua về chỉ được theo dõi trên sổ chi
tiết vật tư sử dụng cho từng công trình ở phòng kế toán của Chi nhánh. Việc này dễ gây ra
hiện tượng mua bán không trung thực và Chi nhánh rất khó quản lý.
Quá trình hạch toán chi phí nguyên vật liệu, giá trị nguyên vật liệu sử dụng cho thi
công được hạch toán vào TK 621- giá mua trên hoá đơn, còn chi phí thu mua, bốc dỡ kế
toán hạch toán vào TK 6277- chi phí dịch vụ mua ngoài của máy thi công. Về mặt tổng số
trong giá thành sản phẩm thì không đổi, nhưng cơ cấu chi phí thay đổi do đó sẽ gây khó
khăn cho việc theo dõi, đánh giá và phân tích chi phí sản xuất phát sinh ảnh hưởng tới độ
chính xác của thông tin số liệu đưa ra.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Việc hạch toán khoản mục này chưa được chính xác.
Khi hạch toán lương của bộ phận gián tiếp ở đội (đội trưởng, kỹ thuật, trắc địa, bảo vệ và
cả nhân viên vận hành máy thi công), kế toán không hạch toán vàoTK 6271 và TK 6231

mà hạch toán luôn vào TK 622. Việc hạch toán như vậy dễ dàng hơn cho hình thức khoán
công nhân cho đội theo công trình nhưng lại gây ra sự chênh lệch cho các khoản mục chi
phí (chi phí nhân công tăng, chi phí máy thi công và sản xuất giảm), không phản ánh đúng
bản chất nội dung kinh tế của các tài khoản và rất khó sử lý trong trường hợp mọt đội có
thể thi công nhiều công trình.
+ Chi phí sử dụngmáy thi công: Trong kỳ kế toán tập hợp chi phí sử dụng máy thi
công vào bên Nợ TK 623, tài khoản này được chi tiết thành 6 tài khoản chi tiết cấp 2. Việc
chi tiết tài khoản như vậy tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi, kiểm tra từng loại yếu
tố chi phí máy thi công. Tuy nhiên, vẫn chưa phản ánh đúng bản chất của tài khoản này vì
chi phí về sử dụng máy thi công trực tiếp cho công trình thực chất mới phát sinh trên TK
6234- khấu hao máy thi công và TK 6237- chi phí dịch vụ mua ngoài máy thi công.
Chi phí máy thi công phát sinh cho công trình nào được hạch toán trực tiếp vào
công trình đó, trường hợp máy thi công sử dụng cho nhiều công trình thì cuối kỳ sẽ được
phân bổ cho các công trình theo tiêu thức chi phí nhân công trực tiếp. Phương pháp này
đơn giản, dễ làm nhưng thường không chính xác vì có những công trình thi công bằng máy
nên chi phí nhân công chiếm tỷ trọng khá nhỏ, nhưng cũng có những công trình thi công
chủ yếu bằng lao động thủ công. Cho nên xảy ra tình trạng những công trình sử dụng máy
thi công nhiều nhưng chi phí sử dụng máy thi công nhỏ và ngược lại. Vì vậy, cần phải theo
dõi ca máy hoạt động và tiến hành phân bổ chi phí máy thi công theo giờ hoặc ca máy. Có
như vậy mới đảm bảo được chính xác hơn trong việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm.
+ Chi phí sản xuất chung: Ngoài việc hạch toán vào khoản mục chi phí sản xuất
chung các khoản chi phí chung phát sinh ở đội, kế toán còn hạch toán tiền lương và các
khoản phát sinh cho bộ máy quản lý Chi nhánh, kế toán chỉ hạch toán vào tài khoản 642-

×