Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Những vấn đề lý luận chung về kế toán tiền lương và các khoản trích theo tiền lương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.42 KB, 18 trang )

Những vấn đề lý luận chung về kế toán tiền lương và các
khoản trích theo tiền lương.
1.1 Vai trò của lao động và chi phí lao động sống trong sản xuất
kinh doanh.
1.1.1 Vai trò của lao động trong sản xuất kinh doanh.
Từ xa xưa, con người đã biết sử dụng sức lao động để tạo ra những công cụ
thô sơ phục vụ hữu ích cho nhu cầu kiếm ăn hàng ngày. Cùng với sự phát triển của
xã hội, công cụ lao động ngày một hoàn thiện hơn, năng suất lao động ngày một
nâng cao hơn, đời sống được cải thiện rõ rệt hơn.
Ngày nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, khoa học kỹ thuật phát triển,
trong sản xuất kinh doanh chủ yếu sử dụng máy móc nhưng không vì thế mà lao
động mất đi tầm quan trọng, có những công việc có thể dùng máy móc thay thế con
người, song có những công việc vẫn phải cần đến bàn tay người lao động. Đặc biệt
giai đoạn hiện nay, khi một số nước tư bản đã bước sang nền kinh tế tri thức, các
ngành sản xuất kinh doanh dựa trên công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng và khi tri thức trở thành yếu tố sản xuất
quan trọng nhất thì vai trò của con người trong sản xuất kinh doanh lại càng trở
nên đặc biệt cần thiết.
Chỉ có thông qua quá trình lao động sáng tạo thì con người mới có thể tạo ra
của cải vật chất và giá trị tinh thần cho xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng,
hiệu quả là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của đất nước, của xã hội. Lao
động là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh và là yếu tố
mang tính quyết định nhất. Nếu không có lao động của con người thì không có
hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.2 Chi phí lao động sống và vấn đề tiền lương.
a) Vai trò của chi phí lao động sống:
Để tiến hành sản xuất kinh doanh với những biện pháp giảm chi phí sản
xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải thường xuyên
hạch toán các yếu tố chi phí trong quá trình sản xuất như chi phí nguyên vật liệu,
chi phí hao mòn máy móc thiết bị, nhà xưởng, chi phí quản lý doanh nghiệp,…
song một trong những yếu tố có ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh không thể


không đề cập đến là chi phí lao động sống
Chi phí về lao động sống là một yếu tố chi phí cơ bản cấu thành nên giá
thành sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Sử dụng hợp lý lao động tức là tiết
kiệm chi phí về lao động sống, do đó góp phần hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp và là điều kiện để cải thiện, nâng cao đời sống vật chất
cho người lao động trong doanh nghiệp.
b) Khái niệm về tiền lương:
Tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền với việc sử dụng lao động thông
qua các quan hệ hàng hoá-tiền tệ. Tiền lương (tiền công) là phần thù lao để tái sản
xuất sức lao động, bù đắp hao phí lao động mà công nhân viên đã bỏ ra trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Tiền lương (tiền công) gắn liền với thời gian và kết quả
lao động mà công nhân viên đã tham gia, thực hiện trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Tiền lương biểu hiện rõ ràng nhất lợi ích kinh tế và là đòn bẩy kinh tế mạnh
mẽ nhất để kích thích người lao động quan tâm đến hiệu quả sản xuất.

c) Sự cần thiết của các khoản trích theo tiền lương:
Vấn đề tiền lương có quan hệ mật thiết và thường xuyên đến từng người lao
động, đến mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thể hiện rõ
chính sách đãi ngộ của Đảng và Nhà nước đối với người lao động.
Tiền lương gắn liền với thời gian và kết quả lao động mà công nhân viên đã
thực hiện. Ngoài tiền lương (tiền công), để đảm bảo tái sản xuất sức lao động và
cuộc sống lâu dài, bảo vệ sức khoẻ và đời sống tinh thần của người lao động, theo
chế độ tài chính hiện hành, doanh nghiệp còn phải tính vào chi phí sản xuất kinh
doanh một bộ phận chi phí gồm các khoản trích bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo
hiểm y tế (BHYT), kinh phí công đoàn (KPCĐ).
- BHXH được trích lập để tài trợ cho trường hợp công nhân viên tạm thời
hay vĩnh viễn mất sức lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất sức,
nghỉ hưu…
- BHYT được trích lập để tài trợ cho việc phòng, chữa bệnh và chăm sóc

sức khoẻ cho người lao động.
- KPCĐ được trích lập để phục vụ chi tiêu cho hoạt động tổ chức của giới
lao động nhằm chăm lo, bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
1.2 Phân loại công nhân viên trong doanh nghiệp.
Tổng số công nhân viên trong doanh nghiệp là toàn bộ lao động tham gia
vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm lực lượng lao
động làm các công việc cụ thể khác nhau, trình độ tay nghề khác nhau. Vì vậy phải
tiến hành phân loại công nhân viên.
Phân loại sẽ tạo điều kiện cho việc giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch
lao động, tính lương và trả lương đúng chế độ, đúng đối tượng. Có hai cách phân
loại công nhân viên:
a) Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động thì toàn bộ số lao động của doanh nghiệp được
chia thành 3 loại:
* Lao động thực hiện chức năng sản xuất: là toàn bộ số lao động tham gia
trực tiếp, gián tiếp vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp như công nhân sản
xuất, nhân viên quản lý phân xưởng.
* Lao động thực hiện chức năng quản lý: là những lao động tham gia vào
công tác quản lý hành chính, quản lý kinh doanh và các hoạt động quản lý của
doanh nghiệp như ban giám đốc, trưởng, phó phòng, nhân viên quản lý doanh
nghiệp…
* Lao động thực hiện chức năng bán hàng: là những lao động tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp như nhân viên bán
hàng, nhân viên tiếp thị, nhân viên nghiên cứu thị trường…
b) Căn cứ vào thời gian lao động thì toàn bộ số lao động trong doanh nghiệp
được chia thành 2 loại:
* Lao động trong danh sách: Là tất cả lao động đã đăng ký trong danh
sách lao động của doanh nghiệp, thuộc phạm vi quản lý, sử dụng, trả lương của
doanh nghiệp. Theo qui định hiện hành, lao động trong danh sách bao gồm những
người trực tiếp sản xuất kinh doanh từ một ngày trở lên và những người không trực
tiếp sản xuất kinh doanh từ năm ngày trở lên.

* Lao động ngoài danh sách: Là những người tham gia công việc tại
doanh nghiệp nhưng không thuộc quyền quản lý và trả lương của doanh nghiệp
hoặc những người lao động tạm thời trong thời gian ngắn và hưởng lương theo
thoả thuận, không được tính trong quỹ lương của doanh nghiệp.
Việc huy động, sử dụng lao động hợp lý sẽ phát huy được trình độ chuyên
môn, tay nghề của người lao động. Đây là một trong các vấn đề cần được doanh
nghiệp quan tâm thường xuyên.

1.3 Chức năng của tiền lương, chế độ trả lương, các hình thức trả
lương, quỹ tiền lương, quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ.
1.3.1 Chức năng của tiền lương.
Ở Việt Nam trong suốt thời kỳ bao cấp trước đây, tiền lương không được
coi là giá trị hàng hoá của sức lao động. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, sức
lao động mới bắt đầu được coi là hàng hoá và tiền lương dần dần mới được hiểu
theo đúng bản chất của nó. Điều 55 Bộ Luật Lao động ghi :“Tiền lương của người
lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất
lao động, chất lượng và hiệu quả công việc”.
Tiền lương có 5 chức năng cơ bản sau:
- Chức năng tái sản xuất sức lao động: Theo C.Mác, “sức lao động là toàn
bộ khả năng về thể lực, trí lực tạo nên cho con người khả năng sáng tạo ra của cải
vật chất và tinh thần cho xã hội”. Sức lao động được duy trì và phát triển nhờ có tái
sản xuất sức lao động hay sản xuất sức lao động là để duy trì phát triển sức lao
động của con người, sản xuất ra sức lao động mới, tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao
trình độ. Tiền lương cung cấp cho người lao động nguồn vật chất cần thiết để thực
hiện quá trình tái sản xuất sức lao động.
- Chức năng đòn bẩy kinh tế : Với người lao động, tiền lương là thu nhập
chính đảm bảo cho cuộc sống của họ, kích thích họ phát huy tối đa năng lực của
mình, gắn trách nhiệm của mình với doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp sử dụng
công cụ tiền lương như một đòn bẩy thì sẽ phát huy được khả năng và trách nhiệm
của người lao động trong việc tăng năng suất lao động…cuối cùng là thúc đẩy sản

xuất phát triển.
- Chức năng công cụ quản lý của Nhà nước: Với doanh nghiệp thì lợi nhuận
tối đa là mục tiêu cao nhất, vì vậy doanh nghiệp luôn tìm cách tận dụng sức lao
động của công nhân để giảm tối đa chi phí sản xuất, đôi khi dẫn đến tình trạng bóc
lột sức lao động. Để đảm bảo quyền lợi cho người lao động mà vẫn khuyến khích
phát triển sản xuất ở các doanh nghiệp, Nhà nước ban hành các chính sách lao
động và tiền lương phù hợp với tình hình kinh tế -xã hội buộc cả người lao động và
người sử dụng lao động phải tuân theo.
- Chức năng thước đo hao phí lao động xã hội: Như ta đã biết, tiền lương là
giá cả sức lao động. Khi tiền lương trả cho người lao động ngang giá với giá trị sức
lao động mà họ bỏ ra để thực hiện công việc, ta có thể xác định được hao phí lao
động của toàn xã hội thông qua tổng quỹ lương trả cho toàn bộ người lao động.
- Chức năng điều tiết lao động: Trình độ lao động, thù lao lao động, sử dụng
lao động, cung ứng lao động ở các vùng, các ngành là không giống nhau. Để tạo sự
cân đối giữa các vùng, các ngành trong nền kinh tế quốc dân nhằm khai thác tối đa
các nguồn lực, Nhà nước phải điều tiết nguồn lao động thông qua chế độ, chính
sách tiền lương như bậc lương, phụ cấp…
1.3.2 Chế độ trả lương.
Để quản lý lao động và tiền lương, Nhà nước quy định chế độ tiền lương
gồm 2 loại: tiền lương cấp bậc và tiền lương chức vụ.
a) Chế độ tiền lương cấp bậc:
Chế độ tiền lương cấp bậc thường được áp dụng tính lương cho công nhân,
được xây dựng dựa trên số lượng và chất lượng lao động. Với người lao động, mỗi
loại công việc có yêu cầu, điều kiện làm việc khác nhau. Tiền lương cấp bậc thể
hiện sự khác biệt của các công việc, như vậy tiền lương cấp bậc giúp điều chỉnh
tiền lương giữa các ngành nghề một cách hợp lý và giảm đi sự bình quân trong lao
động.
Chế độ tiền lương cấp bậc gồm 3 yếu tố sau:
- Thang lương: Là bảng xác định quan hệ tỷ lệ tiền lương giữa các công
nhân cùng nghề hoặc các nhóm nghề giống nhau theo trình độ cấp bậc của họ. Một

Lương ngày = Mức lương cơ bản tháng (kể cả các khoản phụ cấp) Số ngày làm việc thực tế trong tháng
thang lương có các bậc lương và hệ số tương ứng. Hệ số này do Nhà nước qui
định.
- Mức lương: Là số lượng tiền tệ trả cho công nhân lao động trong một đơn
vị thời gian phù hợp với các bậc trong thang lương, trong đó mức lương tối thiểu
được qui định. Mức lương tối thiểu hiện nay được qui định tại Nghị định số
10/2000/NĐ-CP ngày 27/3/2000 là 210.000 đ/ tháng áp dụng đối với các đối tượng
hưởng lương, phụ cấp từ nguồn kinh phí thuộc ngân sách Nhà nước và người lao
động trong các doanh nghiệp.
- Tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật: Là văn bản qui định về mức độ phức tạp của
công việc và tay nghề của công nhân ở mức độ nào đó. Tiêu chuẩn này phản ánh
mức độ lành nghề của công nhân và là căn cứ để xác định mức lương.
b) Chế độ tiền lương chức vụ:
Chế độ này áp dụng đối với người lao động hưởng lương theo thời gian và
được thực hiện thông qua bảng lương do Nhà nước ban hành.
1.3.3 Các hình thức trả lương.
Hình thức trả lương theo thời gian và trả lương theo sản phẩm là hai hình
thức chủ yếu được áp dụng trong các doanh nghiệp hiện nay. Nó được kết hợp
hoặc không trong việc trả lương sao cho phù hợp với đặc điểm sản xuất, để tạo ra
sự công bằng trong sự phân phối thu nhập.
a) Hình thức trả lương theo thời gian:
Hình thức này áp dụng để trả cho khối lao động gián tiếp hoặc khối lao
động trực tiếp mà sản phẩm làm ra không thể định mức lao động được. Trong đó
có 2 loại: Trả lương theo thời gian đơn giản và trả lương theo thời gian có thưởng.
Căn cứ để trả lương là thời gian làm việc thực tế của người lao động, trình độ
thành thạo tay nghề của người lao động (được phản ánh thông qua bậc lương) và
hệ thống thang bảng lương do Nhà nước qui định.
* Hình thức trả lương theo thời gian đơn giản:
Hình thức trả lương này chỉ áp dụng cho trường hợp không thể xác định và
tính toán chặt chẽ công việc của người lao động, chỉ đòi hỏi đảm bảo chất lượng

sản phẩm mà không đòi hỏi năng suất lao động.
- Lương tháng =
Mức lương cơ bản
x
Số ngày làm việc thực
+
Phụ cấp
bình quân 1 ngày tế trong tháng (nếu có)
Lương giờ = Lương ngày x Số giờ làm việc thực tế 8 giờ
- Lương giờ: áp dụng đối với người làm việc tạm thời, đối với từng công
việc (ở nước ta hiện nay mới chỉ tính lương tháng và lương ngày).
Tuy hình thức trả lương này có ưu điểm là đơn giản và dễ tính toán, nhưng
nhược điểm lớn nhất là mang tính bình quân nên không khuyến khích được người
lao động tích cực trong công việc, không quán triệt nguyên tắc phân phối tiền
lương theo lao động. Vì vậy, xét về xu hướng chung thì chế độ trả lương này càng
ngày càng ít được sử dụng hơn.
*Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng:
Thực chất hình thức này là sự kết hợp giữa việc trả lương theo thời gian đơn
giản và tiền thưởng khi người lao động vượt mức chỉ tiêu số lượng và chất lượng.
Mức lương = Mức lương theo thời gian đơn giản + Tiền thưởng
Hình thức trả lương này có nhiều ưu điểm hơn hình thức trả lương theo thời
gian đơn giản, vừa phản ánh trình độ tay nghề vừa khuyến khích được người lao
động có trách nhiệm với công việc. Nhưng việc xác định tiền lương hợp lý rất khó
khăn, vì vậy nó vẫn chưa đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động.
b) Hình thức trả lương theo sản phẩm:
Đây là hình thức trả lương cơ bản áp dụng cho khối lao động trực tiếp sản
xuất hiện nay. Căn cứ để trả lương là số lượng sản phẩm hoặc số lượng công việc
đã hoàn thành trong kỳ (đảm bảo chất lượng), đơn giá lương sản phẩm, tỷ lệ
thưởng luỹ tiến do doanh nghiệp tự xây dựng. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, các doanh
nghiệp có thể áp dụng trả lương theo sản phẩm theo các hình thức sau:

* Trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân:
Cách trả lương này được áp dụng rộng rãi đối với công nhân trực tiếp sản
xuất trong điều kiện qui trình lao động của người công nhân mang tính độc lập
tương đối, có thể định mức kiểm tra và nghiệm thu sản phẩm một cách riêng biệt.

ĐG =


L


Q
đm
Trong đó:
ĐG: Đơn giá tiền lương.
L : Lương cấp bậc công nhân.
Q
đm
: Mức sản lượng định mức.

Tiền lương của công nhân được tính theo công thức:
L = ĐG x Q
Trong đó:
Q: Mức sản lượng thực tế.
- Ưu điểm: Mối quan hệ giữa tiền lương của công nhân nhận được và kết quả
lao động thể hiện rõ ràng, khuyến khích người lao động tăng năng suất, chất lượng
sản phẩm.
- Nhược điểm: Người công nhân ít quan tâm đến máy móc, tinh thần tập thể và
sự tương trợ lẫn nhau trong quá trình sản xuất ít nhiều bị hạn chế.


* Hình thức trả lương theo sản phẩm gián tiếp:
Hình thức trả lương này chỉ áp dụng cho công nhân phụ mà công việc của
họ có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả lao động của công nhân chính như công
nhân sửa chữa thiết bị trong nhà máy... Thu nhập về tiền lương của công nhân phụ
tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất của công nhân chính.
- Ưu điểm: Cách trả lương này khuyến khích công nhân phụ phục vụ tốt cho
công nhân chính.
- Nhược điểm: Do phụ thuộc vào kết quả của công nhân chính nên việc trả
lương chưa được chính xác, chưa thực sự đảm bảo đúng hao phí lao động mà công
nhân phụ bỏ ra.

* Hình thức trả lương theo sản phẩm tập thể:
Hình thức trả lương này áp dụng đối với những công việc cần một tập thể
công nhân thực hiện như lắp ráp thiết bị, sản xuất theo dây truyền.
- Ưu điểm: Khuyến khích công nhân trong tổ, nhóm nâng cao trách nhiệm trước
tập thể, quan tâm đến kết quả cuối cùng của tập thể.
- Nhược điểm: Sản lượng của công nhân không trực tiếp quyết định tiền lương
của họ do vậy ít kích thích công nhân nâng cao năng suất lao động cá nhân, tiền
lương vẫn mang tính bình quân.

* Hình thức trả lương theo sản phẩm luỹ tiến:
Hình thức này áp dụng để trả lương cho công nhân làm việc ở khâu trọng
yếu mà việc tăng năng suất lao động sẽ thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các
khâu khác hoặc trong trường hợp cần giải quyết kịp thời một công việc nào đó theo
đúng thời hạn qui định.
Tiền lương sản phẩm phải trả cho người lao động được tính như sau:

×