Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

MỘT SỐ NHẬN XÉTKIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở XÍ NGHIỆP ĐIỆN TỬ TRUYỀN HÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.96 KB, 24 trang )

MỘT SỐ NHẬN XÉTKIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG
TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở XÍ
NGHIỆP ĐIỆN TỬ TRUYỀN HÌNH
I. Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm
Trong công cuộc đổi mới và chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh
tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước XN ĐTTH nói riêng và các DN nói chung
đều phải tìm cách tự khẳng định mình trên thị trường để tồn tại và không ngừng phát triển.
Tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng
cao chất lượng sản phẩm … luôn là những nhiệm vụ quan trọng để giúp doanh nghiệp có
thể tối đa hoá lợi nhuận. Bên cạnh các biện pháp như giảm định mức tiêu hao vật liệu, tận
dụng tối đa công suất làm việc của máy móc, thiết bị, nâng cao chất lượng lao động, bố trí
lao động hợp lý, hiệu quả… thì việc tổ chức tốt công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sẽ giúp đưa ra những quyết định quản lý tối ưu. Cùng với việc tổ chức, ghi chép,
phản ánh theo đúng giá trị thực tế của chi phí ở thời điểm phát sinh chi phí còn phải phản
ánh từng loại chi phí theo đúng đối tượng chịu chi phí, có như vậy giá thành sản phẩm của
doanh nghiệp mới được tính toán chính xác, đúng và đầy đủ.
Do vậy, việc hoàn thiện công tác tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm là yêu cầu
khách quan phù hợp với sự phát triển và nhu cầu quản lý.
Phương hướng để hoàn thiện công tác tổ chức hạch toán kế toán nói chung và công tác
hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành nói riêng cần được xem xét theo những định
hướng sau:
Thứ nhất: Phải đảm bảo sự tuân thủ và thống nhất chặt chẽ giữa những quy định trong
điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước, trong chế độ thể lệ kế toán do Nhà nước ban hành với
chế độ kế toán đặc thù của ngành sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai: Phải đảm bảo sự phù hợp giữa đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, tổ chức
quản lý của doanh nghiệp với chế độ kế toán chung. Bởi vì mỗi doanh nghiệp có những
điều kiện, đặc điểm riêng. Cho nên không thể có một mô hình kế toán chung cho tất cả các
doanh nghiệp. Vận dụng chế độ kế toán một cách linh hoạt, hợp lý sẽ giúp doanh nghiệp có
thể tạo ra hiệu quả cao hơn trên cơ sở căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, tính chất hoạt động
và quy mô của mình ; sự phân cấp quản lý, trình độ nghiệp vụ, chuyên môn của nhân viên


kế toán .
Thứ ba: Phải đảm bảo sự tiết kiệm và hiệu quả trong việc tổ chức công tác kế toán ở
doanh nghiệp. Muốn vậy phải tổ chức công tác kế toán khoa học, hợp lý, tiết kiệm nhưng
vẫn đảm bảo thực hiện tốt nhất các chức năng, nhiệm vụ của kế toán, chất lượng công tác
kế toán đạt được cao nhất với chi phí thấp nhất.
Thứ tư : Phải đảm bảo phản ánh kịp thời, chính xác, đầy đủ chi phí và giá thành của
doanh nghiệp .
Thứ năm : Phải đảm bảo thực hiện tốt chức năng thông tin cho nhà quản trị doanh
nghiệp . Bởi vì tất cả các định hướng trên suy cho cùng cũng để phục vụ cho việc cung cấp
thông tin chính xác cho nhà quản lý ra các quyết định.
II. Đánh giá chung công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
tại XN ĐTTH
Được thành lập trong khi nền kinh tế có nhiều thay đổi với tuổi đời còn non trẻ trong
một lĩnh vực không còn mới mẻ trên thế giới. Là một XN trực thuộc tổng công ty VTC với
quy mô nhỏ và số lượng CB,CNV ít nhưng hằng năm kết quả đạt được cho thấy sự cố gắng
không ngừng của toàn bộ CB, CNV trong XN.
Sau một thời gian thực tập tại XN ĐTTH em thấy công tác kế toán của XN có những
ưu điểm sau:
Thứ nhất: Về bộ máy kế toán của XN
Với hình thức kế toán tập trung như hiện nay đã đảm bảo sự lãnh đạo tập trung thống
nhất đối với công tác kế toán trong XN. Bộ máy kế toán gọn nhẹ có tinh thần trách nhiệm
cao, mặc dù có sự kiêm nhiệm nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc kế toán. Việc
phân công công việc trong bộ máy kế toán đã tạo điều kiện cho mỗi người phát huy hết
năng lực, trình độ chuyên môn, có tinh thần tương trợ lẫn nhau trong công việc.
Thứ hai: Về hệ thống chứng từ kế toán
Hệ thống chứng từ hạch toán ban đầu của XN được tổ chức hợp pháp, hợp lệ, đầy đủ,
tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc về chế dộ chứng từ kế toán. Quá trình luân chuyển chứng
từ được thực hiện nhanh, đầy đủ, kịp thời giúp nhân viên kế toán có thể hoàn thành tốt
chức năng của mình.
Thứ ba: Về hệ thống sổ kế toán

XN áp dụng hình thức tổ chức sổ kế toán theo hình thức Chứng từ ghi sổ hoàn toàn
phù hợp với đặc điểm của ngành sản xuất ít mặt hàng, ít chủng loại, có đặc tính gần giống
nhau. Về cơ bản, hệ thống sổ chi tiết và sổ tổng hợp đã đáp ứng được phần nào cho công
tác hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm . Các nghiệp vụ liên quan đến tiền mặt,
tiền gửi ngân hàng, tạm ứng diễn ra thường xuyên, liên tục trong tháng cho nên việc vào
chứng từ ghi sổ theo từng tháng và sổ Cái từng quý giúp kế toán có thể tổng hợp được số
liệu đầy đủ, chính xác và đảm bảo tiến độ thực hiện công việc trong tháng và quý.
Thứ tư: Về các phương pháp được áp dụng trong công tác kế toán
Việc sử dụng phương pháp thẻ song song để hạch toán chi tiết hàng tồn kho giúp kế
toán có thể giảm nhẹ công tác hạch toán do phương pháp này rất đơn giản trong khâu ghi
chép, đối chiếu số liệu và phát hiện sai sót đồng thời cung cấp thông tin nhập, xuất, tồn kho
của từng loại kịp thời, chính xác. Phương pháp kê khai thường xuyên giúp kế toán tổng
hợp về hàng tồn kho một cách thường xuyên, liên tục.
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm
ở XN hoàn toàn phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất và quản lý, phù hợp với quy trình
công nghệ sản xuất cũng như đặc điểm về sản phẩm . Áp dụng phương pháp trực tiếp để
tính giá thành sản phẩm vừa đảm bảo kết quả chính xác, công việc tính toán lại đơn giản.
III. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí
và tính giá thành sản phẩm ở XN ĐTTH
Bên cạnh những cố gắng không ngừng của bộ phận kế toán trong công tác hạch toán
kế toán tại XN nhưng do số lượng nhân viên kế toán ít, thực hiện kế toán bằng tay, yêu cầu
phải có thông tin nhanh chóng, kịp thời nên không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định.
Qua một thời gian ngắn tìm hiểu thực tế công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm ở XN ĐTTH, trên cơ sở những kiến thức đã tiếp thu được trong
thời gian họ tập và nghiên cứu tại trường, dưới giác độ là một sinh viên thực tập em xin
mạnh dạn nêu ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện hơn công tác kế toán tập hợp chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm ở XN ĐTTH.
1. Về việc áp dụng kế toán trên máy vi tính
Tại XN việc thống kê, tính toán, kế toán đều thực hiện một cách thủ công. Trong khi
đó do đặc điểm sản xuất kinh doanh các nghiệp vụ kinh tế về thu, chi tiền mặt, tạm ứng,

hạch toán chi phí sản xuất phát sinh thường xuyên, liên tục nên sổ sách dùng để ghi chép,
phản ánh nhiều, mỗi khi cần số liệu từ kỳ trước thì việc tìm kiếm mất nhiều thời gian.
Với nền kinh tế thị trường và khoa học kỹ thuật tiên tiến như ngày nay, việc ứng dụng
tin học vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là điều cần thiết, cùng với sự cạnh tranh
gay gắt trên thị trường thì thông tin kế toán cần phải cung cấp chính xác, kịp thời, đầy đủ,
và được xử lý nhanh chóng hơn nữa.
Vì vậy, XN nên áp dụng kế toán trên máy vào công tác hạch toán kế toán. Hiện nay có
rất nhiều phần mềm kế toán phù hợp cho nhiều loại hình doanh nghiệp. Và hình thức
chứng từ ghi sổ đang sử dụng ở XN cũng rất thuận tiện cho việc áp dụng kế toán trên máy.
2. Về việc phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Để thuận tiện cho công tác tính giá thành sản xuất sản phẩm, chi phí sản xuất thường
được phân loại theo 3 khoản mục:Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp; Chi phí nhân công trực
tiếp; Chi phí sản xuất chung
Cách phân loại như trên giúp cho việc xác định chính xác mức đóng góp của từng
khoản mục chi phí vào giá thành sản phẩm hoàn thành.
Khoản mục chi phí nhân công trực tiếp giúp kế toán tính toán đầy đủ và chi tiết các chi
phí liên quan đến tiền lương, phụ cấp mang tính chất lương, các khoản trích theo lương mà
XN phải trả cho người lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm, phân biệt với mức đóng góp
của các bộ phận khác.
Hiện nay, XN không tách biệt phần chi phí liên quan đến lao động trực tiếp sản xuất
sản phẩm mà tất cả đều hạch toán vào chi phí nhân viên. Điều này gây khó khăn cho việc
xác định đúng phần chi phí cho từng đối tượng lao động trong XN, cho công tác lập kế
hoạch và quản lý. Vì vậy, XN nên mở thêm khoản mục chi phí nhân công trực tiếp.
Giá thành sản phẩm ở XN được phân loại theo phạm vi phát sinh chi phí. Theo em, để
có căn cứ so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện giá thành quý này có tiết kiệm và
hiệu quả hơn các thời kỳ trước không kế toán nên phân loại giá thành theo thời điểm và
nguồn số liệu. Việc tính giá thành kế hoạch giúp cho kế toán có thể đánh giá được tình
hình thực hiện kế hoạch giá thành và hạ giá thành của thời kỳ này so với các thời kỳ trước.
Nó là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tạo ra nhiều lợi nhuận hơn.
3. Về việc phân loại và quản lý vật tư

Nguyên vật liệu sử dụng trong các doanh nghiệp có nhiều loại, nhiều thứ có vai trò và
công dụng khác nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện đó, đòi hỏi các
doanh nghiệp phải phân loại nguyên vật liệu thì mới tổ chức tốt việc quản lý hạch toán
nguyên vật liệu.
Hiện nay, kế toán vật liệu không tiến hành phân loại NVL. Khi nhập, xuất nguyên vật
liệu thường hạch toán rất đơn giản. Muốn biết cụ thể là loại gì phải dựa vào hợp đồng mua
hàng hay phiếu xuất kho. Do đó chưa thể đáp ứng yêu cầu thông tin về mỗi loại nguyên vật
liệu, chưa cho biết được mỗi loại đóng vai trò như thế nào để tạo ra sản phẩm.
NVL ở XN thường là các bộ linh kiện đi với từng loại sản phẩm, đèn hình, vỏ máy ...
và những VL khác như pin, hướng dẫn sử dụng, mút xốp, thiếc hàn, tem dán, hộp carton…
Theo em XN chỉ cần phân loại nguyên vật liệu đơn giản như sau:
Đối với bộ linh kiện đi với từng sản phẩm (trong một bộ linh kiện có rất nhiều chi tiết
nên để đơn giản ta chỉ cần phân loại từng bộ linh kiện đi với từng sản phẩm), đèn hình, vỏ
máy là những nguyên vật liệu cấu thành nên hình thái của sản phẩm nên sẽ là nguyên vật
liệu chính.
Các vật liệu còn lại được coi là vật liệu phụ.
Để đảm bảo thuận tiện, tránh nhầm lẫn cho công tác quản lý và hạch toán về số lượng
và giá trị đối với từng thứ nguyên vật liệu, kế toán còn nên lập sổ danh điểm vật liệu để
thống nhất tên gọi, ký mã hiệu, quy cách, số hiệu, đơn vị tính … của từng danh điểm
nguyên vật liệu. Sổ danh điểm vật tư có thể làm theo mẫu sau:
SỔ DANH ĐIỂM VẬT TƯ
Ký hiệu Tên, nhãn hiệu, quy cách NVL Đơn vị
tính
Đơn giá
hạch toán
Ghi
chú
Nhóm Danh điểm NVL
R1
R1

R2
R2
R2
R2
T11
T11
T12
T12
T21
T21
T21
T21
T22
R11
R12
R21
R22
R23
R24
T111
T112
T121
T122
T211
T212
T213
T214
T221
Bộ linh kiện cho Radio
Vỏ máy của Radio

………………………………
Pin cho Radio
Hướng đẫn sử dụng của Radio
Mút xốp của Radio
Hộp carton của Radio
………………………………
Bộ linh kiện Tivi 21”
Đèn hình Tivi 21”
………………………………
Bộ linh kiện Tivi 29”
Đèn hình Tivi 29”
………………………………
Điện trở Tivi 21”
Hướng dẫn sử dụng Tivi 21”
Mút xốp Tivi 21”
Hộp carton Tivi 21”
………………………………
Điện trở Tivi 29”
………………………………
Bộ
Cái
Bộ
Quyển
Bộ
Hộp
Bộ
Bộ
Bộ
Bộ
Cái

Quyển
Bộ
Hộp
Cái
Giải thích:
R1 : Nguyên vật liệu chính của Radio
R2 :Vật liệu phụ của Radio
T11: Nguyên vật liệu chính của Tivi 21”
T12: Nguyên vật liệu chính của Tivi 29”
T21: Vật liệu phụ của Tivi 21”
T22: Vật liệu phụ của Tivi 29”
4. Về tài khoản sử dụng
4.1 Tài khoản sử dụng
- Một số tài khoản như TK 621, 154, 155 không được mở chi tiết cho từng đối tượng tính
giá thành gây khó khăn cho công tác tính giá thành. Khi muốn biết chính xác chi phí hay
giá thành của đối tượng nào thì kế toán phải tiến hành tổng hợp trên sổ chi tiết của TK đó.
Điều này rất bất lợi cho việc kiểm tra, đối chiếu. Theo em, XN nên mở thêm tiểu khoản và
sổ chi tiết cho các TK 621, 154, 155 ứng với từng loại sản phẩm của XN.
Ví dụ : TK 621- Radio
TK 621- Tivi 21”
TK 621- Tivi 29”
- Như đã nói ở phần trước, kế toán nên mở thêm khoản mục chi phí nhân công trực tiếp và
tương ứng với nó là TK 622 “ Chi phí nhân công trực tiếp” để giúp cho việc hạch toán
chính xác toàn bộ chi phí liên quan đến lao động trực tiếp sản xuất ra sản phẩm .
4.2 Về nội dung của tài khoản
Trong TK 6277-VC “Chi phí vận chuyển” khi hạch toán còn có một số khoản chi phí
phát sinh ngoài chi phí vận chuyển như chi phí trả tiền thuê lao động công nhật, thời vụ,
hay còn có khoản chi phí vận chuyển liên quan đến tiêu thụ sản phẩm.
Ví dụ : Kế toán định khoản nghiệp vụ vận chuyển cột ăng ten từ XN lên Yên Châu:
Nợ TK 6277-VC : 1.309.500

Có TK 111 : 1.309.500
Chi phí này được coi là chi phí tiêu thụ sản phẩm chứ không phải là chi phí sản xuất
chung. Kế toán phải định khoản nghiệp vụ này như sau:
Nợ TK 6417-VC : 1.309.500
Có TK 111 : 1.309.500
Đối với khoản chi phí thuê lao động công nhật, thời vụ kế toán nên mở thêm một TK
cấp 2 như TK 6277- LĐ “ chi phí lao động thuê ngoài” để phản ánh toàn bộ chi phí liên
quan đến lao động thuê ngoài. Như vậy sẽ phản ánh đúng hơn nội dung của TK.
5. Về việc xác định phạm vi phát sinh chi phí
Trong một kỳ kinh doanh, XN phải chi ra các khoản liên quan đến chi phí sản xuất, chi
phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Từ các khoản chi phí này sẽ hình thành nên giá
thành sản xuất và giá thành toàn bộ sản phẩm. Vì vậy, xác định chính xác phạm vi phát
sinh chi phí đóng vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá kết quả thực hiện chi phí và giá
thành ở kỳ này với các kỳ kinh doanh khác, với việc đề ra kế hoạch, lập dự toán SX.
* Công tác phí ở XN bao gồm các chi phí dành cho CB, CNV đi công tác tại các tỉnh. Xét
về bản chất thì chi phí này liên quan đến hoạt động tiêu thụ, kinh doanh nhiều hơn là liên
quan đến sản xuất sản phẩm. Cách hạch toán như hiện nay không làm cho tổng chi phí ở
XN bị thay đổi nhưng làm giảm chi phí bán hàng và tăng chi phí sản xuất sản phẩm trong
kỳ. Điều này sẽ ảnh hưởng tới tính chính xác, hợp lý của giá thành sản xuất sản phẩm . XN
nên hạch toán công tác phí sang chi phí bán hàng.
* Tài sản đang theo dõi tại XN chỉ có xe ô tô Toyota Hiacc Supe Wagon và tài sản này
dùng cho quản lý doanh nghiệp chứ không phải là cho sản xuất. Vì vậy kế toán nên hạch
toán chi phí khấu hao cho tài sản này vào chi phí quản lý doanh nghiệp .
Định khoản lại như sau:
Nợ TK 642 : 22.500.000
Có TK 214 : 22.500.000
6. Về việc thanh toán và phân bổ lương cho CB, CNV trong XN
Toàn bộ chi phí liên quan đến tiền lương của CB, CNV trong XN đều được hạch toán
vào TK 6271 “ Chi phí nhân viên”. Điều này làm cho chi phí sản xuất bị tăng lên, chi phí
bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp giảm đi và không phản ánh được phần chi phí liên

quan đến nhân công trực tiếp sản xuất ra sản phẩm, nhân viên quản lý, nhân viên bán hàng.
Mặt khác, kế toán hoàn toàn dựa vào phiếu chi trong kỳ để tính ra lương và các khoản
trích theo lương.
Khi xem mẫu 2a:“Danh sách thanh toán lương kỳ 4 tháng 12 năm 2001” ta thấy nhân
viên hành chính sử dụng công thức:
Các khoản trích theo lương = tiền lương cơ bản 1 tháng x tỷ lệ trích theo lương
= tiền lương một kỳ của người lao động x tỷ lệ trích theo
lương
( Do hệ số kinh doanh trong kỳ của XN là 4).
Công thức này sẽ hợp lý khi người lao động không nghỉ buổi nào trong cả tháng. Còn
khi có trường hợp phải nghỉ thì cách tính trên sẽ không phản ánh đúng mức lương cơ bản
một tháng của họ và các khoản trích theo lương.
Ta biết rằng tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động, các doanh
nghiệp sử dụng tiền lương làm đòn bẩy kinh tế để khuyến khích tinh thần tích cực lao
động, là nhân tố thúc đẩy để tăng năng suất lao động. Đối với các doanh nghiệp, tiền lương
phải trả người lao động một yếu tố cấu thành nên giá trị sản phẩm, dịch vụ do doanh
nghiệp sáng tạo ra.
Quản lý lao động và tiền lương là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, nó là nhân tố giúp cho doanh nghiệp hoàn thành và
hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất, kinh doanh của mình. Tổ chức hạch toán lao
động, tiền lương giúp cho công tác quản lý lao động của doanh nghiệp vào nề nếp, thúc
đẩy người lao động chấp hành tốt kỷ luật lao động, tăng năng suất lao động và hiệu suất
công tác. Đồng thời cũng tạo cơ sở cho việc tính lương đúng nguyên tắc phân phối theo lao
động. Tổ chức tốt công tác hạch toán lao động tiền lương giúp cho doanh nghiệp quản lý
tốt quỹ tiền lương, bảo đảm việc trả lương và trợ cấp BHXH đúng nguyên tắc, đúng chế
độ, kích thích người lao động hoàn thành nhiệm vụ được giao, đồng thời cũng tạo được cơ
sở cho việc phân bổ chi phí nhân công vào giá thành sản phẩm được chính xác.
Chính vì vậy, để nâng cao được chất lượng công tác hạch toán lao động, tiền lương ở
XN em xin mạnh dạn đưa ra giải pháp hạch toán lại chi phí tiền lương trên cơ sở cách hạch
toán của XN như sau:

Căn cứ vào bảng chấm. công của từng bộ phận, nhân viên hành chính tiến hành lập
danh sách thanh toán lương từng kỳ theo mẫu:
DANH SÁCH THANH TOÁN LƯƠNG KỲ … THÁNG … NĂM …
T
T
Họ và tên
Hệ số
lương
cơ bản
Phụ
cấp
Ngày
công
Thành tiền Các khoản khấu trừ Thự
c
lĩnh

nhận
Kỳ
này
Luỹ kế từ
kỳ trước
BH
XH
B
H
YT
Thu
ế
TN


.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
I
II
III
BP QLDN
…………..
BP QL PX
…………..
BP sản
xuất
…………..
Cộng
Đến cuối tháng nhân viên hành chính lập bảng tính lương và các khoản trích theo
lương theo mẫu:
BẢNG TÍNH LƯƠNG, CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG VÀ KHOẢN KHẤU TRỪ
Tháng … năm …
Các khoản trích theo lương Các khoản khấu trừ

×