Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP Ở CÔNG TY CƠ GIỚI VÀ XÂY LẮP SỐ 13

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.37 KB, 16 trang )

NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP Ở CÔNG TY CƠ GIỚI VÀ XÂY LẮP SỐ 13.
I.ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẠI CÔNG TY CƠ GIỚI VÀ XÂY LẮP SỐ 13.
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, công ty cơ giới và xây lắp
số 13 đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Với sự nỗ lực phấn đấu của công
nhân viên, tập thể ban lãnh đạo, sự quan tâm của tổng công ty xây dựng và phát
triển hạ tầng, công ty đã lớn mạnh không ngừng cả về quy mô lẫn chất lượng sản
xuất, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động, góp một phần không nhỏ vào Ngân
sách Nhà nước. Với việc vận dụng sáng tạo, có hiệu quả các quy luật kinh tế thị
trường, đồng thời thực hiện chủ trương cải tiến quản lý kinh tế và chính sách kinh
tế của Nhà nước, công ty đã tạo được một chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Để
đạt được điều này, công ty luôn tìm cách tiếp cận thị trường, mở rộng quy mô kinh
doanh, thu hút khách hàng, ký kết các hợp đồng kinh doanh xây dựng. Trên cơ sở
mở rộng sản xuất bằng cách tìm kiếm thêm công trình, thêm sản phẩm ngoài phần
kế hoạch chính hàng qúy, hàng năm Tổng công ty giao cho công ty khuyến khích
các phòng ban tìm thêm công trình ngoài kế hoạch theo chức năng hành nghề trong
giấy phép kinh doanh quy định. Để có thể ký kết nhận thầu công trình, công ty
thực hiện theo cơ chế đấu thầu xây lắp ban hành theo quyết định số 60-BXD/VKT
ngày 30/3/1994 của Bộ trưởng Bộ Xây Dựng. Tùy theo mô hình tính chất loại công
trình và điều kiện cụ thể của mỗi công trình có thể tổ chức đấu thầu xây lắp toàn bộ
công trình hoặc từng hạng mục công trình. Đối với mỗi dự án, công ty đều lập hồ
sơ dự thầu, lập ra các dự án tối ưu để giành thầu công trinh. Công ty có được
những thành tựu như vậy là do những đóng góp không nhỏ của hạch toán kế toán
trong các khía cạnh sau:
Về bộ máy kế toán: Được tổ chức gọn nhẹ, quy trình làm việc khoa học. Cán
bộ kế toán được bố trí hợp lý phù hợp với trình độ và khả năng của mỗi người, tạo
điều kiện nâng cao trách nhiệm đối với công việc được giao. Chính vì thế mà việc
hạch toán nội bộ có hiệu quả, góp phần đắc lực vào công tác quản lý của công ty.
Về công tác kế toán : Nhìn chung, chứng từ ban đầu được tổ chức hợp pháp,
hợp lệ, đầy đủ. Cách thức hạch toán của công ty nói chung đã khá hữu hiệu phù
hợp với chế độ kế toán cải cách. Bên cạnh đó, phòng kế toán của công ty đã xây


dựng được một hệ thống sổ sách kế toán hợp lý, khoa học, phù hợp với mục đích,
yêu cầu của chế độ kế toán mới. Ngoài ra, công ty còn trang bị và mua sắm một
loạt máy vi tính cho nhân viên kế toán, áp dụng thành công một số phần hành hạch
toán kinh doanh trên máy vi tính với hệ thống sổ sách phù hợp theo hình thức Nhật
ký chung đúng với yêu cầu của Bộ xây dựng, đáp ứng yêu cầu quản lý của công ty,
giúp cho nhân viên kế toán giảm bớt được khối lượng công việc.
Trong quá trình áp dụng chế độ kế toán mới, tuy còn gặp nhiều khó khăn do
phải tiếp cận với những khái niệm mới, quan điểm mới nhưng bộ máy kế toán của
công ty đã biết vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo có hiệu quả các quy định kế
toán mới vào điều kiện cụ thể của công ty mình.
Về công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm kế toán
công ty đã tổ chức hạch toán chi phí cho từng công trình, hạng mục công trình
trong từng qúy một cách rõ ràng, cụ thể, phục vụ tốt yêu cầu quản lý chi phí sản
xuất. Việc kiểm tra khối lượng xây lắp dở dang ở các công trình, hạng mục công
trình được tổ chức một cách khoa học, cung cấp số liệu chính xác, kịp thời đáp ứng
được cho công tác tính giá thành sản phẩm. Công ty đã áp dụng hình thức giao
khoán xuống các đội xây dựng và thi công. Đây là một hình thức quản lý hợp lý,
tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ thi công công trình tăng năng suất lao động, tiết
kiệm vật tư, tiền vốn và hạ giá thành sản phẩm. Phương pháp khoán sản phẩm
trong XDCB tạo điều kiện gắn lợi ích vật chất của người lao động với chất lượng
và tiến độ thi công, xác định rõ trách nhiệm vật chất của người lao động (từng tổ,
đội) trên cơ sở phát huy tính chủ động sáng tạo, khả năng hiện có của công ty. Tuy
nhiên, hình thức khoán gọn công trình ở đây không có nghĩa là "khoán trắng" mà là
khoán có sự quản lý chặt chẽ của các phòng ban. Phòng kế hoạch, phòng kinh tế-
kỹ thuật, phòng cơ giới chịu trách nhiệm quản lý giám sát về tiến độ, khối lượng và
chất lượng công trình. Phòng kế toán tài vụ giám sát về mặt tài chính phối hợp với
phòng kế hoạch lập thủ tục thanh toán với bên A. Các đội trưởng đội thi công nhận
khoán gọn chịu trách nhiệm ràng buộc trước giám đốc: phải đảm bảo chất lượng và
tiến độ công trình, đảm bảo hoàn thành dự toán thi công, quyết toán công trình với
công ty và với bên A.

Sự phối hợp trên đây giữa các phòng ban công ty với đội phân xưởng, luôn
đảm bảo cho việc tính đầy đủ, chính xác giá thành công trình, giải quyết tốt mối
quan hệ giữa công ty với người lao động, chủ đầu tư, nhà nước và các bên liên
quan...đi đôi với công tác khuyến khích tăng năng suất lao động qua hình thức
khoán, công ty còn chú trọng đến chế độ khen thưởng kịp thời nhằm động viên tinh
thần lao động của cán bộ công nhân viên.
Những điểm làm được trên đây là do kết quả công sức lao động của toàn thể
cán bộ nhân viên công ty, một phần không nhỏ trong đó là sự cố gắng của phòng
tài vụ thực hiện vai trò hạch toán quản lý tài chính.
Bên cạnh những mặt cần phát huy đó, công ty còn tồn tại một số hạn chế cụ
thể:
-Công ty áp dụng loại hình kế toán tập trung, hình thức nhật ký chung nên
khối lượng công việc của phòng kế toán tài vụ tương đối lớn. Thông tin kế toán về
chi phí sản phẩm được chuyển lên từ các đội công trình ở xa trung tâm nên gây mất
thời gian và tăng khối lượng công việc của phòng kế toán- tài vụ trên công ty khi
kiểm tra đối chiếu.
- Đối với công tác kế toán chi phí vật tư: Việc giao khoán gọn cho các đội
công trình tự lo mua sắm vật tư đôi khi còn khó khăn, gây cản trở tiến độ thi công
công trình. Công ty ứng tiền trước cho các đội tự mua vật liệu, không trực tiếp mua
vật tư, do đó không nắm được lượng xuất nhập cụ thể là bao nhiêu, không kiểm
soát được giá cả, chất lượng vật tư, chỉ khi cuối tháng thống kê đội tập hợp chứng
từ gửi lên phòng kế toán tài vụ của công ty mới biết. Hơn nữa, ở các đội công trình
vật tư xuất kho theo giá thực tế đích danh nhưng không mở sổ danh điểm vật liệu
và chưa thực hiện việc xác định nguyên vật liệu tồn kho đầu kỳ, cuối kỳ ở công
trường nên hạn chế phần nào tính chính xác của phương pháp tính giá vật liệu này.
- Đối với công tác kế toán chi phí nhân công: Công ty không trích trước tiền
lương nghỉ phép cho công nhân trực tiếp sản xuất. Như chúng ta đã biết, số ngày
nghỉ phép trong năm là do nhà nước quy định do đó tiền lương công nhân nghỉ
phép ở đây là định phí. Đồng thời, việc xây dựng công trình phụ thuộc vào thiên
nhiên, có nhiều tháng thi công bị đình trệ và rất nhiều công nhân nghỉ phép vào dịp

này. Việc không trích trước tiền lương nghỉ phép cho công nhân trực tiếp sẽ làm
cho giá thành công trình không phản ánh chính xác chi phí thực tế bỏ ra.
- Đối với công tác chi phí sử dụng máy thi công: Kế toán công ty coi chi phí
máy thi công chỉ gồm chi phí chung cho máy thi công (TK 627M) mà không tính
chi phí nguyên liệu, vật liệu sử dụng cho máy thi công, nhân công điều khiển máy
vào khoản mục máy thi công - phần chi phí nguyên vật liệu tính vào khoản mục
nguyên vật liệu trực tiếp, phần nhân công tính vào khoản mục nhân công trực tiếp.
Việc hạch toán như vậy không làm thay đổi giá thành nhưng làm thay đổi tỷ lệ giữa
các khoản mục trong giá thành gây ra sự thiếu chính xác khi phân tích giá thành
theo khoản mục.
- Đối với công tác ghi sổ kế toán:
Tại công ty việc thực hiện ghi sổ kế toán có phần chưa đúng với chế độ do
Bộ Tài chính ban hành. Cụ thể: trong NKC chưa ghi đầy đủ ngày tháng ghi sổ.
- Do tính chất và yêu cầu của công tác kế toán nên công việc không giàn đều
trong năm và cho mọi người trong phòng kế toán - tài vụ, có những phần hành kế
toán không thể tách rời nhau nên có nhân viên kế toán rất nhiều việc phải làm
nhưng có nhân viên lại ít việc, đặc biệt tập trung vào cuối niên độ kế toán.
-Đối với việc xây dựng mô hình cung cấp thông tin về chi phí, giá thành sản
phẩm ở công ty: Công ty chưa xây dựng mô hình kế toán quản trị do đó lãnh đạo
công ty sẽ khó khăn hơn trong việc ra quyết định.
2. Sự cần thiết và yêu cầu của việc hoàn thiện.
2.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện.
Sự tồn tại lâu dài của một doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều nhân tố nhưng
điều kiện tiên quyết là: doanh nghiệp phải biết ứng xử giá cả một cách linh hoạt,
biết tính toán chi phí bỏ ra, biết khai thác khả năng của mình, giảm chi phí tới mức
thấp nhất để sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh theo lợi nhuận tối đa. Muốn vậy,
chỉ có hạch toán chi phí và tính giá thành đầy đủ chính xác thì mới phục vụ cho
việc phân tích đánh giá kết quả, tổ chức quản lý và sản xuất nâng cao hiệu quả
quản trị doanh nghiệp. Kế toán là khoa học thu nhận xử lý và cung cấp thông tin về
tài sản và sự vận động của tài sản nhằm kiểm tra giám sát toàn bộ hoạt động kế

toán tài chính của đơn vị đó. Thông qua số liệu do bộ phận kế toán tập hợp chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm, lãnh đạo doanh nghiệp đánh giá tình hình thực
hiện mức chi phí, tiết kiệm chi phí và kế hoạch giá thành sản phẩm. Từ đó, đề ra
các biện pháp hữu hiệu, kịp thời trong công tác quản lý chi phí, giá thành và các
quyết định phù hợp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Việc phân tích đánh giá
đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có thể dựa trên giá thành
chính xác. Để giá thành được tính chính xác lại chịu ảnh hưởng của kết quả tập
hợp chi phí sản xuất. Do đó tổ chức tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá
thành sản phẩm, xác định lượng giá trị các yếu tố sản xuất, là cơ sở để xác định
đúng đắn nội dung phạm vi chi phí cấu thành nên giá thành của sản phẩm, xác định
lượng giá trị các yếu tố chi phí đã được chuyển dịch vào hiệu quả thực hiện các
biện pháp tổ chức kỹ thuật sản xuất, phát hiện và tìm ra các nguyên nhân dẫn đến
phát sinh chi phí không hợp lý để có biện pháp loại trừ.
Riêng đối với ngành xây dựng cơ bản, việc hạch toán đúng chi phí sản xuất
và tính giá thành càng trở nên quan trọng và có quyết định bởi sự tác động của
những đặc điểm như giá cả biến động, giá nhân công thay đổi theo từng vùng xây
dựng ... thông qua chỉ tiêu giá thành ta có thể xác định kết quả của quá trình sản
xuất kinh doanh, thúc đẩy sự sáng tạo tìm tòi phương án giải quyết công việc có
hiệu quả. Ngoài ra, phản ánh chính xác giá thành xây lắp còn có nghĩa là phản ánh
chính xác trình độ kỹ thuật thi công, trình độ tổ chức sản xuất, sử dụng lao động,
vật liệu, thiết bị khả năng sử dụng vốn ... Do vậy, sự cần thiết phải hoàn thiện kế
toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm xây lắp được xuất phát
từ các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Do sự phức tạp của hoạt động xây lắp là ngành sản xuất độc lập,
có chức năng xây dựng tài sản cố định phục vụ cho các ngành kinh tế quốc dân,
sản phẩm xây lắp mang tính chất cố định và đơn chiếc, thời gian thi công dài và có
giá trị lớn, nên việc quản lý về đầu tư xây dựng là một quá trình khó khăn phức
tạp, trong đó tiết kiệm chi phí nhằm hạ giá thành sản phẩm là một trong những mối
quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp.
Thứ hai: Xuất phát từ yêu cầu quản lý và nhiệm vụ kế toán chi phí xây lắp

và tính giá thành sản phẩm xây lắp.Việc tổ chức và quản lý tốt công tác chi phí xây
lắp và tính giá thành sản phẩm xây lắp là một yếu tố thiết yếu.
Thứ ba: Xuất phát từ chế độ kế toán mới ban hành theo quyết định
1865/1998/QĐ/CĐKT áp dụng cho các doanh nghiệp xây lắp từ 01/01/1999 và
thực tế thực hiện tại mỗi doanh nghiệp.
Thứ tư, xuất phát từ những hạn chế trong công tác kế toán của công ty. Do
đó, cần thiết phải hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
xây lắp.
2.2 Yêu cầu của việc hoàn thiện.
Công việc đầu tiên của quá trình hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh bao
giờ cũng đòi hỏi xác định chính xác các khoản chi phí thực tế phát sinh trong kỳ.
Sau đó, sắp xếp chúng vào các tài khoản chi phí cho phù hợp với công dụng của
các loại chi phí này, nhằm phục vụ cho công tác tính giá thành được đầy đủ và
chính xác để đáp ứng yêu cầu quản lý. Bên cạnh đó, cần tìm tòi vận dụng các
phương pháp hạch toán chi phí xây lắp hợp lý, tổ chức hạch toán theo một trình tự
nhất định, thống nhất, tính toán đầy đủ, cung cấp số liệu một cách khách quan cho
việc hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Phạm vi chi phí chỉ liên
quan đến quá trình thi công xây dựng, yêu cầu không nhầm lẫn những khoản chi
phí của hoạt động khác vào khoản mục chi phí xây lắp. Do vậy để công tác hạch
toán kế toán tốt hơn, phù hợp hơn, việc hoàn thiện cần làm rõ được các nội dung
sau:
-Việc hoàn thiện phải phù hợp với chính sách kinh tế tài chính, chế độ kế
toán hiện hành và tính đến hướng phát triển trong tương lai. Bộ máy kế toán của
doanh nghiệp phải có đội ngũ nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao, am hiểu luật
pháp, quy chế quản lý tài chính về công việc, phần hành kế toán đặc biệt là kế toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Cần hoàn thiện khâu hạch toán ban
đầu nhằm mục đích kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của chứng từ nhằm ngăn chặn
kịp thời những hiện tượng vi phạm chính sách, chế độ kế toán tài chính, ảnh hưởng
đến giá thành sản phẩm và kết quả kinh doanh của công ty. Mặt khác các biện pháp
hoàn thiện phải tuân theo nguyên tắc và thể lệ chung của kế toán do Bộ tài chính

ban hành, được áp dụng thống nhất trong cả nước và toàn ngành. Những cải cách
này phải phải có khả năng thực thi trong một thời gian dài, tránh sửa đổi bổ sung
liên tục làm ảnh hưởng đến chất lượng của công tác kế toán và phù hợp khi có sự
thay đổi về chế độ, nghiệp vụ kinh tế ở tương lai.
-Việc hoàn thiện phải phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh
và yêu cầu quản lý doanh nghiệp. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh và quy
trình công nghệ của doanh nghiệp xây lắp, kế toán vận dụng một cánh hợp lý hệ
thống tài khoản và lựa chọn hình thức kế toán cho phù hợp. Để tính toán chính xác
các khoản chi phí phát sinh làm cơ sở tính giá thành sản phẩm, doanh nghiệp cần
phải hoàn thiện, kế toán tiến hành tính toán xuất nhập nguyên vật liệu, phân loại và
phân bổ cho các đối tượng tập hợp chi phí đó là các công trình, hạng mục công
trình cho hợp lý, tránh tình trạng trùng lặp làm tăng chi phí. Kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm cần cung cấp được những số liệu cần thiết, kịp thời
và chính xác, đáp ứng yêu cầu quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
-Việc hoàn thiện phải đảm bảo tính khả thi và tính hiệu quả. Do vậy khi áp
dụng vào thực tiễn, các bổ sung này phải thực thi được, không gây xáo trộn nhiều
trong hoạt động của doanh nghiệp, phải phù hợp với tư duy và được mọi người
chấp nhận. Công ty cần chấp hành đầy đủ các chế độ chính sách Nhà nước quy
định, tổ chức hạch toán, mở sổ sách phù hợp để phản ánh với giám đốc tình hình
chi phí và giá thành sản phẩm, ghi chép đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế. Đồng thời, phải
xây dựng mối liên hệ giữa các sổ trong quá trình ghi chép, tổng hợp đối chiếu số
liệu. Tổ chức bộ sổ kế toán một cách trình tự: Mở sổ kế toán, ghi sổ kế toán, sửa
chữa sai sót trên sổ kế toán, khóa sổ kế toán. Sổ kế toán cung cấp những số liệu
quan trọng nhất và chủ yếu nhất để lập báo cáo tài chính.
3.Các giải pháp nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp tại công ty cơ giới và xây lắp số 13.
Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chi phí nói chung và công tác hạch toán chi
phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành nói riêng, công ty cơ giới và xây lắp số

13 cần phát huy những ưu điểm và tìm ra giải pháp khắc phục những nhược điểm
còn tồn tại. Để góp phần hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp tại công ty, em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến sau:
3.1.Công tác luân chuyển chứng từ:
Chứng từ ban đầu là chứng từ được lập ngay khi nghiệp vụ kinh tế mới phát
sinh. Nó là cơ sở, căn cứ pháp lý cho việc ghi chép các sổ kế toán. Chứng từ ban
đầu có hợp pháp, hợp lý, chính xác thì mới quyết định tính chính xác hợp lý của
các bước công việc tiếp theo.
Việc lập chứng từ ban đầu ở công ty đã tuân theo các nguyên tắc chế độ kế
toán đã đề ra, tuy nhiên trong một số trường hợp ở khâu kế tiếp thì vẫn còn những
tồn tại: Vẫn còn tình trạng chứng từ ban đầu hạch toán ở tháng này nhưng đã phát
sinh ở tháng trước, kế toán vẫn có cách giải quyết được song không đảm bảo tính
kịp thời của kế toán. Đặc biệt là đối với công ty đang áp dụng một loại giá đó là giá
thực tế, bởi vì giá cả ở từng thời kỳ khác nhau, biến động liên tục do đó việc tập
hợp chi phí rất dễ thiếu chính xác.
Nguyên nhân của trường hợp này là do nhân viên kế toán đội không kịp thời
mang chứng từ gốc về phòng tài vụ, một mặt do điều kiện đường xá xa xôi, các đội
thi công công trình phải đi theo những công trình trên khắp đất nước ... Do vậy mà
gây ra sự chậm trễ trong việc luân chuyển chứng từ ban đầu.
Để giải quyết vấn đề này, theo em phải bắt đầu từ:
-Phân loại chứng từ: Cần phổ biến, hướng dẫn tổ chức phân loại chứng từ
một cách chặt chẽ từ dưới các đội để họ hiểu được tầm quan trọng của chúng. Ví
dụ: Phân loại chứng từ theo nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ...
-Định kỳ, phòng tài vụ nên chủ động cử cán bộ kế toán chuyên trách xuống
các đơn vị để kết hợp với các đơn vị kiểm tra, kiểm soát, xử lý, phân loại và thu
nhận chứng từ nhằm giúp công tác kế toán phản ánh, cung cấp thông tin được kịp
thời, chính xác.
3.2.Đối với công tác quản lý và kế toán chi phí nguyên vật liệu.

×