Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.48 KB, 43 trang )

TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ KIỂM TOÁN
ĐỘC LẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Khái quát về hoạt động kinh doanh ngân hàng

1.1.

Ngân hàng tồn tại và phát triển là tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Hệ
thống ngân hàng là một trong những thước đo sự vững mạnh về kinh tế của một
quốc gia. Vậy, ngân hàng là gì và thực hiện những hoạt động nào trong nền kinh
tế?
Theo luật các tổ chức tín dụng Việt Nam: “Ngân hàng là một loại hình tổ
chức tín dụng được phép thực hiện tồn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt
động khác có liên quan”.
Về bản chất, ngân hàng là một loại hình trung gian tài chính giữa một
bên “cầu vốn” và một bên “cung vốn”. Với nhiều hình thức khác nhau, luồng
vốn trong nền kinh tế được luân chuyển từ người tiết kiệm sang các nhà đầu tư
thông qua ngân hàng một cách hiệu quả. Hay nói cách khác, ngân hàng đi vay
để cho vay.
Xét trong một nền kinh tế khơng có ngân hàng, lượng tiền tiết kiệm trong
dân chúng sẽ luôn tồn tại dưới dạng tiền mặt và chỉ được sử dụng cho mục đích
tiêu dùng, hoặc người có vốn và người cần vốn có thể giao dịch trực tiếp với
nhau nhưng điều này là rất khó do khơng phải lúc nào họ cũng gặp được nhau
và không phải lúc nào cũng trùng khớp về nhu cầu. Nếu có mơi giới giữa họ thì
phí mơi giới lại rất cao. Hay đa dạng hơn một chút là khoản tiền tiết kiệm được
sử dụng để mua chứng khốn đầu tư vào các cơng ty. Nhưng nhìn chung, lượng
chứng khốn đầu tư vào các cơng ty là rất ít. Ngun nhân có thể là do các cơng
ty chưa tạo được lịng tin đối với dân chúng, hoặc dân chúng sẽ phải mất thời



gian, công sức, tiền của thu thập thông tin, phân tích và đánh giá tình hình hoạt
động của cơng ty để đi đến quyết định có nên đầu tư hay không mà vẫn không
chắc chắn được hiệu quả của việc đầu tư bởi khơng có một tổ chức chun
nghiệp thực hiện việc đánh giá tình hình hoạt động của cơng ty… Mặt khác,
tiền có giá trị thời gian, một đồng tiền của ngày hôm nay đã khác rất nhiều so
với đồng tiền của ngày mai. Do vậy, nếu đồng tiền được nắm giữ thuần tuý chỉ
để tiêu dùng thì đồng tiền sẽ ngày càng bị mất giá và điều quan trọng hơn là nền
kinh tế sẽ bị “bỏ đói” do khơng có nguồn vốn cung ứng.
Ngân hàng thương mại với vai trị là trung gian tài chính sẽ giải quyết
một cách hiệu quả vấn đề nêu trên.
NHTM có uy tín của một tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tài chính
tiền tệ là nơi tin cậy nhất đối với dân chúng và các tổ chức kinh tế khi gửi vào
đó khoản tiết kiệm của mình. Bởi NHTM có đội ngũ chuyên gia đánh giá và
giám sát hoạt động của người vay tiền, kết hợp với công nghệ hiện đại đảm bảo
an toàn cho khoản tiền đã nằm trong ngân hàng. NHTM đáp ứng nhu cầu sinh
lời cho người gửi tiền với nhiều loại hình tiền gửi khác nhau và mức lãi suất
tiền gửi tương ứng. Đây chính là lợi ích đầu tiên đối với bên “cung vốn”.
Sử dụng lượng “đầu vào” đa dạng và phong phú, NHTM tiếp tục thực
hiện cơng việc của mình trên mảng thứ hai là tín dụng. Tức thực hiện việc cho
vay các cá nhân, các tổ chức kinh tế cần vốn với những kỳ hạn cho vay khác
nhau cùng mức lãi suất cho vay phù hợp với nhu cầu vay. Như vậy, người cần
vốn đã có vốn, nền kinh tế đã khơng bị “bỏ đói”.
Tóm lại, với tính chun mơn hố và qui mơ hoạt động lớn, NHTM có thể
thực hiện việc luân chuyển vốn hiệu quả nhất trong nền kinh tế. Do đó, NHTM
có thể được ví như “huyết mạch” của nền kinh tế.


NHTM có 3 chức năng cơ bản sau:
Thứ nhất, chức năng luân chuyển tài sản (chức năng trung gian tín dụng):
Với chức năng này, NHTM sẽ tiến hành đồng thời hai hoạt động: huy động vốn

và cấp tín dụng. Ngân hàng huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau như
nhận tiền gửi của khách hàng, phát hành giấy tờ có giá hoặc đi vay từ các tổ
chức tín dụng khác, vay NHTW…Đồng thời với lượng vốn huy động được,
ngân hàng thực hiện đầu tư bằng cách cấp tín dụng và đầu tư chứng khốn
(chứng khốn sơ cấp). Thơng qua hoạt động này, ngân hàng thực hiện việc
chuyển đổi một loại tài sản tài chính này thành một loại tài sản tài chính khác,
thoả mãn được nhu cầu của cả người đi vay và người cho vay, thúc đẩy luân
chuyển vốn trong nền kinh tế.
Thứ hai, cung cấp các dịch vụ thanh tốn, mơi giới, tư vấn và cung cấp
thơng tin: NHTM là nơi tập trung các khoản tiền gửi của cá nhân và tổ chức
kinh tế vì vậy có điều kiện để thực hiện dịch vụ thanh toán bằng cách “ghi nợ”
tài khoản tiền gửi của người trả tiền và đồng thời “ghi có” vào tài khoản tiền
gửi của người thụ hưởng. Thêm nữa, NHTM với đội ngũ chuyên gia về tài
chính, tiền tệ sẽ thực hiện việc nghiên cứu và tư vấn đầu tư cho khách hàng,
hướng dẫn khách hàng lựa chọn loại chứng khoán mang lại hiệu quả đầu tư
cao… Thông qua chức năng cung cấp các dịch vụ thanh tốn, mơi giới, tư vấn
và cung cấp thông tin, ngân hàng đã giúp khách hàng giảm chi phí giao dịch và
chí phái thơng tin để đi đến một quyết định đầu tư. Đồng thời, dịch vụ thanh
toán qua ngân hàng đã và đang cung cấp rất nhiều tiện ích đối với nền kinh tế
như góp phần thúc đẩy tốc độ lưu thơng hàng hố, tiền tệ, đảm bảo độ an tồn
cho các bên tham gia thanh tốn, kiểm sốt được hoạt động ngầm trong nền
kinh tế…Từ đó, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.


Thứ ba, chức năng tạo tiền: Các NHTM có khả năng mở rộng tiền gửi
không kỳ hạn từ một khoản tiền gửi ban đầu hoặc từ khoản tiền nhận được từ
NHTW thơng qua việc cấp tín dụng cho các khách hàng là các tổ chức phi ngân
hàng. Bất kỳ ngân hàng nào được phép huy động tiền gửi không kỳ hạn và cung
cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng đều có khả năng tạo tiền gửi. Mức
độ mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi . Hệ số này được

quyết định bởi các yếu tố như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ sử dụng tiền mặt của
khách hàng/ tiền gửi không kỳ hạn, tỷ lệ dự trữ dư thừa/ tiền gửi không kỳ hạn.
Thực hiện tốt cả 3 chức năng trên, NHTM là một trong những nhân tố
chính tạo sự phồn vinh đối với bất kỳ một quốc gia nào. Bởi NHTM thực hiện
tốt nhất việc điều hoà vốn trong nền kinh tế. Thông qua NHTM, luồng tiền
“chảy” từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Lượng tiền nhàn rỗi sẽ được sử dụng
để đầu tư vào sản xuất, làm đa dạng và phong phú các hoạt động kinh tế. Như
vậy, đồng tiền khi đã nằm trong ngân hàng khơng cịn là những đồng tiền thuần
tuý mà chúng có khả năng gia tăng về mặt giá trị. Thông qua chức năng trung
gian tín dụng, NHTM thực hiện giám đốc đối với nền kinh tế do phải giám sát
hoạt động của khách hàng vay. Hoạt động này kết hợp với dịch vụ cung cấp
thơng tin và tư vấn đã góp phần tăng tính cơng khai, minh bạch trong nền kinh
tế-yếu tố quan trọng cho sự phát triển bền vững lâu dài một nền kinh tế hiện đại.
1.2.

Đặc điểm kinh doanh ngân hàng
NHTM hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, cung cấp các dịch vụ
tào chính. Do vậy, hoạt động kinh doanh ngân hàng mang những đặc điểm rất
khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác. Những đặc điểm này có ảnh
hưởng khá rõ nét đến q trình tổ chức và thực hiện một cuộc kiểm toán.
Đặc điểm đầu tiên phải kể đến là NHTM nắm giữ một khối lượng lớn tài
sản của nền kinh tế, bao gồm các tài sản tài chính, tiền mặt và các giấy tờ có


giá. Do vậy, vấn đề đảm bảo an toàn cho lượng tài sản này là một trong nhữn
vấn đề quan tâm hàng đầu của các ngân hàng để tránh các hiện tượng tham ơ,
biển thủ, gian lận có thể xảy ra. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi các ngân hàng
phải có một hệ thống kho quỹ cũng như các thiết bị bảo vệ an ninh, một qui
trình nghiệp vụ chặt chẽ có sự kiểm tra chéo giữa các bộ phận nghiệp vụ, thiết
lập quyền hạn cụ thể cho mỗi cá nhân, hệ thống kiểm soát nội bộ thực hiện

đúng chức năng và trách nhiệm của mình…
Thứ hai, qui mô hoạt động của ngân hàng rất lớn với mạng lưới chi
nhánh rộng khắp cả nước. Đặc điểm này đã kéo theo sự phân quyền lớn gây hạn
chế trong việc thống nhất về cách thức tổ chức hoạt động cũng như trong việc
thực hiện các chính sách, qui định do ngân hàng đưa ra. Chính sự khơng nhất
qn này cũng là một trong những nhân tố tạo nên tính phức tạp của một cuộc
kiểm toán.
Thứ ba, ngân hàng thường tham gia vào nhiều cam kết mà không thực
hiện việc chuyển giao vốn. Các cam kết này được ghi nhận trong khoản mục
ngoại bảng. Chúng không trực tiếp tạo nên sự thay đổi về tài sản và nguồn vốn
vì vậy khơng được phản ánh vào bảng tổng kết tài sản. Tuy nhiên, chúng lại có
ảnh hưởng lớn tới thu nhập cũng như mức độ rủi ro của ngân hàng trong tương
lai và làm thay đổi bảng tổng kết tài sản khi chúng được chuyển từ khoản mục
ngoại bảng thành khoản mục nội bảng. Hơn nữa, chúng có thể khơng được phản
ánh hoặc phản ánh không đầy đủ vào sổ sách kế tốn vì vậy khi có những sai
sót xảy ra rất khó phát hiện.
Thứ tư, hệ thống ngân hàng chịu sự quản lý chặt chẽ nhất từ phía các cơ
quan quản lý. Hoạt động kinh doanh ngân hàng có đặc điểm này là do ngân
hàng nắm giữ một khối lượng lớn tài sản của nền kinh tế đồng thời là hoạt động
luôn tiềm ẩn rủi ro. Sự sụp đổ của một ngân hàng mang tính dây chuyền, một


ngân hàng phá sản có thêt kéo theo sự khủng hoảng trong toàn hệ thống, gây ra
những hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế, có thể làm suy yếu nền tài chính
của một quốc gia. Vì vậy, việc giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng
nhằm quản lý hạn mức rủi ro cũng như việc ngăn chặn kịp thời các hành vi gian
lận của mỗi ngân hàng là cần thiết của chính phủ các nước. Chính những luật lệ,
qui định nhằm quản lý và giám sát hoạt động ngân hàng của chính phủ đã chi
phối tới hệ thống kế tốn, thơng lệ kiểm tốn đối với ngành kinh doanh đặc biệt
này.

Thứ năm, hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro đặc thù ít xuất hiện
trong những ngành kinh doanh khác do ngân hàng thường thực hiện các giao
dịch lớn và phức tạp về tiền tệ mà tiền tệ lại là một nhân tố nhạy cảm, rất dễ
biến động. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có thể phân chia thành
2 loại: Rủi ro bên trong và rủi ro bên ngoài.


-

Rủi ro bên trong:

+ Rủi ro kinh doanh: Rủi ro có thể xảy ra khi ngân hàng lựa chọn chiến lược
kinh doanh khơng phù hợp, có những quyết định sai lầm trong đầu tư…
+ Rủi ro vốn về khả dụng: Rủi ro xảy ra có thể do trình độ quản trị tài sản có
của ngân hàng kém, dẫn tới rủi ro về kỳ hạn (rủi ro xảy ra khi có sự không cân
xứng giữa tài sản Nợ và tài sản Có của ngân hàng) và kéo theo rủi ro thanh
khoản (rủi ro xảy ra khi ngân hàng mất khả năng thanh khoản để thực hiện các
nghĩa vụ hay thanh toán các khoản nợ đến hạn).
+ Rủi ro tác nghiệp: rủi ro phát sinh do những sai sót trong hệ thống thơng tin
hoặc hệ thống kiểm sốt nội bộ dẫn đến thất thốt, bao gồm rủi ro an tồn
chung, rủi ro giao dịch, rủi ro do lạm dụng thông tin, rủi ro nhân sự…
-

Rủi ro bên ngoài:

+ Rủi ro giá cả:
. Rủi ro lãi suất: Rủi ro xảy ra khi có sự thay đổi về lãi suất làm ảnh hưởng
không tốt đến kết quả kinh doanh của ngân hàng-bị lỗ do tăng chi phí… , ví dụ
lãi suất thay đổi làm giảm giá trị tài sản của ngân hàng, Hoặc có sự không cân
xứng về giữa tài sản Nợ và tài sản Có của ngân hàng.

. Rủi ro tỷ giá: Rủi ro làm ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi phí của ngân
hàng, phát sinh khi có sự biến động tỷ giá và xuất hiện trạng thái hối đoái mở
trong kinh doanh ngoại tệ.
. Rủi ro do giá cả trong nền kinh tế.
+ Rủi ro thất thoát:
. Rủi ro tín dụng: Rủi ro phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được
đầy đủ cả gốc và lãi, hoặc việc thanh tốn nợ gốc và lãi khơng đúng kỳ hạn.


. Rủi ro ứng trước: Rủi ro phát sinh khi các khoản ứng trước của ngân hàng cho
đối tác không được hồn trả đúng thời hạn.
. Rủi ro khơng có nguồn bù đắp: Rủi ro xảy ra khi một đối tác của ngân hàng
không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết với ngân hàng khiến cho ngân hàng khơng
có nguồn để thực hiện cam kết đã ký với một đối tác khác.
. Rủi ro pháp lý: Rủi ro phát sinh khi có sự thay đổi trong luật pháp, qui định
của các cấp thẩm quyền.
Xác suất rủi ro có thể xảy ra đối với một ngân hàng là rất lớn. Để hạn chế
rủi ro, Ban lãnh đạo ngân hàng thường áp dụng nhiều biện pháp quản lý rủi ro
nhằm đảm bảo có sự an tồn chung, thích đáng để đạt được mục tiêu kinh
doanh. Thông thường, quản lý rủi ro trải qua 4 bước: nhận dạng rủi ro, định
lượng rủi ro, điều tiết rủi ro và giám sát rủi ro. Thực hiện 4 bước trên đòi hỏi
ngân hàng phải thiết lập và duy trì thường xuyên hệ thống giám sát và quản lý
rủi ro đồng thời duy trì một đội ngũ các chun gia vững mạnh trong việc dự
đốn, phân tích và đưa ra các giải pháp để phòng ngừa cũng như xử lý những
rủi ro có thể xảy ra.
Tóm lại, hoạt động kinh doanh ngân hàng đóng một vai trị thiết yếu đối
với nền kinh tế của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Những hoạt động này
mang đặc điểm rất khác biệt với các loại hình doanh nghiệp khác, chúng mang
tính phức tạp và ln tiềm ẩn rủi ro. Vì vậy, hoạt động kiểm tốn bao gồm cả
kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập các ngân hàng cần phải được chú trọng

và được thực hiện một cách có chất lượng nhất.
1.3.

1Các báo cáo tài chính của một NHTM (Financial Statements)
Hệ thống báo cáo tài chính của NHTM được thiết lập nhằm cung cấp những
thông tin về hoạt động kinh doanh của ngân hàng như: tình hình tài chính,


những thay đổi tình hình tài chính , kết quả kinh doanh… cho những ai quan
tâm.
Một NHTM gồm có 5 báo cáo tài chính sau:
-

Bảng cân đối kế tốn (Balance Sheet)

-

Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Income Statement)

-

Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Cashflow Statement)

-

Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu (Statement of Changes in owner’s equity)

-

Thuyết minh báo cáo tài chính (Interpretation for financial statements)


Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán (hay bảng tổng kết tài sản) là báo cáo tài chính tổng
hợp phản ánh tồn bộ giá trị tài sản và nguồn hình thành nên tài sản đó tại một
thời điểm nhất định theo chỉ tiêu khoản mục Tài sản và Nguồn vốn.
BCĐKT được lập bằng cách tập hợp theo số dư của các tài khoản trên
bảng cân đối tài khoản kế toán (Working Trial Balance). Những tài khoản có số
dư nợ được tập hợp bên khoản mục Tài sản, những tài khoản có số dư có được
tập hợp bên khoản mục Nguồn vốn (trừ một số trường hợp đặc biệt như tài
khoản dự phịng phải thu khó địi, dự phịng giảm giá chứng khoán, chênh lệch
đánh giá lại tài sản…). Theo CMKTQT 30, các khoản mục tài sản và công nợ
không được phép bù trừ cho nhau bằng cách giảm tài sản và công nợ trừ khi
một quyền hợp pháp cho phép việc bù trừ tồn tại và việc bù trừ thể hiện dự tính
cho việc ghi nhận tài sản hay thanh tốn cơng nợ.
Các khoản mục trên BCĐKT được sắp xếp theo tính lỏng giảm dần và
BCĐKT gồm những khoản mục cơ bản sau:
Tài sản:
. Tiền mặt tại quĩ


. Tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương (bao gồm: tiền gửi bắt buộc và tiền gửi dư
thừa)
. Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng trong và ngồi nước
. Cho vay đối các tổ chức tín dụngkhác
. Cho vay các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước
. Các khoản đầu tư: đầu tư vào chứng khốn, góp vốn liên doanh mua cổ phần
. Tài sản: tài sản cố định và các tài sản khác
. Tài sản có khác: các khoản phải thu, các khoản lãi cộng dồn dự thu…



Nguồn vốn:
. Tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác
. Vay Ngân hàng Trung ương và các tổ chức tín dụng khác
. Tiền gửi của tổ chức kinh tế và dân cư
. Kỳ phiếu và các khoản nợ có chứng từ khác
. Vốn tài trợ uỷ thác đầu tư
. Phát hành giấy tờ có giá
. Tài sản nợ khác: các khoản phải trả, các khoản lãi cộng dồn dự trả, các tài sản
nợ khác
. Vốn và các quỹ
Như vậy, thông qua việc phân chia thành 2 mảng là Tài sản và Nguồn
vốn, BCĐKT được coi là bức tranh tồn cảnh về tình hình hoạt động, tình hình
tài chính của NHTM. Bên Nguồn vốn cung cấp thơng tin về nguồn gốc hình
thành tài sản, từ đó, phản ánh trách nhiệm phải trả của ngân hàng đối với những
người gửi tiền, chất lượng cũng như tính kinh tế của nguồn vốn huy động được,
đặc biệt là phản ánh qui mô hoạt động của ngân hàng (qui mơ của tổng nguồn
vốn so với vốn tự có). Đồng thời, thơng qua khoản mục Tài sản, người đọc
BCĐKT có thể nắm bắt được giá trị của tổng tài sản hiện có, thấy được hình
thức biểu hiện tài sản, mức độ sinh lãi hay những rủi ro hàm chứa trong cơ cấu
tài sản của ngân hàng…cũng như trình độ quản lý tài sản có của ngân hàng.
Tóm lại, BCĐKT là một báo cáo tài chính tuy ngắn gọn, đơn giản nhưng
hàm chứa khá đầy đủ thông tin để công bố trên các phương tiện thông tin đại
chúng cho những người cần thông tin của ngân hàng.
1.3.1.

Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh


Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp phản
ánh tình hình thu nhập, chi phí, kết quả kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ đối

với Nhà nước trong kỳ kế toán của ngân hàng.
BCKQHĐKD được lập trên cơ sở bảng cân đối tài khoản kế toán, sổ tài khoản
chi tiết thu nhập, chi phí và các loại tài liệu khác. Theo CMKTQT 30, ngân
hàng cần trình bày BCKQHĐKD trong đó nhóm các khoản thu nhập và chi phí
theo bản chất (thu nhập lãi, chi phí lãi, thu nhập ngồi lãi, chi phí ngồi lãi)
trình bày các khoản thu nhập và chi phí chính. Các khoản thu nhập và chi phí
khơng được bù trừ, ngoại trừ những khoản có liên quan đến đối trừ rủi ro và các
khoản liên quan đến tài sản và công nợ đã được bù trừ.
BCKQHĐKD gồm những khoản mục sau:
. Lãi vay và các thu nhập tưưong tự
. Chi phí vay và các chi phí tương tự
. Thu nhập từ cổ tức
. Thu nhập từ các khoản phí và hoa hồng
. Chi phí cho các khoản phí và hoa hồng
. Lợi nhuận trừ đi lỗ phát sinh từ kinh doanh chứng khoán
. Lợi nhuận trừ đi lỗ phát sinh từ đầu tư chứng khoán
. Lợi nhuận trừ đi lỗ phát sinh từ kinh doanh ngoại tệ
. Các loại thu nhập từ hoạt động kinh doanh khác
. Các chi phí quản lý chung
. Các chi phí hoạt động khác


BCKQHĐKD là loại báo cáo tài chính quan trọng của ngân hàng vì
thơng qua các chỉ tiêu của báo cáo này giúp lãnh đạo ngân hàng và các cơ quan
quản lý, cơ quan thuế, kiểm toán nắm được thực trạng các khoản thu nhập, chi
phí, kết quả tài chính và chấp hành nghĩa vụ ngân sách của từng ngân hàng
cũng như tồn hệ thống. Từ đó giúp cơng tác lãnh đạo, điều hành, kiểm tra,
kiểm tốn có hiệu quả nhằm giúp các ngân hàng hồn thành kế hoạch tài chính,
hồn thành kế hoạc nộp ngân sách.
1.3.2.


Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
BCLCTT là một báo cáo tài chính phản ánh các khoản thu và chi tiền

trong kỳ của ngân hàng về hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt
động tài chính.
Thơng qua BCLCTT, chúng ta có thể thấy luồng tiền vào ra thực tế của
một ngân hàng, tức chúng ta có thể biết được đồng tiền phát sinh từ đâu và ngân
hàng đã sử dụng chúng như thế nào trong kỳ báo cáo. BCLCTT giúp người sử
dụng có thể đánh giá được khả năng thanh toán cũng như khả năng tạo ra dòng
tiền của một ngân hàng.
BCLCTT gồm 3 phần: Tiền lưu chuyển từ hoạt động kinh doanh được
trình bày trước, tiếp đến là từ hoạt động đầu tư và sau đó là từ hoạt động tài
chính.
. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh phản ánh phản ánh tồn bộ dịng
tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân
hàng như tiền thu lãi cho vay, tiền thu từ các khoản thu khác…, các chi phí
bằng tiền như chi lãi tiền gửi cho khách hàng, chi tiền lương và bảo hiểm xã
hội… cho cơng nhân, các chi phí khác bằng tiền như chi văn phịng phẩm, cơng
tác phí…


. Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư phản ánh tồn bộ dịng tiền thu vào và
chi ra liên quan trực tiếp tới hoạt động đầu tư của ngân hàng, Hoạt động đầu tư
bao gồm hai phần:
+ Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản thân ngân hàng như hoạt động xây
dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định.
+ Đầu tư vào các đơn vị khác dưới hình thức liên doanh, đầu tư chứng khốn,
khơng phân biệt đầu tư ngắn hạn hay dài hạn.
Dòng tiền lưu chuyển được tính gồm tồn bộ các khoản thu do bán, thanh lý

tài sản cố định, thu hồi các khoản đầu tư váo các đơn vị khác… và các khoản
chi xây dựng, mua sắm tài sản cố định, chi để đầu tư vào các lĩnh vực khác.
. Lưu chuyển từ hoạt động tài chính phản ánh tồn bộ dịng tiền thu vào và chi ra
liên quan trực tiếp đến hoạt động tài chính của ngân hàng. Hoạt động tài chính
bao gồm các nghiệp vụ làm tăng, giảm vốn kinh doanh của ngân hàng như góp
vốn liên doanh, vay vốn trong dân chúng và các tổ chức tài chính quốc tế, nhận
vốn liên doanh, phát hành cổ phiếu hay trái phiếu, trả nợ vay…
Dịng tiền lưu chuyển được tính bao gồm toàn bộ các khoản thu chi liên
quan như tiền vay nhận được, tiền nhận được do nhận góp vốn liên doanh bằng
tiền, do phát hành cổ phiếu, trái phiếu bằng tiền, thu lãi tiền gửi…
1.3.3.

Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu
Báo cáo này có thể trình bày riêng hoặc gộp vào thuyết minh các báo cáo

tài chính (trình bày ở phần tiếp theo).


Nội dung cơ bản của báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu như sau:

Đơn vị: Tr.đồng

Thuyế
t minh

Vốn
pháp
định

Vốn

mua
sắm
TSC
Đ

Vốn
khá
c

Qu

dự
trữ

Quỹ
chên
h
lệch
tỷ giá

Lợi
nhuậ
n để
lại

Tổn
g
cộng

Ngày 1 tháng 1 năm

X

***

***

***

*** ***

***

***

Vốn góp tăng trong
năm

***

***

***

*** ***

***

***

Lợi nhuận thuần trong

năm

***

***

***

*** ***

***

***

Lập các quỹ dự trữ

***

***

***

*** ***

***

***

Sử dụng trong năm


***

***

***

*** ***

***

***

Chuyển từ quỹ dự trữ
sang vốn

***

***

***

*** ***

***

***

Các khoản khác

***


***

***

*** ***

***

***

Ngày 31 tháng 12
năm X

***

***

***

*** ***

***

***

Vốn góp

***


***

***

*** ***

***

***

Lợi nhuận thuần trong
năm

***

***

***

*** ***

***

***

Lập các quỹ dự trữ
cho năm tài chính X-1

***


***

***

*** ***

***

***

Lập các quỹ dự trữ
cho năm tài chính X

***

***

***

*** ***

***

***


Sử dụng trong năm

***


***

***

*** ***

***

***

Các khoản khác

***

***

***

*** ***

***

***

Ngày 31 tháng 12
năm X+1

***

***


***

*** ***

***

***

1.3.4.

Thuyết minh các báo cáo tài chính
Thuyết minh các báo cáo tài chính là một bảng giải trình một cách chi tiết

các thơng tin báo cáo tài chính và một số chỉ tiêu liên quan khác để phục vụ cho
việc nghiên cứu, kiểm tra các chỉ tiêu thông tin kinh tế, tài chính trên báo cáo
tài chính của các cơ quan chức năng.
Thuyết minh các báo cáo tài chính được lập dựa trên: bảng cân đối tài
khoản trong kỳ báo cáo, bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh, thuyết minh các báo cáo tài chính kỳ trước, các kế hoạch tàu chính trong
kỳ, sổ kế tốn chi tiết có liên quan và các tài liệu khác có liên quan.
Thuyết minh các báo cáo tài chính của các NHTM và các tổ chức tài
chính tương tự cần trình các thơng tin sau:
. Lỗ từ các khoản cho vay và các khoản tạm ứng bao gồm các thơng tin sau:
+ Ngun tắc kế tốn làm cơ sở cho việc ghi nhận một khoản vay là khơng thể
thu hồi và bị xố sổ.
+ Chi tiết tăng giảm dự phòng cho các khoản lỗ từ cho vay và tạm ứng trong kỳ
+ Số dư luỹ kế của dự phòng cho các khoản lỗ từ cho vay và tạm ứng tính đến
ngày lập bảng cân đối
+ Số tổng trong bảng cân đối kế toán cho các khoản cho vay đã ngừng tính dự

thu lãi và cơ sở được sử dụng để xác định giá trị thuần của những khoản cho
vay và tạm ứng đó


. Cam kết và công nợ chưa xác định bao gồm:
+ Bản chất và số tiền của các khoản cam kết cấp tín dụng khơng thểv huỷ ngang
+ Bản chất và số tiền của các công nợ chưa xác định và các cam kết phát sinh từ
các khoản mục ngoại bảng, gồm các khoản mục:
Khoản thay thế tín dụng trực tiếp: bảo lãnh chung cho các khoản nợ, bảo lãnh
chấp nhận ngân hàng, thư tín dụng dự phịng để bảo lãnh tài chính cho các
khoản vay và chứng khốn.
Một số loại công nợ liên quan đến các giao dịch: bảo lãnh thực hiện, bảo lãnh
dự thầu, trái phiếu đảm bảo, thư tín dụng dự phịng liên quan đến một số giao
dịch.
Các công nợ ngắn hạn, tự thanh khoản và mang tính thương mại phát sinh từ
lưu lượng hàng hố. Ví dụ như tín dụng chứng từ lấy việc gửi hàng là sự đảm
bảo.
Những thoả thuận bán và mua lại không được ghi nhận trên bảng cân đối kế
toán
Lãi vay và các khoản mục liên quan đến tỷ giá: Hợp đồng hoán đổi, quyền
chọn, hợp đồng tương lai.
Các cam kết khác
. Thời gian đáo hạn của tài sản và công nợ: ngân hàng cần trình bày việc phân
tích tài sản và cơng nợ thành những nhóm thời gian đáo hạn thích hợp dựa trên
thời gian cịn lại tính từ ngày lập bảng cân đối kế toán đến ngày đáo hạn theo
hợp đồng.
. Mức độ tập trung của tài sản, công nợ và các khoản mục ngoại bảng: ngân
hàng cần trình bày



+ Bất cứ một sự tập trung quan trọng nào của tài sản và cơng nợ, có thể dưới
dạng khu vực địa lý, khách hàng hay nhóm ngành cơng nghiệp hay các mức độ
tập trung rủi ro khác
+ Khoản tiền của những khoản rủi ro ngoại hối thuần quan trọng
. Các hoạt động tín thác
. Những rủi ro tín dụng chung
+ Các khoản dự phòng liên quan đến rủi ro chung trong hoạt động ngân hàng,
bao gồm các khoản lỗ trong tương lai và các rủi ro khác khơng đốn trước được
hay các khoản công nợ chưa xác định, phải được trình bày riêng rẽ như quỹ
trích từ lợi nhuận chưa phân phối.
+ Việc giảm của những khoản đó dẫn đến sự tăng lên trong lãi chưa phân phối
và không tính đến trong khi xác định lãi, lỗ thuần của kỳ kế toán.
. Các tài sản được thế chấp bảo đảm: ngân hàng cần trình bày tổng số cơng nợ
được đảm bảo và giá trị thuần, bản chất của những tài sản được sử dụng làm
đảm bảo
. Giao dịch với các bên liên quan: ngân hàng cần trình bày
+ Bản chất của mối quan hệ với các bên liên quan, loại và các yếu tố của các
giao dịch với các bên liên quan
+ Chính sách cho vay của ngân hàng với các bên liên quan và đối với các giao
dịch với các bên liên quan, số tiền bao gồm trong hay một phần của:
Mỗi khoản chi vay và tạm ứng, tiền gửi và bảo lãnh kỳ phiếu, các thuyết
minh có thể bao gồm số tiền tương ứng chưa được thanh toán vào đầu kỳ và
cuối kỳ, cũng như các khoản tạm ứng, tiền gửi, trả vay nợ và các thay đổi khác
trong kỳ.


Mỗi loại thu nhập chính, chi phí lãi vay và hoa hồng đã trả.
Số tiền của chi phí ghi nhận trong kỳ cho các khoản lỗ từ các khoản cho vay,
các khoản tạm ứng và các khoản dự phòng vào ngày lập BCĐKT.
Các cam kết không thể huỷ ngang, các cam kết và công nợ chưa xác định

phát sinh từ các khoản mục ngồi BCĐKT.
Tóm lại, các báo cáo tài chính của một NHTM đã phản ánh một cách khá
đầy đủ, chi tiết các hoạt động cơ bản của ngân hàng cũng như các rủi ro trong
hoạt động ngân hàng. Các báo cáo tài chính của một ngân hàng cho phép người
sử dụng đánh giá được tính hiệu quả trong hoạt động và mức độ an toàn của
ngân hàng. Tức, các báo cáo tài chính sẽ phản ánh sức mạnh của một ngân
hàng. Do vậy, yêu cầu quan trọng nhất đối với các báo cáo tài chính là chúng
phải được lập một cách chính xác và trung thực theo tình hình tài chính thực tế
của ngân hàng.

2.

Tổng quan về kiểm toán và kiểm toán độc lập NHTM

2.1.

Tổng quan về kiểm toán

2.1.1.

Khái niệm và phân loại kiểm toán

2.1.1.1. Khái niệm kiểm tốn
Kiểm tốn là một hoạt động đã có từ rất lâu đời kể từ thời kỳ mà các
thông tin kế t oán được phê chuẩn bằng cách đọc lên trong một buổi họp cơng
khai, vì thế từ gốc của thuật ngữ kiểm tốn (Audit) theo tiếng latinh là
“Auditus” có nghĩa là “nghe”.
Từ khi hoạt động kiểm toán ra đời cho tới nay đã có rất nhiều định nghĩa
khác nhau về kiểm tốn. Song, có thể nêu ra một định nghĩa như sau:



Kiểm tốn là một q trình do kiểm tốn viên có đủ năng lực và độc lập tiến
hành nhằm thu thập các bằng chứng về những thông tin của một tổ chức và
đánh giá chúng nhằm thẩm định và báo cáo về mức độ phù hợp giữa những
thơng tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập.
Như vậy, kiểm tốn là một q trình, trải qua nhiều giai đoạn và diễn ra
trong một khoảng thời gian nhất định, được thực hiện bởi những những kiểm
tốn viên có đồng thời 2 yếu tố quan trọng là năng lực và tính độc lập- tức họ
phải là những người đã đạt được tiêu chuẩn nhất định về chất lượng nghề
nghiệp, có mức độ độc lập theo từng loại hình kiểm tốn và được bổ nhiệm để
thực hiện chức trách kiểm toán . Thực chất, kiểm tốn là q trình thu thập các
tài liệu chứng minh, làm cơ sở cho nhận xét của kiểm toán viên về mức độ phù
hợp của các đối tượng kiểm tốn (thơng tin được kiểm tốn) như: các báo cáo
tài chính, tờ khai nộp thuế, hoạt động tín dụng… với “tình trạng lý tưởng cần
đạt tới” (chuẩn mực đã thiết lập) của các đối tượng này trên báo cáo kiểm toán
đưa ra sau mỗi lần kiểm toán.
2.1.1.2.

Phân loại kiểm tốn
Hoạt động kiểm tốn có thể được phân loại theo 2 cách: phân loại theo

chức năng và phân loại theo chủ thể tiến hành.
Các dạng kiểm toán trong phân loại theo chức năng:


Kiểm toán hoạt động (Operational Audit)
Khái niệm:
Kiểm tốn hoạt động là q trình kiểm tra, đánh giá tính hữu hiệu và hiệu
quả của một hoạt động nào đó, giúp việc đề xuất các phương án cải tiến.
Thơng qua kiểm toán hoạt động, ban lãnh đạo đơn vị sẽ đánh giá được mức độ

hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ cũng như so sánh kết quả đạt được với chí phí


bỏ ra của hoạt động. Từ đó, đề xuất các phương án cải tiến nhằm nâng cao tính
hữu hiệu và hiệu quả của các hoạt động.
Đối tượng kiểm toán hoạt động:
Nền kinh tế thị trường đã kéo theo sự xuất hiện ngày càng nhiều các
doanh nghiệp hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Chính điều này đã làm
phong phú và đa dạng đối tượng kiểm toán hoạt động, bao gồm:


Rà soát hiệu quả hoạt động của hệ thống kế toán và hiệu quả của cơ chế kiểm
tra nội bộ của doanh nghiệp;



Sự hữu hiệu và tính hiệu quả của quá trình hoạt động, phân phối và sử dụng các
nguồn lực của doanh nghiệp như tài lực, vật lực, thông tin, nhân lực;



Kiểm tra hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, phân phối và sử dụng thu
nhập, phát triển và bảo tồn vốn;



Kiểm tra tính hiệu quả của các bộ phận chức năng trong quá trình hoạt động của
doanh nghiệp;




Kiểm tra hiệu quả của một dây truyền sản xuất mới lắp đặt …
Chuẩn mực:
Các chuẩn mực trong kiểm tốn hoạt động mang tính chủ quan, được lựa
chọn tuỳ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm của kiểm tốn viên. Các chuẩn mực
được sử dụng phải phù hợp với từng đối tượng kiểm tốn. Chuẩn mực có thể
bao gồm: Các tiêu chuẩn kỹ thuật, tỷ suất bình quân của nghành, chỉ tiêu đo
hiệu quả hoạt động tài chính (ROE và ROA)…
Chủ thể tiến hành
Kiểm toán hoạt động chủ yếu được tiến hành bởi chính các doanh nghiệp.
Kết quả kiểm tốn:


Kết quả của kiểm toán hoạt động là một bản báo cáo cho người quản lý
(chủ yếu là ban lãnh đạo doanh nghiệp) về tính hữu hiệu và hiệu quả của các
hoạt động diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định và những đề xuất cải
tiến trong thời gian tới. Như vậy, kết quả của kiểm toán hoạt động chủ yếu phục
vụ cho chính doanh nghiệp.


Kiểm tốn tn thủ (Compliance Audit)
Khái niệm:
Kiểm toán tuân thủ là hoạt động kiểm tra nhằm đánh giá mức độ tuân thủ
luật pháp, chính sách, cơ chế quản lý của Nhà nước hoặc các quyết định, nghị
quyết nào đó của cơ quan.
Đối tượng:
Khái niệm nêu trên đã chỉ rõ đối tượng của kiểm toán tn thủ: là kiểm
tốn việc tn thủ pháp luật, chính sách, chế độ quản lý của Nhà nước hoặc chế
độ kế tốn tài chính, việc tn thủ các nghị định, nghị quyết, nội qui cũng như
các nguyên tắc trong qui trình nghiệp vụ… Tóm lại, đối tượng kiểm tốn tn

thủ rất rộng- kiểm toán mức độ tuân thủ của tất cả các hoạt động mang tính tn
thủ.
Chuẩn mực:
Kiểm tốn tn thủ lấy chính các văn bản pháp luật, nội qui, công văn,
nghị định … làm chuẩn mực để đánh giá mức độ tuân thủ. Chẳng hạn như một
trong những chuẩn mực của kiểm toán tuân thủ đối với hoạt động tín dụng của
ngân hàng là qui định “Dư nợ tín dụng lớn nhất đối với một khách hàng vay
không được vượt quá 15% vốn tự có”…


Chủ thể tiến hành:
Kiểm toán tuân thủ chủ yếu được tiến hành bởi những bộ phận quản lý
như kiểm toán Nhà nước, kiểm tốn nội bộ. Ngồi ra, kiểm tốn độc lập cũng
có thể được u cầu làm loại hình kiểm toán này.
Kết quả kiểm toán:
Kết quả kiểm toán tuân thủ là báo cáo kiểm tốn trình bày về mức độ
tuân thủ các chính sách, nội qui, chế độ… phục vụ cho các cấp quản lý.


Kiểm toán các báo cáo tài chính
Khái niệm:
Kiểm tốn các báo cáo tài chính là việc kiểm tra và đưa ra ý kiến nhận
xét về tính trung thực, hợp lý các báo cáo tài chính của một đơn vị.
Đối tượng kiểm toán:
Gồm 5 báo cáo tài chính:



Bảng cấn đối kế tốn




Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh



Báo cáo luân chuyển tiền tệ



Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu



Thuyết minh báo cáo tài chính
Chuẩn mực:
Các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán
Chủ thể tiến hành:
Kiểm tốn báo cáo tài chính được tiến hành bởi kiểm toán độc lập
Kết quả kiểm toán:


Kết quả kiểm tốn báo cáo tài chính là báo cáo kiểm tốn trình bày mức
độ trung thực hợp lý của các ý kiến đưa ra trên báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm
tốn chủ yếu phục vụ chi bên thứ ba-những người sử dụng thơng tin.
Các dạng kiểm tốn trong phân loại theo chủ thể tiến hành:


Kiểm toán nhà nước (State Audit)
Kiểm toán nhà nước là hoạt động kiển toán được tiến hành bởi các cơ

quan kiểm toán Nhà nước.
Xuất phát từ nhu cầu quản lý nền kinh tế, mỗi một quốc gia trên thế giới
đều có kiểm tốn nhà nước. Và kiểm tốn nhà nước chính là một bộ phận trong
bộ máy quản lý về nhà nước. Kiểm toán nhà nước chủ yếu là kiểm toán tuân thủ
và đánh giá hiệu quả hoạt động của các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của Nhà
nước. Do vậy, đối tượng kiểm toán nhà nước là tất cả các doanh nghiệp có vốn
và kinh phí của Nhà nước như: các doanh nghiệp Nhà nước, Quốc hội, Chính
phủ, Hội đồng nhân dân, UBND các cấp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Mặt trận
Tổ quốc, Hội phụ nữ…
Tuy nhiên theo nghĩa rộng, kiểm tốn nhà nước khơng chỉ được tiến hành
bởi kiểm tốn Nhà nước mà cịn được tiến hành bởi các bộ phận khác như Bộ
Tài chính, Cơ quan Thuế…



Kiểm toán nội bộ (Internal Audit)
Kiểm toán nội bộ là hoạt động kiểm toán được tiến hành bởi kiểm toán
viên nội bộ của đơn vị theo nhu cầu của Ban giám đốc hoặc Hội đồng quản trị.
Như vậy, kiểm toán nội bộ xuất phát từ chính nhu cầu của bản thân đơn
vị. Chủ thể tiến hành kiểm toán nội bộ là các nhân viên trong đơn vị, hoạt động
dưới sự chỉ đạo của Ban giám đốc, do đó kiểm tốn nội bộ có thể mang tính chủ
quan và ít nhận được sự tin cậy của bên ngồi. Kết quả kiểm tốn nội bộ chủ


yếu phục vụ cho các nhà quản lý đơn vị. Tuy nhiên, kiểm tốn nội bộ vẫn mang
tính độc lập nhưng là độc lập tương đối do kiểm toán nội bộ được tổ chức tách
rời với các bộ phận hoạt động nghiệp vụ của đơn vị nhằm đảm bảo tính hữu
hiệu của hoạt động kiểm toán nội bộ.



Kiểm toán độc lập (Independent Audit)
Kiểm toán độc lập là hoạt động kiểm toán được tiến hành bởi các kiểm
toán viên độc lập thuộc các tổ chức kiểm toán độc lập.
Kiểm toán độc lập chủ yếu thực hiện việc kiểm toán đối với các báo cáo tài
chính. Tuy nhiên, các cơng ty kiểm toán độc lập cũng là các thực thể kinh doanh
trong nền kinh tế, họ cần phải đảm bảo đồng thời cả 3 yếu tố là lợi nhuận, an
toàn và đặc biệt là uy tín trong lĩnh vực kinh doanh của mình. Do vậy, họ đa
dạng hố các dịch vụ cung ứng. Bên cạnh việc cung cấp dịch vụ kiểm toán các
báo cáo tài chính, họ thực hiện việc kiểm tốn hoạt động hoặc tuân thủ nếu
khách hàng có nhu cầu; cung cấp các dịch vụ kế toán; tư vấn như tư vấn thuế, tư
vấn quản trị, tư vấn lập kế hoạch tài chính…
Hoạt động kiểm tốn độc lập mang tính khách quan nên kết quả của kiểm
toán độc lập tạo được độ tin cậy cao đối với những người sử dụng thông tin. Họ
chỉ tin tưởng vào những thông tin đã được kiểm toán bởi kiểm toán độc lập.

2.1.2. Vai trị của kiểm tốn độc lập
Nền kinh tế khơng có kiểm tốn độc lập sẽ ln tồn tại những mâu thuẫn
không thể giải quyết.
Một doanh nghiệp muốn mở rộng qui mơ hoạt động, phát triển sản xuất
có thể đi vay vốn từ ngân hàng. Tuy nhiên, ngân hàng là một thực thể kinh
doanh nên không thể ngay lập tức giải ngân cho khách hàng. Ngân hàng cần
phải thẩm định và yêu cầu khách hàng chứng minh về tài chính, dự án khả thi,


×