Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Tải Bài văn mẫu lớp 9: Bài viết số 7 (Đề 1 đến Đề 7) - Bài viết số 7 lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (889.71 KB, 73 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Bài văn mẫu lớp 9: Bài viết số 7</b>



<b>Đề 1:</b> Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ (tiểu
thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố).


<b>Đề 2:</b> Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của
Nam Cao.


<b>Đề 3: Lấy nhan đề "Tình người trong chiếc lá", em hãy viết bài nêu suy nghĩ của</b>
mình về đoạn trích truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri.


<b>Đề 4:</b>Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ Mây và Sóng của Ta-go.
<b>Đề 5:</b> Bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh.


<b>Đề 6:</b>Trình bàysuy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy.
<b>Đề 7:</b>Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt


<b>Bài văn mẫu</b>

<b>lớp 9</b>

<b>: Bài viết số 7 đề 1</b>



<b>Suy nghĩ của em về nhân vật chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ (tiểu</b>
<b>thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố).</b>


<b>Dàn ý suy nghĩ nhân vật chị Dậu</b>
<b>I. Mở bài</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc viết về đề tài ngươi nông dân trước Cách mạng
Tháng Tám. Những tác phẩm của ơng được giới phê bình đánh giá cao, vừa giàu
giá trị nội dung và đặc sắc về nghệ thuật viết truyện. Trong đoạn trích " Tức nước
vỡ bờ" trong tiểu thuyết " Tắt đèn", nhà văn đã xây dựng thành cơng nhân vật chị
Dậu.



<b>II. Thân bài</b>


<b>1. Hồn cảnh sáng tác</b>


- Tác phẩm "Tắt dèn" viết năm 1936, xã hội bấy giờ là thực dân nửa phong kiến,
người nông dân phải chịu nhiều tầng áp bức. Đời sống nhân dân đói khổ, bần cùng,
đất nước lầm than, nơ lệ.


- Nhân vật chị Dậu đã góp một mảng màu chân thực vào hiện thực bấy giờ, đồng
thời còn thể hiện chiều sâu tư tưởng và nhân đạo của nhà văn.


<b>2. Phân tích nhân vật chị Dậu</b>
<b>a. Số phận</b>


- Có hồn cảnh đáng thương.


- Là người nơng dân nghèo, vì gánh nặng sưu thuế mà phải bán hết gánh khoai, ổ
chó và đứa con gái là cái Tý cho ông Nghị Quế nhưng chỉ đủ nộp sưu cho chồng.
Chú Hợi là anh ruột của anh Dậu chết từ năm ngoái nhưng cũng không tránh khỏi
nộp sưu.


- Anh Dậu đang ốm nặng, bọn cường trói anh suốt ngay đêm sai tay chân vác anh
về như cái xác chết rũ rượi. Mọi gánh nặng đổ dồn lên vai chị.


- Gánh nặng sưu thuế đã dồn người nông dân vào cuộc sống lầm than cơ cực. Đó
là giai đoạn với bao nỗi kinh hồng khi bọn thực dân phong kiến ra sức bóc lột
nơng dân với đủ mọi thứ thuế. Chị Dậu cũng như bao người nông dân bấy giờ là
nạn nhân trong xã hội ấy.


<b>b. Phẩm chất</b>



- Người vợ, ngươi mẹ giàu tinh yêu thương


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

chồng: " Thầy em cố gắng ngơi dạy húp ít cháo cho đỡ xót ruột". Hành động ấy
chứa đựng biết bao tình yêu thương vỗ về.


- Dũng cảm chống lại bọn cường hào để bảo vệ chồng


- Bán đi đứa con minh đứt ruột đẻ ra, lịng người mẹ nào khơng đau cho được.
Lịng chị chắc hẳn ln quặn thắt ln nhói đau.


- Người phụ nữ đúng mực có cương có nhu


- Lúc đầu khi bọn cường hào tới chị hạ mình van xin, lúc thì run run xin khất, lúc
thì thiết tha xin chúng xem lại


- Tên cai vệ " Dựt phăt dây thừng trong tay anh hậu cần lý trưởng, hắn chạy sầm
sập đến chỗ anh Dậu để bắt trói điệu anh ra đình". Tức nươc vỡ bờ, để bảo về
chồng cũng như nhân phẩm chị đã kiên quyết chống cự: " Mày trói chồng bà đi, bà
cho mày xem". Cách xưng hô thay đổi. Từ chỗ nhún mình chị đã vùng lên. Tên cai
vệ bị chị Dậu túm cổ ấn dúi ra cửa, ngã chỏng queo trên mặt đất.Tên hậu cận lý
trưởng bị chị túm túc lăng cho một cái, ngã nhao ra thềm. Chị nói " Thà ngơi tù.
Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tơi khơng chịu được. Con giun xéo mãi
cũng quằn, bị dồn tới bước đường cùng người nơng dân phải tự giải thốt cho
mình.


<b>3. Đánh giá</b>


- Với nghệ thuật xây dựng nhân vật, sử dụng vốn từ ngữ giàu có sinh động, Ngơ
Tất Tố đã xây dựng thành cơng nhân vật chị Dậu, qua đó thể hiện chiều sâu nhân


đạo cũng như triết lý: Có áp bức thì sẽ có đấu tranh.


<b>III. Kết bài</b>


- Cảm nhận của em về nhân vật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>Suy nghĩ nhân vật chị Dậu - Mẫu 1</b>


Trong giai đoạn 1936 - 1939, văn đàn Việt Nam xuất hiện nhiều tác phẩm có giá
trí, hình thành một trào lưu văn học hiện thực phê phán mạnh mẽ xã hội và phản
ánh sinh động cụ thể những nỗi đau khổ, lầm than của nhân dân Việt Nam trước
Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngô Tất Tố là một cây bút hiện thực phê phán
xuất sắc của dòng văn học này. Tắt đèn là một tác phẩm thành công nhất của Ngô
Tất Tố. Đó là một bản cáo trạng lên án chế độ thối nát của bọn thực dân phong
kiến, đồng thời Tắt đèn cịn xây dựng hình tượng nhân vật chị Dậu, tiêu biểu cho
phụ nữ nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với những phẩm chất tốt
đẹp: yêu thương chồng con sâu sắc và có tinh thần đấu tranh chóng áp bức.


Đoạn trích Tức nước vỡ bờ kể lại sau khi anh Dậu bị ngất xỉu ờ sân đình, sợ bị vạ
lây, bọn tay sai đem anh Dậu trả về cho gia đình như một cái xác chết. Chị Dậu
cùng bà con hàng xóm ra sức chăm sóc cho anh Dậu. Chị vơ cùng đau đớn xót xa,
lo lắng cho mạng sống của chồng. Chi ân cần chăm sóc từng giấc ngủ, từng bữa ăn
cho anh Dậu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

miệng khơng. Hình ảnh này khiến em liên tường đến bà Tú, vợ của Tú Xương
cũng tần tảo, đảm đang lo lắng và hy sinh tất cả cho chồng con.


<i>Lặn lội thân cò khi quãng</i>
<i>Eo sèo mặt nước buổi đò đơng.</i>



Những tình cảm cao đẹp đó chính là đặc điểm tiêu biểu nhất của người phụ nữ
Việt Nam. Cũng chính vì tình cảm vợ chồng cao đẹp, chị Dậu đã dũng cảm đấu
tranh chống lại bọn tay sai để bảo vệ người chồng yêu quý.


Khi anh Dậu đang run rẩy bê bát cháo lên thì bọn cai lệ và người nhà lí trưởng đã
rầm rập tiến vào với những roi song, tay thước, dây thừng. Chúng chưa hành hung
nhưng mồm vẫn cịn chửi bới mỉa mai. Đối phó với hồn cảnh bất ngờ đó, thái độ
ban đầu của chị Dậu hoàn toàn bị động, chị run run van xin đến thiết tha nài nỉ:
"Khốn nạn nhà cháu đã khơng có, dẫu ơng có chửi mắng cũng thế thơi, xin ơng
trơng lại". Chị đã hạ mình nhẫn nhục khi xưng hơ ông,á để bảo vệ tính mạng của
chồng. Nhưng chúng nào có nghe, bọn tay sai vẫn hung hăng xơng tới. Bọn chúng
giật phắt dậy thừng, đùng đùng chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu. Đến giờ phút này,
trước sự ức hiếp tàn bạo cùa chúng, chị khơng cịn nhẫn nhục được nữa, rõ ràng
nước càng tức càng vỡ bờ, chị đã chù động đấu tranh chống lại kẻ thù. Tinh thần
phản kháng biểụ hiện ở thái độ và hành động. Chị xám mặt lại và cách xưng hô
cũng thay đổi. Lần cuối, chị không gọi chúng bằng ông và xưng con, cháu nữa, mà
là mày với bà, chị đã tự đặt minh trên kẻ thù và giành thế chủ động: "Mày trói
ngay chồng bà đi, bà cho mày xem". Hàng động của chị quyết liệt và nhanh như
cắt chị nắm ngay gậy cùa hắn, túm tóc lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

cuối cùng chị đã vùng lên đấu tranh chống lại áp bức với một sức mạnh quật khởi
của lòng căm thù.


Hành động của chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ chứng minh rằng "ờ đâu
có áp bức là ở đó có đấu tranh". Sự phản kháng của chị Dậu cũng là một biểu hiện
tinh thần đấu tranh chống áp bức, dù mang tính cách tự phát, nhưng vẫn thể hiện
một tiềm lực tốt cùa giai cấp nơng dân. Khi có sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp
nông dân vùng lên đấu tranh với sức mạnh quật khời bằng ý thức tự giác cách
mạng. Với nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật qua các diễn biến căng thẳng của
tinh tiết. Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu. Đó là hình tượng


chân thực, đẹp đẽ về người phụ nữ nơng dân trước Cách mạng tháng Tám có lịng
thương u chịng, có tinh thần đấu tranh dũng cảm chống mọi áp bức, bất công
cùa chế độ thực dân phong kiến.


<b>Suy nghĩ nhân vật chị Dậu - Mẫu 2</b>


Ngô Tất Tố là nhà văn hiểu biết sâu sắc đời sống và tâm trạng của quần chúng, có
cái nhìn đúng đắn đối với quần chúng. Chúng ta trở lại nhân vật chị Dậu. Chị Dậu
là người nghèo khổ, bị áp bức bóc lột tàn tệ. Cuộc đời của chị quằn quại trong bùn
lầy và bóng tối. Nhưng chị lại là người có một phẩm chất cao quý, đẹp đẽ.


Chị Dậu là người hiền lành, thật thà, chăm chỉ làm ăn, thương chồng, thương con
rất mực. Chị có thể tiêu biêu cho lớp phụ nữ nông dân Việt Nam, cần cù lao động,
chịu thương, chịu khó. Nhưng có một lúc, con người hiền lành ấy đã cả gan đánh
lại bọn đầu trâu mặt ngựa để bảo vệ cho chồng. Tuy hành động ấy mới chỉ có tính
chất tự phát và nhất thời, nhưng cũng phần nào nói lên được ý chí khơng chịu
khuất phục của những con người bị chà đạp, dày xéo. Đó là một hành động đẹp đẽ.
Lời nói của chị Dậu là một lời phản kháng đanh thép:" Chồng tôi đau ốm ông
không được phép hành hạ!". Trong lúc bị hà hiếp quá đáng, người đàn bà ấy có thể
liều chết chống lại bọn thống trị: "Thà ngồi tù, để cho chúng nó làm tình làm tội
mãi thế, tơi không chịu được"...


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

bán cho nghị Quế. Cái đêm chị bị tên tri phủ tìm cách cưỡng hiếp, chị đã cương
quyết chống lại và đã thắng được con thú vật đáng ghê tởm. "Quan phủ lóp ngóp
đứng dậy, mở ví lấy nắm giấy bạc độ hơn chực đồng, chài vào tận mặt chị Dậu.
Ngài thở và nói: "Có muốn lấy tiền tao cho!". Chị Dậu giằng nắm bạc vứt tọt
xuống đất.


Cái đêm "quan cụ" định diễn lại tấn tuồng của tên tri phủ kia, chị Dậu cũng cho
hắn một bài học đích đáng. Bên cạnh tính chất đê hèn của bọn quan lại giàu có,


phẩm chất đạo đức của người đàn bà nông dân nghèo khổ càng sáng tỏ, đẹp đẽ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

vào đêm tối, "mịt mù như tiền đồ của chị". Nhưng đứng về quan điểm lịch sử,
chúng ta khơng thể nhất thiết địi hỏi nhà văn phải có một cái nhìn cách mạng đối
với xã hội được. Ngơ Tắt Tố dũng cảm bóc trần mâu thuẫn của xã hội, nói lên đời
sống cơ cực và phẩm chất tốt đẹp của những người bị áp bức, vạch trần chân
tướng của bọn thống tri, đó là những thành công đáng cho chúng ta trân trọng.


<b>Suy nghĩ nhân vật chị Dậu - Mẫu 3</b>


Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc trong dòng văn học hiện thực 1930-1945. Viết về
nạn sưu thuế dã man đã bần cùng hóa nhân dân ta, ca ngợi những phẩm chất tốt
đẹp của người nông dân, tiểu thuyết “Tắt đèn" của Ngô Tất Tố là một thành công
đặc sắc. Nhân vật chị Dậu đã được khắc họa thành một nhân vật điển hình về
người phụ nữ nơng dân trong xã hội cũ.


Bình luận về tác phẩm “Tắt đèn”, nhà văn Nguyễn Tuân có nhận xét vé nhân vật
chị Dậu như sau: “Trên cái tối giời, tối đất của đồng lúa ngày xưa, hiện lên một cái
chân dung lạc quan của chị Dậu”.


Nhận xét của Nguyền Tuân rất sắc sảo. Ông chỉ ra giá trị hiện thực của “Tắt đèn”
một tác phẩm đã phản ánh sự đen tối lầm than của nông thôn Việt Nam dưới thời
Pháp thuộc, đồng thời khẳng định thành công của Ngô Tất Tố khắc hoạ nhân vật
chị Dậu “một chân dung lạc quan ”hiện lên giữa “cái tối giời tối đất của đồng lúa
ngày xưa " ấy. Chị Dậu có bao phẩm chất tốt đẹp: nghèo khổ mà phẩm giá trong
sạch, thương chồng thương con, đảm đang tháo vát, dũng cảm chống lại bọn
cường hào.. “Bản chất của nhân vật chị Dậu rất khóe, cứ thấy lăn xả vào bóng tối
mà phá ra..”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

trói chó để giết thịt!’’. Em trai anh Dậu chết từ năm ngoái nhưng anh Dậu vẫn phải


nộp thay vì “Chết cũng khơng trốn được sưu Nhà nước!”. Có biết bao gia đình
nơng dân nghèo khổ bị điêu đứng, bị bắt đánh trói dã man! Chị Dậu phải bán
khoai, bán ổ chó, bán đứa con gái đầu lòng lên 7 tuổi cho Nghị Quế. Chị phải đi ở
vú... để kiếm đủ số tiền trang trải hai suất sưu cho chồng và đứa em chồng đã chết!
Có thể nói “Tắt đèn” là bức tranh chân thực về xã hội nông thôn đen tối trước cách
mạng, đồng thời là bản án đanh thép đối với cái xã hội ấy. Đọc “Tắt đèn”, ta rùng
mình cảm thấy“cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa ” như Tố Hữu đã viết:


<i>“Nửa đêm thuế thúc trống dồn,</i>


<i>Sân đình máu chảy, đường thơn lính đầy... ”</i>


(30 năm đời ta có Đảng)


Giữa cái xã hội đen tối, hãi hùng ấy đã “Hiện lên một cái chân dung lạc quan của
chị Dậu”. Ngô Tất Tố không chỉ thấu hiểu đời sống nơng thơn mà cịn có tình cảm
gắn bó với những người dân cày lam lũ, nghèo khổ. Ông đã dành cho nhân vật chị
Dậu sự đồng cảm, xót thương và quý trọng. Ông đã viết nên những lời tốt đẹp nhất
về cái chân dung lạc quan của chị Dậu. Chị Dậu cần cù chịu khó làm ăn "đầu tắt
mặt tối” thế mà "cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”. Tai họa dồn dập: hai cái
tang mẹ chồng và em chồng, rồi anh Dậu bị ốm nặng kéo dài mấy tháng trời, gia
đình chị trở thành “cùng đinh”. Thiếu sưu, chồng bị bắt, bị đánh trói dã man. Một
nách ba đứa con thơ, trong nhà khơng cịn một hột gạo, chị Dậu tất tả ngược xi
tìm mọi cách để cứu chồng. Chị đã phải bán gánh khoai, bán ổ chó, đứt ruột bán
cái Tí lên 7 tuổi cho mụ Nghị, mới trả đủ một suất sưu cho chồng! Chị cịn phải đi
ở vú để trang trải “món nợ Nhà nước” cho đứa em chồng đã chết. Trước mọi tai
họa, chị đã vững vàng chống đỡ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

hàm răng” thách thức: "Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Với quyết tâm
bảo vệ chồng, với sức mạnh và lòng dũng cảm, chị Dậu đã đánh ngã nhào hai tên


côn đồ độc ác, những kẻ "hút nhiều xái cũ”. Chị căm giận phủ định mọi thế lực tàn
ác của chính quyền thực dân. Chị nói với chồng sau khi đã trừng trị lũ đầu trâu
mặt ngựa: “Thà ngồi tù. Để cho chúng làm tình làm tội mãi thế, tơi không chịu
được... ”. Cái chân dung chị Dậu "lạc quan” lắm chứ! Đẹp lắm chứ!


Đói cho sạch, rách cho thơm. Đọc “Tắt đèn ”, ta khâm phục trước phẩm cách trong
sạch của chị Dậu. Chị Dậu đã “vứt toẹt nắm bạc” vào mặt tên Tri phủ Tư Ân khi
hắn giở trị chó má! Chị cũng đã đẩy cụ cố Thượng ra, khi lão già ôm lấy chị...
Bạo lực, tù đày, chị không sợ. Tiền bạc không mua chuộc được người đàn bà nhà
quê này! Trong đêm tối như mực, ta thấy “hiện lên một cái chân dung lạc quan của
chi Dậu ”.


Có người cho rằng chị Dậu manh động! Lại có ý kiến cho rằng cái kết của Tắt đèn
nhuốm màu bi quan? Nhà văn Nguyễn Tuân đã phát hiện ra "Bản chất của chị Dậu
rất khoẻ, cứ thấy lăn xà vào bóng tối mà phá ra ". Đó là một ý rất hay, rất đặc sắc.
Ngày nay, nông thôn Việt Nam đã có nhiều đổi mới. Xóm làng đã "ngói hố”.
Ánh điện đã toả sáng nhiều xóm thơn. Những cái Tí đã được cắp sách đến trường.
Đọc “Tắt đèn “là một dịp để mọi người “ôn cũ biết mới”. Ta càng thấy cái tâm và
cái tài của Ngô Tất Tố khi ông miêu tả bức chân dung lạc quan của chị Dậu.


<b>Suy nghĩ nhân vật chị Dậu - Mẫu 4</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

“ tắt đèn” của Ngô Tất Tố mang nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc để lại trong lịng
người đọc cho tới tận hơm nay.


Bối cảnh trong tác phẩm là hình ảnh của làng Đơng Xá trong những ngày đang bị
bọn lí chủ, cường hào đi thúc giục sưu thuế cho bọn chúng. Mà nhà chị Dậu lại là
một trong những gia đình khó khăn nhất trong làng. Vì khơng thể trả nổi mức thuế
cao vơ lí mà anh Dậu đã bị bọn chúng bắt trói lại, đánh đập dã man. Cực chẳng đã,
chị Dậu đã phải bán đi đàn chó mẹ, chó con cùng đứa con gái lớn nhất cho nhà


Nghị Quế với mứa giá rẻ mạt để có tiền cứu chồng ra khỏi tay của bọn cường hào.
Qua đây, chúng ta có thể thấy được hình ảnh của một người phụ nữ nơng dân tuy
thất học nhưng ln hết lịng vì chồng, phải cáng đáng công việc mà đáng lẽ ra
giành cho người đàn ông trong gia đình.


Mở đầu đoạn trích là hình ảnh anh Dậu bị trói trên cây cột giữa sân đình, đang thoi
thóp, kiệt quệ, khơng thể chống đỡ được sự đau đớn, mỏi mệt cả về thể xác và tinh
thần. Khó khăn lắm, chị Dậu mới có được chút tiền bạc để nộp sưu. Ấy vậy mà
bọn cường hào, tay sai của “ông Lý” lại lôi anh Dậu ra vứt ở ngồi sân, trao trả lại
cho chị và địi chị phải nộp thêm thuế đinh của người em trai chồng đã mất từ
năm ngối. Đó là một điều địi hỏi vơ lí, thế nhưng chị vẫn phải nhẫn nhục. Đau
khổ là thế, lo lắng là thế nhưng chị vẫn cố dằn lịng, cố gắng đưa cho chồng bát
cháo lỗng, dù chính mình cịn chưa có gì ăn, Chị chỉ nhẹ nhàng bảo với chồng :”
Thầy em cố gắng dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột” . Lời của người đàn bà nhà quê
tuy mộc mạc nhưng lại mang biết bao tâm tư, tình cảm mà ít ai sánh được. Thậm
chí, chị cịn bế cái Tửu ngồi cạnh chồng để nhìn xem anh ăn có được hay khơng,
có ngon miệng khơng . Tình cảm của chị phải son sắt, giàu đức hi sinh như thế nào
mới có thể được như vậy trong lúc hồn cảnh khó khăn, đầy ngang trái như vậy.
và có lẽ chính tình u thương bao la ấy đã tạo cho chị sức mạnh phi thường
chống lại bọn tay sai khi chúng tiến vào, định cưỡng ép tới bức đường cùng hoàn
cảnh của anh chị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12></div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Đoạn trích “tức nước vỡ bờ” đã miêu tả lại sâu sắc hình ảnh đầy màu sắc hiên
thực của xã hội việt nam thời kì trước cách mạng. Cùng với nó, hình ảnh chị Dậu
cũng được khắc họa một cách rõ nét, dung hịa hai tính cách khác nhau, đối với
những người thân yêu bên cạnh, chị luôn dịu dàng, sẵn sang hi sinh bất cứ điều gì,
thế nhưng với những kẻ xấu, chị bất chấp tất cả để chiến đấu cùng chúng. Đó cũng
có lẽ là một sự thay đổi lớn trong hình ảnh của người phụ nữ cả về khí chất và tính
cách.



<b>Suy nghĩ nhân vật chị Dậu - Mẫu 5</b>


‘Tắt đèn’ là bản tố khổ chân thật, sâu sắc, chan hồ nước mắt và lịng căm phẫn
của người nơng dân nghèo bị bóc lột, đàn áp. Có lẽ chính nhà văn Ngơ Tất Tố
cũng khơng cầm được nước mắt. Cái đáng quý ở nhà văn này là thái độ phẫn nộ
với giai cấp bóc lột và lịng thương người mênh mơng!


‘Tức nước vỡ bờ’ vốn là câu tục ngữ mang tính quy luật tự nhiên (nước đã dâng
lên cao thì bờ ngồi vỡ nhưng cũng có ý nghĩa xã hội sâu sắc..., Người ta đã vận
dụng câu tục ngữ này làm tiêu đề, tên gọi của một đoạn trích hết sức điển hình
trong tiểu thuyết Tắt đèn.


Tinh huống dẫn đến cảnh ‘tức nước vỡ bờ’ có ngay ở giữa nhà Lí trưởng, chị Dậu,
nạn nhân trực tiếp của cái thuế thân quái gở kia đã uất nghẹn kêu lên:


‘Ối trời ơi! Tôi bán cả con lẫn chó và hai gánh khoai mới được hai đồng bảy bạc.
Tưởng rằng đủ tiền nộp sưu cho chồng, thì chồng khỏi bị hành hạ đêm nay. Ai ngờ
lại còn suất sưu của người chết nữa! Khốn nạn thân tôi! Trời ơi! Em tơi chết rồi
cồn phải đóng sưu hở trời?... ‘


Như thế là hoàn cảnh đưa đến cảnh ‘tức nước’ là do những trận bão tố từ cái chính
sách thuế thân quái gở của bọn thực dân Pháp và những thủ đoạn bóc lột trắng trợn
của gia đình Nghị Quế, và hành động đánh trói dã man của bọn lính tráng, tuần
đinh, người nhà tên Lí trưởng giội xuống đầu chị Dậu!


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Như vậy là mức nước đã dâng lên rất cao, cái thời điểm ‘vỡ bờ’ chỉ còn chờ đợi
từng giây phút. Người đàn bà ấy đã phải chịu nỗi đau đứt ruột vì phải bán đàn chó
và bán con đi mà vẫn khơng giải quyết được nạn sưu thế. Nhất là khi bọn chúng
vất anh Dậu về nhà chỉ còn như cái xác chết, người hàng xóm cho bát gạo, chị nâu
cháo vội để ‘cứu chồng’(bát cháo lúc này vừa là bát cơm vừa là chén thuốc). Nỗi


lo của chị như vừa lắng dịu xuống một chút, vì anh Dậu vừa tỉnh lại, run rẩy cất
bát cháo vào miệng định ăn thì chúng sầm sập tiến vào nhà, trong tay là roi song,
dây thừng, hình ảnh chúng như bọn quỷ dữ từ âm phủ hiện về chúng hét ‘Thằng
kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!


Thế là cái giọng khàn khàn chỉ hút xác thuốc phiện đã dập tắt ngay sự yên ổn của
chị Dậu và hơi tàn của anh Dậu! Anh ‘lăn đùng ra đó, khơng nói được câu gì’.
Trước tình cảnh ây, chúng chẳng có chút gì mủi lịng mà cịn qt mắng, chửi bới,
đe doạ chị Dậu. Chúng gọi chị là ‘mày’ xưng ‘cha’ rồi xưng ‘ơng’ với chị. Chúng
doạ ‘dỡ nhà’ và ‘trói cổ anh Dậu điệu ra đình’! Cuối cùng tên cai lệ giật phắt cái
dây thừng trong tay người nhà Lí trưởng sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu. Đểu cáng
và tàn ác hơn nữa, hắn ‘bịch vào ngực chị mây bịch’ và tát vào mặt chị. Thái độ
của chị Dậu đã căm giận lắm, nhưng để bảo vệ chồng, chị van xin, ngăn cản, đỡ
đòn cho chồng. Mỗi lần chị lùi lại van xin, tên cai lệ càng hung hăng thêm. Vừa
đánh, vừa chửi hắn nhảy đến cạnh anh Dậu. Hành động và cử chỉ của tên tay sai
mạt hạng chính là ngọn gió gây nên cảnh ‘tức nước vỡ bờ’. Bão táp đã đến độ con
bờ phải ‘vỡ’. Sau cái tát vào mặt chị và thêm những lời nói thơ lỗ, khốn nạn của
hắn như: ‘mày định nói cha mày nghe đấy à’, ‘trói cổ thằng chồng lại’. Chị khơng
chịu được nữa bèn túm lấy cổ hắn dúi ra cửa, hắn ‘ngã chỏng quèo trên mặt đất,
miệng lảm nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu’!


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Tình huống xảy ra như không thể ngờ chị Dậu lại chống cự mạnh mẽ đến như thế!
Lúc đó chị đang tập trung nói ý nghĩ và cử chỉ là an ủi chồng. ‘Thầy em cố ngồi
dậy húp ít cháo cho đỡ sót ruột’ thì bọn cai lệ dẫn xác vào. Mặc cho chúng quát
tháo chị vẫn dịu dàng van xin chúng bằng những lời có tình, có lí: ‘Nhà cháu đã
túng lại phải đóng cả suất sưu cho chú nó nữa, nên mới lơi thơi như thế. Chứ cháu
có dám bỏ bê tiền sưu của nhà nước đâu’... Nếu những con người có lương tri nhìn
cái gia cảnh ây, con người ấy ai nỡ đầy đoạ đến bước đường cùng? Nhưng bọn này
là tay sai, ở chúng khơng có khái niệm ‘tình thương người’ nên chúng chỉ biết ăn
nói thơ tục, quát tháo ầm ĩ, đánh người bừa



bãi, chúng có biết đâu rằng có giết vợ chồng chị đi thì cũng khơng cịn đồng xu
nào nộp suất sưu vơ lí nữa. Chị gọi chúng là ‘ông’ và tự xưng là ‘cháu’ và đã hai
lần chị xin chúng: ‘Hai ông làm phúc cho nhà cháu khất’... ‘Nhà cháu đã khơng có,
xin ơng xem lại... ‘ Như vậy một bên là cố gắng kìm nén, một bên cứ cậy thế chính
quyền, luật pháp mà mắng chửi, xô người đến con đường cùng.


Cho nên tình huống đã trở nên khơng thể nào khác là ‘cây muốn lặng mà gió
chẳng ngừng’. Sau khi bị tên cai lệ đánh và hắn đe doạ không tha anh Dậu, chị
Dậu vùng lên trở thành người đàn bà đanh đá, quyết liệt chống lại bọn chúng: từ
chỗ xưng ‘cháu’ với ‘ông’ chị gọi chúng là ‘mày’ và xưng ‘bà’ nói những câu áp
đảo lại chúng: ‘Ơng khơng được phép’, ‘Mày trói ngay chồng bà đi bà cho mày
xem’. Nói là làm, chị đã đánh ngã cả hai thằng cả hai tên ‘đại diện’ cho sự thống
trị khốn nát nhất.


Khi nghe chồng than thở và can ngăn chị đã nói một câu chứng tỏ lòng căm thù
của những người bị áp bức bóc lột đã lên đến tột đỉnh: ‘Thà ngồi tù. Để cho chúng
làm tình, làm tội mãi, khơng chịu được’. Câu nói là sự thách thức tất cả, khơng
cịn sợ gì nữa!


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Vì thế nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nhận xét:


‘Cách viết lách như thế, cách dựng truyện như thế, không phải là phát động quần
chúng nơng dân chống quan Tây, chống vua ta cịn là cái gì nữa? ‘


Quả thực trong chương này, chị Dậu đã nổi loạn chống lại bọn tay sai là bọn
cường hào, nanh vuốt của bọn thống trị thực dân, phong kiến.


Viết đoạn này Ngơ Tất Tố tuy chưa hồn tất nhân vật chị Dậu, nhưng nhà văn đã
tô điểm thêm cho nhân vật của mình ngồi cái đẹp về hình thức, tâm hồn, tính


cách, cịn có vẻ đẹp cứng cỏi trong đẩu tranh, một vẻ đẹp đáng quý biết bao.


Nét sắc sảo trong đoạn trích là nhà văn đã dựng được những tình huống để các
nhân vật phát triển hết tính cách của mình, các nhân vật chính diện cũng như nhân
vật phản diện. Nhân vật chị Dậu là nhân vật điển hình là người phụ nữ đẹp đẽ,
mạnh khoẻ, để lại ấn tượng khó qn trong lịng người đọc.


<b>Bài văn mẫu lớp 9: Bài viết số 7 đề 2</b>



<b>Đề 2: Số phận và tính cách của nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc</b>
<b>của Nam Cao.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

- Cùng với Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,... Nam Cao là một cái tên không thể thiếu
khi nhắc tới những nhà văn hiện thực nhân đạo.


- Các sáng tác của ơng vừa rất mực chân thực, vừa có một ý vị triết lí mang ý
nghĩa nhân bản sâu sắc.


- Truyện ngắn "Lão Hạc" là một trong những tác phấm tiêu biểu như thế!


- Nhân vật Lão Hạc đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về một người
nơng dân hiền lành, chất phác, giàu lịng nhân ái, tự trọng đáng kính.


<b>II. Thân bài:</b>


<i>1. Cuộc đời – cảnh ngộ của Lão Hạc: Người nơng dân nghèo khó, gặp nhiều bất</i>
<i>hạnh:</i>


- Vợ mất sớm, nhà nghèo, con trai phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su.



- Sống cơ đơn trong tuổi già, đối diện với nhiều rủi ro: ốm nặng, yếu, khơng có
việc, hoa màu bị bão phá sạch.


- Có con chó vàng làm bầu bạn nhưng phải bán đi vì cảnh nghèo.
- Ln canh cánh thương con, vì chưa lo được cho con trọn vẹn.
- Cùng đường, phải tìm đến cái chết thương tâm.


<i>2. Phẩm chất, nhân cách của Lão Hạc:</i>


a. Giàu lịng nhân ái, có tấm lịng vị tha, nhân hậu
b. Là người cha vơ cùng thương con, lo lắng cho con
c. Giàu lòng tự trọng.


<i>3. Cái chết của Lão Hạc: Là một biến cố điển hình để nhân vật bộc lộ tính c</i>ách
điển hình:


- Chết để tự giải thốt kiếp sống mịn.


- Chết vì q thương con, muốn giữ trọn vốn liếng cho con, giữ tiếng cho con.
- Chết để tránh bị đẩy vào con đường tha hóa, biến chất.


- Đau đớn tự trừng phạt vì đã bán con Vàng (đã đánh lừa nó)


- Cái chết như một sự hi sinh tàn khốc vì tương lai, nó chứng tỏ sự bế tắc của hiện
tại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

- Minh chứng cho nỗi bất hạnh và phẩm giá của người nông dân Việt Nam trước
cách mạng.


<i>4. Suy nghĩ, đánh giá về nhân vật:</i>



- Thương xót một con người bất hạnh.
- Trân trọng lòng tự trọng đáng quý.


- Yêu quý một con người giàu lòng nhân ái, yêu thương con.
<b>III. Kết bài:</b>


- Nhân vật Lão Hạc là một thành công nghệ thuật của Nam Cao trong việc xây
dựng hình tương người nơng dân trước cách mạng tháng Tám: nghèo khổ, giàu
lịng thương con, chất phác, đơn hậu, giàu lòng tự trọng...


- Nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật.


- Cảm xúc của cá nhân (trân trọng, yêu quý nhân vật. Nhân vật đã để lại suy nghĩ
gì cho bản thân?)


<b>Số phận và tính cách nhân vật Lão Hạc - Mẫu 1</b>


Từ xưa đến nay nói đến tình người, ta nói ngay đến "Lão Hạc". Tác phẩm này
được coi là truyện ngắn xuất sắc của văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930
-1945. Đó là một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương
khi tác giả kể về cuộc đời cơ đơn, bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông
dân nghèo khổ. Nhân vật Lão Hạc đã khắc họa vào lịng người đọc một cách sâu
đậm về hình ảnh một lão nơng dân đáng kính với phẩm chất của con người đơn
hậu, giàu lịng tự trọng và rất mực thương con.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Cảnh khốn khó về vật chất hòa trong nỗi đau về tinh thần thành dòng lệ chảy trong
trái tim chờ đợi khắc khoải của người cha. Nhưng cuộc đời dường như vẫn chưa
buông tha lão. Bất hạnh rồi bất hạnh cứ liên tiếp giáng xuống đầu người cha khốn
khổ ấy. Kiệt sức vì lam lũ lầm than, vì mịn mỏi chờ đợi. Lão ốm nặng. Sau trận


ốm đó lão ốm đi rất nhiều, khơng thể làm được những việc nặng. Làng mất nghề
sợi, đàn bà rỗi rãi nhiều, có việc gì nhẹ họ đều tranh hết. Lão Hạc rơi vào cảnh bần
cùng hóa hồn tồn. Lão sống vật vờ với con ốc, con trai, củ khoai, củ ráy, sung
luộc .... Những thứ cũng chẳng dễ gì kiếm được với một lão già đã cạn kiệt sức lực.
Cùng đường sống, Lão Hạc tìm đường đến cái chết, lấy cái chết để tự giải thốt
cho mình. Lão đã ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn thê thảm "đầu tóc rũ rượi,
mắt long sịng sọc, mồm tru tréo bọt mép sùi ra. Vật vã đến 2 giờ đồng hồ rồi mới
chết". Cái chết thật dữ dội! Số phận một con người, một kiếp người như Lão Hạc
thật đau thương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

làm chẳng còn, nếu cứ tiếp tục như vậy thì sẽ ăn vào số tiền chắt chiu dành dụm
cho con. Đặt lên bàn cân mà tính, suất ăn của con chó cũng bằng lão, vậy thì tốn
quá. Giữa số tiền dành dụm cho con và con chó – người bạn tâm tình, lão sẽ chọn
ai đây? Để đi đến quyết định, lão đã phải dằn vặt đau khổ, lão suy nghĩ nhiều,
nhiều lắm mới dũng cảm bán con chó. Cuộc lựa chọn khó khăn tàn khốc diễn ra
trong nước mắt. Nhưng nếu không bán con chó, lão sẽ chết và số tiền dành dụm
cho con cũng chẳng cịn. Lão bán chó đâu phải để ăn mà để lo tương lai cho đứa
con. Hình ảnh Lão Hạc "miệng méo xệch, khóc hu hu" khi nghĩ rằng mình đã lừa
một con chó là hiện thân của tấm lịng cao cả''.


Bao nhiêu tình u thương con lão dồn cả vào việc quyết giữ bằng được mảnh
vườn cho con. Khi đã hết đường sinh nhai, lão có thể bán vườn đi, nhưng lão
không làm thế, lão thà chết chứ nhất định khơng chịu bán đi một sào. Thậm chí
trước lúc chết lão cịn tìm nơi nhờ cậy gửi gắm mảnh vườn ấy ... Cuộc đời Lão
Hạc thật bi thương. Nhưng giữa cuộc đời khốn khó, Lão Hạc vẫn ý thức được
nhân phẩm của mình. Lịng tự trọng của một người không cho phép lão nhận sự
giúp đỡ của ông giáo mà lão biết chẳng sung sướng gì hơn lão, càng không cho
phép lão phiền lụy đến bà con lối xóm. Ý thức được điều đó một cách sâu sắc, Lão
Hạc đã nhịn ăn để dành tiền làm ma chay cho mình. Ta nhận thấy ở lão một triết lí
sống cao đẹp biết dường nào.



</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Cuộc đời của Lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất lực; sống thì âm thầm
nghèo đói cơ đơn; chết thì quằn quại đau đớn. Tuy thế, Lão Hạc lại có phẩm chất
tốt đẹp như hiền lành chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng .... Lão
Hạc là một điển hình và người nơng dân Việt Nam trong xã hội cũ, được Nam Cao
miêu tả chân thực với biết bao trân trọng, xót thương, thấm đượm một tinh thần
nhân đạo thống thiết.


<b>Số phận và tính cách nhân vật Lão Hạc - Mẫu 2</b>


Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trong giai đoạn văn học 1930 – 1945. Qua
nhiều tác phẩm, tác giả đã vẽ nên khung cảnh tiêu điều, xơ xác của nông thôn Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám. Sự đói khổ ám ảnh nhà văn bởi nó ảnh hưởng
khơng ít tới nhân cách, nhưng trong cảnh nghèo đói thê thảm, phẩm chất tốt đẹp
của người nông dân vẫn tồn tại và âm thầm tỏa sáng. Truyện ngắn Lão Hạc thể
hiện cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Trong đó, nhân vật chính là một
nơng dân gặp nhiều nỗi bất hạnh vì nghèo đói nhưng chất phác, đơn hậu, thương
con và có lịng tự trọng.


Vợ mất sớm, Lão Hạc dồn tất cả tình yêu thương cho đứa con trai duy nhất. Lão sẽ
sung sướng biết dường nào nếu con trai lão được hạnh phúc, nhưng con trai lão đã
bị phụ tình chỉ vì quá nghèo, không đủ tiền cưới vợ.


Thương con, lão thấu hiểu nỗi đau của con khi anh nghe lời cha, không bán mảnh
vườn để lấy tiền cưới vợ mà chấp nhận sự tan vỡ của tình yêu. Càng thương con,
lão càng xót xa đau đớn vì khơng giúp được con thỏa nguyện, đến nỗi phẫn chí bỏ
nhà đi phu đồn điền đất đỏ mãi tận Nam Kì. Mỗi khi nhắc đến con, Lão Hạc lại rơi
nước mắt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Nhưng nếu vì nhớ con mà Lão Hạc khơng muốn bán cậu Vàng thì cũng chính vì


thương con mà lão phải dứt khốt chia tay với nó. Lão nghèo túng q! Lão đã
tính chi li mỗi ngày cậu ấy ăn thế bỏ rẻ cũng mất hai hào đấy. Cứ mãi thế này thì
tơi lấy tiền đâu mà ni được... Thơi bán phắt đi, đỡ đồng nào hay đồng ấy. Bây
giờ, tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của con. Tiêu lắm chỉ chết nó!


Thế là vì lo tích cóp, giữ gìn cho con trai chút vốn mà Lão Hạc đành chia tay với
con chó yêu quý. Đã quyết như thế nhưng lão vẫn đau đớn, xót xa. Lão kể cho ông
giáo nghe cảnh bán cậu Vàng với nỗi xúc động cực độ. Lão đau khổ dằn vặt vì
cảm thấy mình đã đánh lừa một con chó. Nỗi khổ tâm của lão cứ chồng chất mãi
lên. Trước đây, lão dằn vặt mãi về chuyện vì nghèo mà khơng cưới được vợ cho
con, thì bây giờ cũng chỉ vì nghèo mà lão thêm day dứt là đã cư xử khơng đàng
hồng với một con chó. Lão cố chịu đựng những nỗi đau đớn ấy cũng chỉ nhằm
một mục đích là giữ gìn chút vốn cho con.


Biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con chính là cái chết của lão. Ơng lão nơng
dân nghèo khổ ấy đã tính tốn mọi đường: Bây giờ lão chẳng làm gì được nữa...
Cái vườn này là của mẹ nó chắt chiu dành dụm cho nó, ta khơng được ăn vào của
nó... Ta khơng thể bán vườn để ăn... Chính vì thương con, muốn giữ cho con chút
vốn giúp nó thốt khỏi cảnh nghèo mà Lão Hạc đã chọn cho mình cái chết. Đó là
một sự chọn lựa tự nguyện và dữ dội. Nghe những lời tâm sự của Lão Hạc với ơng
giáo, khơng ai có thể kìm nổi lịng xót thương, thơng cảm và khâm phục. Một con
người vì nghèo đói mà bất hạnh đến thế là cùng! Một người cha thương con đến
thế là cùng!


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

tránh xa lối đói ăn vụng túng làm càn. Thậm chí, lão kiên quyết từ chối sự giúp đỡ
chỉ vì lịng thương hại.


Lão đã chuẩn bị kĩ lưỡng mọi việc. Trước khi chết, lão nhờ ông giáo viết văn tự để
giữ hộ con trai mình mảnh vườn và gửi ông giáo 30 đồng để lo chôn cất. Lão
không muốn mọi người phải tốn kém vì lão. Rất có thể vì tốn kém mà người ta lại


chẳng ốn trách lão sao? Khơng phiền lụy đến mọi người, đó cũng là cách để giữ
gìn phẩm giá. Thì ra ơng lão có vẻ ngồi gàn dở ấy lại có phẩm chất đáng quý biết
nhường nào!


Nhà văn Nam Cao đã giúp chúng ta hiểu được nỗi khổ tâm, bất hạnh vì nghèo đói
cùng những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn người nông dân Việt Nam trước Cách
mạng tháng Tám. Từ những trang sách của Nam Cao, hình ảnh Lão Hạc ln nhắc
chúng ta nhớ đến những con người nghèo khó mà trong sạch với một tình cảm trân
trọng và yêu quý.


<b>Số phận và tính cách nhân vật Lão Hạc - Mẫu 3</b>


Cùng với Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất Tố, Nam Cao là tác giả tiêu biểu của
dòng văn học hiện thực phê phán, luôn hướng về người nông dân, phản ánh hiện
thực đời sống của người nông dân trước Cách mạng. Truyện ngắn Lão Hạc là tác
phẩm đặc sắc của Nam Cao, nó như một điểm son trong sự nghiệp sáng tác của
ông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

lão. Cuộc đời túng quẫn, nghèo khó cứ đeo đẳng bên ơng. Vợ chết để lại mảnh
vườn ba sào, nhưng lão nhất quyết không bán dù cho nghèo khó. Lão tự bảo: Cái
vườn là của con ta ... của mẹ nó tậu thì nó được hưởng. Lão nghĩ vậy và làm đúng
như vậy. Tất cả hoa lợi thu được lão bán để dành dụm riêng chờ ngày con về cưới
vợ. Cảm thương cho ông lão đã vị võ trơng con về làng, lão chắc mẩm thế nào
đến lúc con lão về cũng có được trăm đồng bạc. Nhưng hy vọng chẳng có, thất
vọng lại về, lão bị một trận ốm đúng hai tháng mười tám ngày, bao nhiêu vốn
liếng dành dụm được đều sạch nhẵn. Sau trận ốm, người lão yếu quá, không làm
được việc nặng, việc nhẹ thì người ta tranh hết, lão phải cầm hơi qua ngày bằng củ
chuối, củ ráy, con ốc, con trai...


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

rơi nhưng lão vẫn giàu đức hi sinh, giàu tình thương và giữ vững phẩm chất cao


đẹp của mình.


Hình ảnh Lão Hạc chết thật thê thảm. Lão mượn miếng bả chó để tự kết liễu đời
mình. Tội nghiệp cho lão quá! Lão vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo
xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra... Cái chết đau đớn
của lão đã làm sáng tỏ thêm phẩm chất cao đẹp của người nông dân hướng thiện.
Tuy sống trong cái xã hội đầy bóng tối, nhưng tâm trí lão vẫn sáng ngời, tính cách
của lão thật cao quí. Cả đời lão nghèo đói nhưng khơng làm mất đi tấm lịng đơn
hậu, trong sáng của mình.


Với bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật, xen kẽ tự sự, Nam Cao đã gợi cho ta niềm
cảm thương vô hạn đối với những người nơng dân nghèo khổ. Ngịi viết của Nam
Cao là tiếng nói cảnh tỉnh về một xã hội thiếu công bằng, không quan tâm đến
người nghèo, chà đạp lên số phận của con người lương thiện.


<b>Số phận và tính cách nhân vật Lão Hạc - Mẫu 4</b>


''Lão Hạc" của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê
thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc
sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã
diễn tả tập trung vào tâm trạng nhân vật chính – Lão Hạc – xoay quanh việc bán
chó đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng của một người cha đáng thương, một con người
có nhân cách đáng quý và một sự thực phũ phàng phủ chụp lên những cuộc đời
lương thiện.


Con chó – cậu Vàng như cách gọi của lão là hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa
con. Hơn thế, cậu Vàng cịn là nguồn an ủi của một ơng lão cô đơn. Lão cho cậu
ăn trong bát, chia xẻ thức ăn, chăm sóc, trị chuyện với cậu như với một con người.
Bởi thế, cái ý định ''có lẽ tơi bán con chó đấy" của lão bao lần chần chừ khơng
thực hiện được. Nhưng rồi, cuối cùng cậu Vàng cũng đã được bán đi với giá năm


đồng bạc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

lão bán cậu khơng phải vì tiền, bởi gạo thì cứ kém mãi đi mà một ngày lo ba hào
gạo thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng, nhưng bán cậu rồi lão lại
đau khổ dày vị chính mình trong tâm trạng nặng trĩu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Kết cục số phận của Lão Hạc là cái chết được báo trước nhưng vẫn khiến mọi
người bất ngờ, thương cảm. Quyết định dữ dội tìm đến cái chết bằng bả chó là giải
pháp duy nhất đối với Lão Hạc, để lão đứng vững trên bờ lương thiện trước vực
sâu tha hoá. Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của
Lão Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm về số phận những con người nghèo khổ
lương thiện trong xã hội cũ.


<b>Bài văn mẫu lớp 9 bài viết số 7 đề 3</b>



<b>Đề 3: Lấy nhan đề "Tình người trong chiếc lá", em hãy viết bài nêu suy nghĩ</b>
<b>của mình về đoạn trích truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O Hen-ri.</b>


<b>Dàn ý suy nghĩ về đoạn trích Chiếc lá cuối cùng</b>
<b>a. Mở bài: Giới thiệu O Hen-ri và truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng.</b>
<b>b. Thân bài</b>


* Ý nghĩ của Giôn-xi về cái chết và chiếc lá cuối cùng.


– Xiu đã tận tình chăm sóc Giơn-xi (tình cảm tốt đẹp của bạn bè), thầy thuốc cũng
đã hết lòng chạy chữa (khoa học cũng đã cố gắng).


– Cụ Bơ-men vẽ chiếc lá cuối cùng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

<b>c. Kết bài: Nhấn mạnh tình cảm của con người, tình cảm đó đã biến thành tác</b>


phẩm và sức mạnh kì diệu của tác phẩm nghệ thuật vì con người.


<b>Suy nghĩ về đoạn trích Chiếc lá cuối cùng - Mẫu 1</b>


Người phụ nữ bất hạnh bất lực trên giường bệnh, bất động trên chiếc giường sắt
sơn, tạo ra ấn tượng về bức tranh được đóng khung treo tường. Khơng gian trở nên
hẹp hơn sự vật đi vào chiều tĩnh lặng. Duy đôi mắt người bệnh có dấu hiệu sự
sống, song đơi mắt ấy cứ trân trân nhìn cái đầu hồi nhà gạch bên cạnh đếm từng
chiếc lá trường xuân đang rụng dần trong gió lạnh. Đó là biểu tượng của chiếc
thước đo về cuộc đời của Giôn-Xi: Cô đã xây dựng cho mình một niềm tin bất
hạnh: Cơ sẽ chết khi chiếc lá thường xuân cuối cùng rụng xuống.


Câu chuyện của Giôn-xi, được Xiu cô bạn lớn tuổi hơn là người đang cưu mang
Giơn-xi, nói lại với cụ Bơ-men. Cụ là một hoạ sĩ nhưng là một người thất bại trong
nghệ thuật. Bởi lẽ "cụ múa cây bút vẽ đã bốn mươi năm mà vẫn chưa với tới được
gấu áo vị nữ thần của mình". Nhưng cụ "ln có ý định vẽ một bức tranh tuyệt
tác", cho dù "cụ chưa bao giờ bắt đầu cả". Cụ kiếm tiền bằng cách "bôi bác một
ngành buôn bán hay quảng cáo", hoặc "ngồi làm mẫu cho các nghệ sĩ trẻ". Dù vậy
cụ vẫn luôn luôn nói về "tác phẩm kiệt tác sắp đến tới". Điều đáng quý ở cụ là hay
"chế nhạo sự mềm yếu của bất kì ai" và tự coi mình "là một con chó xồm lớn
chuyên canh gác cửa bảo vệ cho hai nữ hoạ sĩ trẻ" Giôn-xi và Xiu.


Câu chuyện về cuộc đời yếu đuối và mong manh như chiếc lá giữa cơn phong ba
của Giôn-xi đã được cụ Bơ-men tiếp đón bằng sự "khinh bỉ và nhạo báng". Song
bất chấp thái độ của cụ già, căn bệnh của Giôn-xi vẫn không hề thuyên giảm. Và
cụ già "nhỏ bé dữ tợn" đã hứa một cách trịnh trọng qua mùi rượi "sặc sụa": "Một
ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất...".


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

bám trên tường gạch. Đó là chiếc lá cuối cùng trên cây... Chiếc lá vẫn dũng cảm
bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ".



Hôm sau "chiếc lá thường xn vẫn cịn đó". Và Giơn-xi chợt hiểu ra: "Có một cái
gì đấy làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn cịn đó để cơ thấy rằng mình đã tệ như thế
nào. Muốn chết là một tội". Và hi vọng một ngày nào đó "sẽ được vẽ vịnh Na-plơ"
lại trỗi dậy trong cô. Nhựa sống lại lên men, nghị lực mầm sống lại hồi sinh, khiến
bác sĩ phải thốt lên: "Cô ấy khỏi nguy hiểm rồi, chị đã chiến thắng." Điều gì đã
khiến Giơn-xi khoẻ lại? Có thể một phần do thuốc men phát huy có hiệu lực, có
thể có một phần do bàn tay chăm sóc chu đáo của Xiu. Hẳn là thế, nhưng bao trùm
lên tất cả, cái đã lôi Giôn-xi ra khỏi con đường dần về cõi hư vô là chiếc lá cuối
cùng trên bức tường đối diện phòng với họ "chẳng bao giờ rung rinh và lay động
khi gió thổi", bởi đó là chính kiệt tác của cụ Bơ-men, cụ vẽ nó ở đấy vào cái đêm
mà chiếc lá cuối cùng đã rụng. Để tạo được tác phẩm kiệt xuất ấy, cụ Bơ-men đã
đổi bằng cuộc sống của chính mình. Cụ đã trả lại màu xanh cho chiếc lá vàng úa,
trả lại màu hồng cho đôi má người thiếu nữ, xanh xao, trả lại niềm tin nghị lực cho
người yếu đuối.


Nghệ thuật chân chính mang trong nó chức năng sinh thành và tái tạo. Nó thức dậy
niềm tin vào cuộc sống, nó mở đường cho những khát vọng lớn lao, nó chắp cánh
cho những ước mơ. Vì thế, hình tượng cụ Bơ-men cho dù chỉ phác hoạ, nhưng vẫn
sống mãi trong lòng người đọc bởi cụ đã tạo ra kiệt tác bằng màu xanh hi vọng,
bằng chất liệu nhân đạo truyền thống được kết tinh trong tiến trình lịch sử. Chiếc
lá cuối cùng trở thành niềm hi vọng hồi sinh.


<b>Suy nghĩ về đoạn trích Chiếc lá cuối cùng - Mẫu 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

thương yêu và niềm tin với con người, một bức thông điệp khẳng định sứ mạng và
sức mạnh của nghệ thuật chân chính.


Câu chuyện kể về cuộc sống chật vật của những người hoạ sĩ nghèo: Hai nữ họa sĩ
trẻ Xiu và Giôn-xi sống cùng căn hộ với người họa sĩ già Bơ-men. Những khó


khăn về vật chất đã vắt kiệt sức sáng tạo, khiến họ lâm vào cảnh bi đát. Cụ
Bơ-men suốt bốn chục năm mơ ước vẽ một bức kiệt tác mà không thực hiện được,
đành phải ngồi làm mẫu cho các họa sĩ trẻ để kiếm chút tiền cịm ni thân.
Giơn-xi bị sưng phổi, bệnh tật và nghèo túng đã lấy nốt của cô niềm tin vào cuộc sống.
Chỉ còn lại Xiu mòn mỏi với những bức vẽ và ám ảnh bởi suy nghĩ của Giôn-xi:
Cô gái bệnh tật ấy đang đếm từng chiếc lá rơi để chờ định mệnh phán quyết mạng
sống của chính mình, với niềm tin khi chiếc lá cuối cùng rụng xuống thì cơ sẽ ra
đi... Khơng gian cuộc sống của những con người khốn khổ ấy lạnh lẽo u ám như
mùa đông, nặng trĩu những buồn lo.


Đáng sợ làm sao khi mỗi ngày trơi đi trong gió tuyết và những cơn mưa lạnh lẽo
dai dẳng, những chiếc lá thường xuân tiếp tục rơi xuống, chỉ còn lại một chiếc lá
cuối cùng để Giơn-xi như nhìn thấy cái chết của mình đang đến gần. Có lẽ ai trong
chúng ta cũng cảm thấy rối lịng, bất lực trước một con người đã bng xuôi, chán
sống. Bởi thế nhà văn đã tập trung miêu tả khoảnh khắc căng thẳng của Xiu và cụ
Bơ-men lúc Giơn-xi đang ngủ: "Họ sợ sệt ngó ra ngồi cửa sổ, nhìn cây thường
xuân. Rồi họ nhìn nhau một lát, chẳng nói năng gì". Có lẽ trong giây phút đó, họ
đã nhìn thấy nhánh thường xuân cuối cùng trụi lá rồi chăng? Dường như cùng với
cái khắc nghiệt của trời đơng, mưa gió, họ có thể đốn trước được điều gì khi
Giơn-xi tỉnh dậy vào sáng hơm sau và thấy chiếc lá cuối cùng đã rụng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

manh bám trên bức tường gạch chắc chắn sẽ bị vùi dập tơi tả, không chống chọi
nổi sự tàn phá của tự nhiên. Điều đó có nghĩa là sau phút kéo mành lên, Giơn-xi sẽ
nhìn thấy cái chết của chính mình. Nhưng Xiu cũng khơng thể chịu được khoảnh
khắc nhìn thấy "Giơn-xi đang mở to cặp mắt thẫn thờ nhìn tấm mành mành màu
xanh đã kéo xuống". Không kéo mành lên cũng khơng được, vì như vậy Xiu sẽ
mang mặc cảm chính mình mới là người gây ra cái chết của Giơn-xi. Ta hiểu tâm
trạng của cô khi làm theo một cách chán nản, bản thân cơ cũng khơng cịn phương
cách nào giúp cho người đồng nghiệp, người em gái kia từ bỏ suy nghĩ điên rồ
đáng sợ kia.



Chính vào lúc ấy, một hình ảnh bất ngờ đã làm đảo lộn mọi dự đốn, đảo ngược cả
tình huống tưởng như chắc chắn trong dự định của Giôn-xi, trong nỗi lo của Xiu
và trong sự thất vọng của mọi người. Tình huống ấy đã thắp lại niềm hy vọng như
một phép màu: Vẫn còn một chiếc lá thường xuân bám trên bức tường gạch. Có lẽ
người vui mừng nhất lúc này là Xiu, vì chiếc lá cơ nhìn thấy khơng phải là một ảo
ảnh: "Đó là chiếc lá cuối cùng trên cây. Ở gần cuống lá cịn giữ màu xanh sẫm,
nhưng với rìa lá hình răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, chiếc lá vẫn dũng cảm treo
bám vào cành cách mặt đất chừng hai mươi bộ". Cịn Giơn-xi? Cơ cũng nhận ra:
"Đó là chiếc lá cuối cùng", thừa nhận sự thật một cách miễn cưỡng và tiếp tục suy
nghĩ: "Hơm nay nó sẽ rụng thơi và cùng lúc đó thì em sẽ chết".


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

khiến cho Giơn-xi khơng cịn một niềm tin nào vào sự sống của chính mình. Sự cố
chấp ấy quả thật đáng chê trách.


Nhà văn đã tạo ra một tình huống thử thách trước số phận của Giơn-xi, để rồi, cuối
cùng người đọc có thể thở phào nhẹ nhõm: "Chiếc lá thường xn vẫn cịn đó".
Chiếc lá mong manh ấy đã chiến thắng được thời tiết khắc nghiệt, để tạo ra một
bước ngoặt trong nhận thức của Giôn-xi. Cuối cùng, cơ gái ấy đã nhận ra sự ích kỷ
tồi tệ của bản thân mình. Chiếc lá cuối cùng đã cứu sống một sinh linh. Trước hết
là thức tỉnh khát vọng sống tiềm ẩn trong tâm hồn của Giôn-xi, để cơ nhận ra: "Có
một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn cịn đó để cho em thấy rằng mình
đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội.". Phép nhiệm màu đã xảy ra, vượt qua tất
cả những quy luật thường tình của thiên nhiên tạo hố, khiến Giơn-xi khơng hiểu
và khơng sao hiểu được. Phải chăng, Thượng đế chí cơng và nhân từ khơng nỡ để
một cô gái trẻ phải sớm giã từ cuộc sống? Không những thế, sau thời khắc bừng
tỉnh, cô gái Giôn-xi đã lại bắt đầu mơ ước về tương lai: "Một ngày nào đó em sẽ
vẽ được vịnh Na- plơ". Thượng đế thật cơng bằng, vị thượng đế ấy có tên là...
Bơ-men.



</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

Giôn-xi, bởi lẽ cô chưa thể hình dung ra phản ứng của Giơn-xi trước một sự lừa
dối bắt nguồn từ lòng tốt của người hoạ sĩ già. Lời nói ấy cịn bộc lộ một niềm
sung sướng vơ biên của Xiu trước giải pháp tình thế mà cụ Bơ-men đã nghĩ ra
trong đêm chiếc lá cuối cùng thực sự đã rụng xuống. Bởi thế, lần kéo mành vào
hơm sau, ta khơng cịn gặp tâm trạng chán nản đến cùng cực của Xiu nữa.


Vì sự sống của một cô gái, cụ Bơ-men đã bất chấp thử thách của thời tiết khắc
nghiệt, quên đi sự sống của bản thân mình. Có lẽ bản thân cụ cũng khơng ngờ đó
là bức vẽ cuối cùng của cuộc đời mình, nhưng chắc chắn một điều khi người hoạ sĩ
ấy vẽ chiếc lá, bức vẽ ấy không nhằm để lưu lại tên tuổi nghệ sĩ với đời. Điều đáng
quan tâm lúc đó là sự sống đã tắt trong tâm hồn một cô gái trẻ, làm thế nào để cô
thôi không bị ám ảnh bởi quy luật lạnh lùng của tạo hoá, để rồi vươn lên giữa cuộc
đời bằng chính sức sống tiềm tàng trong tâm hồn cơ. Đó là lúc người hoạ sĩ già ấy
hiểu thấu sứ mạng vinh quang và cao cả của nghệ thuật: Hướng về con người chứ
không phải là nhằm tạo chút danh tiếng hão huyền, nghệ thuật chỉ thật sự bắt đầu
khi sáng tạo của người nghệ sĩ giúp ích cho đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Câu chuyện kết thúc bằng một sự đảo ngược tình huống lần thứ hai. Chiếc lá cuối
cùng là một sự lừa dối, nhưng lại là một sự lừa dối cao cả để đem lại niềm tin vào
sự sống cho con người. Kiệt tác cuối cùng của người họa sĩ già đã được ra đời nằm
ngồi tất cả mọi dự đốn của cơng chúng. Nhưng chiếc lá cuối cùng ấy mãi mãi là
bằng chứng của tấm lòng yêu thương con người. Bởi thế, Chiếc lá cuối cùng sẽ
mãi bất tử với thời gian.


<b>Suy nghĩ về đoạn trích Chiếc lá cuối cùng - Mẫu 3</b>


Chiếc lá cuối cùng là tác phẩm của nhà văn bậc thầy người mĩ, nhà văn o.hen-ri,
người đã được hội nghệ thuật và khoa học ở mĩ lấy tên đặt cho giải thưởng truyện
ngắn hàng năm.



</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Thông qua bức vẽ cuối cùng, gắn liền với sự hi sinh thầm lặng của bơ-men, tác giả
cịn muốn nói tới một vấn đề nữa: mục đích của nghệ thuật. Suốt bốn mươi năm
lao động nghệ thật, bác bơ-men luôn thất bại, chưa bao giò' ngòi bút của bác chạm
tới tà áo của nữ thần nghệ thuật. Tấm vải chờ đợi bức vẽ kiệt tác của bác từ hai
mươi lăm năm nay vẫn trống trơn ỏ' góc buồng. Nhưng đến khi khơng định làm
nghệ thuật, nhưng vì mục đích giành lại sự sống cho một người, bác đã hoàn thành
bức tranh kiệt tác của mình trong một hồn cảnh khắc nghiệt: đêm đơng, gió lạnh,
tuyết rơi, một mình với chiếc đèn bão trên một chiếc thang chênh vênh. Tác phẩm
của bác tuy chỉ là một chiếc lá thường xuân bình thường nhưng lại trở nên bất tử
vì nó hiện hình trong sự sống của một con người (cơ xiu) và biết đâu, nó là sự
sống của một tài năng.


Cốt truyện của chiếc lá cuối cùng đơn giản. Câu chuyện sống được với thời gian
khơng chỉ vì ý nghĩa nhân bản sâu sắc của nó mà cịn vì ngịi bút dựng truyện,
khắc họa nhân vật đầy tài năng của tác giả. Về mặt kết cấu, ông đã sử dụng thành
công thủ pháp đảo lộn tình thế hai lần một cách đột ngột, bất ngờ để hấp dẫn
người đọc. Lần thứ nhất là khi giôn-xi đi đến trạng thái tuyệt vọng, bng thả mọi
ý chí, phó mặc cho thần chết đưa lưỡi hái cắt đứt đời mình. Cơ đã tâm niệm một ý
nghĩ tuyệt vọng: "trên cây thường xuân, khi nào chiếc lá cuối cùng rụng thì em
cũng ra đi thơi. Em biết điều đó đã ba ngày nay rồi". Ba lần liền cô nhắc lại suy
nghĩ này. Nghe lời khuyên của xiu, giôn-xi trả lời "em đợi mãi ngán lắm rồi, em
nghĩ mãi mệt lắm rồi. Em muốn buông trôi hết thảy và dong buồm xi dịng như
một trong những chiếc lá mệt mỏi và tội nghiệp kia". Người đọc cảm thấy nghẹt
thở tưởng như vô phương cứu chữa trước một con người không cịn chút hi vọng
nào vào cuộc sống. Nhưng kì diệu thay, chiếc lá cuối cùng lại khơng rụng. Nó cịn
đó mãi mãi như sự bất tử của cuộc đời. Giôn-xi lấy lại được lịng tin u vào cuộc
sống. Cơ bình phục dần.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

chuyện của xiu làm cho cả giôn-xi và người đọc sống lại một sự kiện bi tráng.
Chiếc lá cuối cùng thật đã rụng. Còn lại mãi mãi trên tường là chiếc lá của tình


thương yêu, là lòng yêu mến cuộc sống cháy bỏng của người họa sĩ già. Sự bất
ngờ này đưa bơ-men thành nhân vật quan trọng nhất thể hiện sâu đậm chủ đề của
truyện.


Đọc truyện, em thấy cảm phục tình bạn của Xiu với Giôn-xi của bác Bơ-men. Em
đâu ngờ đằng sau vẻ khắc khổ, thói nát rượu, bơ-men lại có tấm lịng thương yêu
con người mãnh liệt đến như vậy. Bác đã tìm ra phương thuốc thần diệu để thắp
lên trong lịng giơn-xi ngọn lửa yêu đời quyết giành lại cuộc sống với tử thần. Bác
đã chết nhưng em thấy bác như còn đang sống. Đó là một vị thánh thần khốc bên
ngồi dáng vẻ khắc khổ. Gấp trang sách lại, em mãi mãi nhớ tới bức thông điệp
màu xanh kêu gọi sự thương yêu giữa con người với con người, kêu gọi nghệ thuật
hướng về con người.


<b>Bài văn mẫu lớp 9 bài viết số 7 đề 4</b>



<b>Đề 4: Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ Mây và Sóng của Ta-go.</b>
<b>Dàn ý vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa trong bài Mây và Sóng</b>


<b>I. Mở bài:</b>giới thiệu về bài thơ Mây và Sóng
Ví dụ:


Nói đến tình mẹ, một tình cảm thiêng liêng ln được mọi thế hệ con người và
nhân loại tơn kính và thể hiện trong cuộc sống. đối với các nhà thơ, nhà văn thì
tình mẹ con được thể hiện một cách rất sâu sắc và rõ ràng, được thể hiện một cách
rất tình cảm. một trong những cách thể hiện rõ nhất là sáng tác và viết ra những tác
phẩm hay về tình mẹ, một tác phẩm được nhiều người biết đến là Mây và Sóng
của tác giả R.Ta-go. Tác phẩm nói về tình mẫu tử qua những hình ảnh và sự tưởng
tượng của người con kể cho mẹ nghe.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Những lời ca rất du dương và bất tận


Lời mời gọi rất cuốn hút và lôi cuốn


2. Lời từ chối của người con:Rất dịu dàng và rất dễ thương
Bởi vì rời xa mẹ nên đứa bé khơng đồng ý đi chơi cùng
Qua đó thể hiện tình yêu thương mẹ da diết và nồng nàn
Chính vì thế mà thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng


<b>III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài</b>
thơ Mây và sóng


<b>Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa trong bài Mây và Sóng - Mẫu 1</b>


Ta-go là nhà thơ nổi tiếng Ấn Độ Ông là người châu Á đầu tiên được giải nô ben
văn học. Gia tài ông để lại vơ cùng đồ sộ và phong phú. Trong đó bài thơ mây và
sóng được xem là một kiệt tác được in bằng tiếng anh trong tập in măng non.
Bài thơ gồm có 2 phần đó là rủ rê em bé sống trên mây và rủ rê em bé sống trên
sóng. Qua đó thể hiện được vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa sâu sắc của bài thơ. Đây
là bài thơ trữ tình nó như một khúc hát đồng dao và qua đây ta bắt gặp câu chuyện
kể của em bé đối với mẹ về người trên mây và người trên sóng đã mời mọc rủ rê
em bé đi chơi.


Trước hết là lời của người trên mây: "Bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho đến lúc
chiều tà. Bọn tớ chơi với bình minh vàng bọn tớ chơi với vầng trăng bạc"


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

thường chỉ gặp trong truyện cổ tích hay nó chỉ ở trong mơ của trẻ thơ. Lời rủ đầy
hấp dẫn của mây có phải chăng là ước muốn của trẻ em được đi đến tận cùng trái
đất được bay bổng lên trời được khám phá thiên nhiên đầy bí ẩn. Qua những vần
thơ ta thấy Tago phải là nhà thơ rất yêu thiên nhiên rất yêu trẻ em và có tâm hồn
rất trẻ thì mới thể hiện được những ước mơ diệu kì đến như vậy. Thơ Tago là bài
ca về tình nhân ái thể hiện khát vọng hạnh phúc tự do. Khơng chỉ có vậy em bé


khơng chỉ có ước mơ được bay lên tận cùng trái đất mà muốn chu du khắp đại
dương. Lời rủ của người sống trên sóng cịn hấp dẫn hơn: Bọn tớ ca hát từ sáng
sớm cho đến hồng hơn. Bọn tớ ngao du nơi này nơi nọ mà không biết từng đến
nơi nào. "Ta hình dung em bé đang đứng trước bờ biển đại dương với em bé là vô
cùng bao la vô tận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Cả bài thơ cho ta thấy sự giao cảm thần tiên của em bé với thiên nhiên tuyệt đẹp.
Cả bài thơ ta thấy được bức tranh về thiên nhiên. Cả bài thơ ta thấy được sự sáng
tạo của em bé trong trò chơi để vừa được chơi vừa được gần mẹ. Từ vẻ đẹp mộng
mơ ấy bài thơ đã có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Trước hết là tác giả đã ca ngợi
tình mẹ bao la vĩ đại. Nét độc đáo thứ 2 là Tago đã dẫn ta đến thế giới thần tiên
với những ước mơ bay bổng kì diệu với tuổi thơ


<b>Vẻ đẹp mộng mơ và ý nghĩa trong bài Mây và Sóng - Mẫu 2</b>


Ta-Go là nhà thơ hiện đại lớn nhất Ân Độ. Những tác phẩm của ông mang đến cho
người đọc những cảm xúc sâu sắc mãnh liệt bởi một phần đã được trải nghiệm qua
những trải nghiệm của chính cuộc đời nhà thơ. Ơng có một sức sáng tọa phi
thường minh chứng là ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và có tầm ảnh
hưởng khá lớn dối với thời đại. Ông là nhà văn Châu Á đầu tiên được nhận giải
thưởng Nô ben về văn học. Đặc biệt khi mà viết về thơ thì ơng lại ln hướng đến
khai thác tình mẫu tử thiêng liêng và chính điều này đã mang đến cho ơng những
thành tựu sâu sắc. Trong số đó thì bài thơ mây và sóng cũng là một tác phẩm điển
hình trong những tác phẩm viết về tình mẫu tử của nhà thơ. Bài thơ in trong tập
thơ non là một kiệt tác; là bài ca về tình nhân ái là ước mơ và hạnh phúc tự do của
con người là tình mẫu tử thiêng liêng.


Bài thơ là một câu chuyện về một cậu bé trước lời mời gọi của mây và sóng mẹ bé
muốn đi chơi muốn được hịa mình vào biển vào sóng vào mây cúng các bạn cùng
trang lứa để được đi chơi nhưng trước tình cảm yêu thương của mẹ dành cho mình


nên em bé đa nghĩ ra những trị chơi để có thể mãi mãi được ở bên cạnh mẹ và để
quên di sự cám dỗ bên ngồi kia. Qua những trị chơi mà em bé nghĩ ra ta thấm
được tình cảm mẫu tử thiêng liêng và cao cả. Bài thơ dậy cho người đọc một triết
lý sống cao đẹp và hướng con người đến một tình cảm thiêng liêng và hãy q
trọng nó đừng để đánh mất để rồi hối tiếc. Mở đầu bài thơ là lời mách của em bé
về những thứ thú vị trên trời đang mời gọi em bé và có lẽ em đang rất muốn đi
theo lời mời gọi ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<i>Bọn tớ chơi đùa từ khi thức dậy đến chiều tà</i>
<i>Bọn tớ chơi đùa với buổi sớm mai vàng</i>


Bọn tớ chơi với vầng trăng bạc


<i>Những con sóng kia cũng đang rủ rê con</i>


<i>Những người sống trong sóng nước gọi con:</i>
<i>"bọn tớ hát từ sớm mai đến tối,”</i>
<i>"bọn tớ hát từ sớm mai đến tối,”</i>
<i>Bọn tớ ngao du khắp nơi này đến nơi nọ</i>
<i>"mà khơng biết mình đã từng qua những nơi nào".</i>


Qua lời miêu tả dễ thương của em bé ta có thể cảm nhận được những lời mời gọi
rất cuốn hút và lôi cuốn đối với cả một người lớn cũng dễ bị thu hút còn đối với
một đứa trẻ thì nó lại càng thu hút hơn khi mà các bé đang ở tuổi tị mị ln thích
khám phá mọi thứ xung quanh. Nào là đến với thế giới ấy sẽ được thỏa sức chơi cả
ngày từ khi thức dậy đến lúc chiều tà nào là chơi với «buổi sớm mai vàng» nào là
chơi với «vầng trăng bạc» nào là được hát từ sáng sớm đến tối được ngao du khắp
thiên hạ thật là thích khi mà được đến với thế giới đó. Những câu thơ nhí nhảnh
cho thấy trí tưởng tượng phong phú và thật là dễ thương của em bé. Chắc có lẽ lúc
này em đang ngước lên bầu trời trong xanh và nhìn những đám mây trắng đang


nhởn nhơ và suy nghĩ một cách hết sức trẻ con. Cuộc sống thật tự do và tự tại khi
được chơi đùa với các bạn cả ngày mà khơng chán. Trên đó chắc hẳn sẽ có tất cả
mọi thứ nhưng mà chắc chắn sẽ khơng có mẹ. Điều đó sẽ thật đáng sợ và chán biết
bao nếu cuộc vui chơi lại khơng có mẹ. Dường như nhớ ra điều đó nên từ những
lời mời gọi đầu tiên em bé đã nghĩ ngay đến mẹ và kể cho mẹ nghe những thứ
xung quanh thật hấp dẫn đang mời gọi con và con cũng muốn đi vói họ. Nhưng là
sao mà lên đó được nên cậu bé do dự.


<i>Con hỏi: Nhưng làm thế nào mình lên đó được</i>


<i>Họ đáp: Hãy đến nơi tận cùng của trái đất và đưa tay lên trời cậu sẽ được nhấc</i>
<i>bổng lên tận tầng mây</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

<i>Làm sao tơi có thể bỏ mẹ tơi mà đi được?"</i>
<i>Thế là họ cười rồi bay đi</i>


<i>Cịn với sóng thì em bé cũng trả lời tương tự như thế</i>
<i>Con hỏi: "Nhưng tôi làm sao gặp được các người?"</i>
<i>Họ bảo con: "Hãy đến chỗ gần sát biển</i>


<i>và đứng đó, nhắm nghiền mắt lại,</i>
<i>là em sẽ được đưa lên trên làn sóng</i>


<i>con hỏi "Làm sao tơi có thể bỏ mẹ tôi mà đi được</i>
<i>Thế là họ mỉm cười rồi bay đi</i>


Những lời mời gọi thật là thu hút một cậu bé nhưng mà để đến được với nó kì thực
cũng rất gian lao làm sao khi mà phải tìm đến tận cùng của trái đất mà đối với một
cậu bé thì biết đâu là tận cùng của trái đất hay biết bờ biển là ở đâu. Suy nghĩ một
lúc cậu bé băn khoăn và đưa ra câu trả lời là mẹ em đang đợi ở nhà và mẹ luôn


muốn em ở nhà với mẹ. Khi đó họ cũng cười rồi bay đi. Dường như những đám
mây trong tưởng tượng của cậu bé cũng biết được câu trả lời của cậu mà cười rồi
bay đi luôn chứ không nài nỉ hay níu kéo gì. Dường như những thử thách càng lớn
thì lịng u mẹ của chú bé lại càng được chứng minh, được củng cố. Như vậy,
việc nêu ra sự việc thứ hai (cũng là thử thách thứ hai) càng chứng tỏ tình yêu tha
thiết của chú bé đối với mẹ. Trong trường hợp này, khổ thơ thứ hai có tác động
trùng điệp, hơ ứng, khẳng định những tình cảm đã được thể hiện trong thử thách
thứ nhất.


Trong cả hai lần, khi những người bạn đến rủ rê, chú bé đều hỏi lại:


<i>"Con hỏi: Nhưng làm thế nào mình lên đó được?".</i>
<i>"Con hỏi: Nhưng làm thế nào mình ra ngồi đó được?".</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

bé đã nhất định từ chối những lời rủ rê dù những trò chơi ấy hấp dẫn đến đâu
chăng nữa.


Trước những lời mời gọi ấy cậu bé đã nghĩ đến mẹ và dứt khoát từ chối. Để quên
đi những lời mời gọi ấy cậu bé đã nghĩ ra những trị chơi chỉ có mình và mẹ.


<i>"Nhưng con biết một trị chơi thích hơn trị ấy, mẹ ơi.</i>
<i>Con sẽ là mây và mẹ sẽ là trăng.</i>


<i>Con sẽ lấy hai tay trùm lên người mẹ,</i>
<i>Và mái nhà sẽ là bầu trời xanh thẳm."</i>


Con đối với lời mời của biển thì em bè cũng có một trị chơi thú vị khác


<i>"Nhưng con biết một trò chơi hay hơn trò ấy</i>
<i>Con sẽ là sóng, mẹ sẽ là một bờ biển lạ lùng.</i>


<i>Con sẽ lăn, lăn, và vỗ vào gối mẹ, cười vang.</i>


<i>Và không một ai trên cõi đời này biết nơi đâu mẹ con ta đang ở"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

mạch chảy liên tục của những dịng "thơ văn xi" cứ ánh lên theo khúc nhạc
miên viễn của Mây và Sóng – sản phẩm tưởng tượng đặc sắc của Ta-go.


Khơng có biển thì làm sao có sóng cũng như khơng có mẹ thì làm sao có con.
Khơng có bến bờ thì sóng vỗ vào đâu cũng như khơng có mẹ thì cuộc đời con có ý
nghĩa gì. Lịng mẹ bao dung như bến bờ ln ln rộng mở. Hình ảnh bến bờ rộng
mở lăn mãi rồi sẽ cười vỡ tan được ví như hình ảnh người mẹ ln vỗ về con thơ.
Mẹ mang đến hạnh phúc cho con và chỗ dựa cho cuộc đời con. Tình mẹ con trong
bài tơ thật sâu đậm và đó cũng chính là vẻ đẹp vĩnh hằng của tình mẫu tử. Dù thế
gian có như thế nào thì tình mẹ con vẫn mãi mn đời vẫn tồn tại theo thời gian
vẫn hiển hiện trong không gian rộng lớn và mãi mãi bất diệt. Đó chính là ý nghĩa
chủ đạo của bài thơ


Với hình thức đối thoại và độc thoại độc lập của cậu bé đã cho ta thấy tình cảm
thiêng liêng và sâu sắc của tình cảm mẹ con. Bài thơ còn cho ta nhiều suy ngẫm
bởi trong cuộc sống con người thường gặp những cám dỗ nhất là đối với một đứa
trẻ và muốn khước từ chúng thì cần có một điểm tựa vững chắc và ở đây điểm tựa
của em bé chính là mẹ đó chính là điểm tựa vững chắc nhất. Hạnh phúc khơng ở
đâu xa khơng phải là điều gì bí ẩn mà đó ở ngay bên chúng ta và do chúng ta tạo
nên.


<b>Bài văn mẫu lớp 9 bài viết số 7 đề 5</b>



<b>Đề 5: Bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh.</b>


<b>Bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh - Mẫu 1</b>



Tinh thần lạc quan, ung dung tự tại trong mọi hoàn cảnh sống là nét đặc điểm nổi
bật trong tính cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tinh thần đó đã trở thành một vũ
khí để chiến đâu và chiến thắng mọi gian khó và kẻ thù. Thơ tức là người, thơ Bác
thể hiện rõ phẩm chất cách mạng cao quý của người chiến sĩ cộng sản kiên trung.
Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" được sáng tác tháng 2 năm 1941 ở núi rừng Pác Bó là
một trong rất nhiều bài thơ mang đậm phong cách ấy của Bác:


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

<i>Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng</i>
<i>Cuộc đời cách mạng thật là sang!</i>


Thời gian này Bác về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam.
Trong điều kiện sống rất kham khổ: "Cháo bẹ rau măng", làm việc thiếu thốn "bàn
đá chông chênh", bài thơ tràn ngập niềm vui và dí dỏm của một con người biết
vượt lên hoàn cảnh để hướng tới một mục tiêu cao cả, đó là sự nghiệp giải phóng
dân tộc.


Mở đầu bài thơ tứ tuyệt, Bác viết:


<i>Sáng ra bờ suối, tối vào hang.</i>


Câu thơ gọn gàng, súc tích, chỉ có bảy chữ mà có cả thời gian, hành động. Thời
gian là "sáng", "tối", không gian là "bờ suối", "hang" và trên nền của thời gian,
không gian ấy xuất hiện bóng dáng của một người đang miệt mài làm việc. Cái từ
ngữ chỉ hành động "sáng ra", "tối vào" gợi cho ta sự liên tưởng ấy. Điểm sáng của
câu thơ ở chỗ tác giả rất chú ý đến trật tự của hai vế câu. Nếu nói: "Tối vào hang,
sáng ra bờ suối" thì trật tự này tạo nên giá trị biểu nghĩa khác. Chất lạc quan vốn là
bản tính của con người gang thép ấy nên trật tự tất yếu của câu thơ phải là:


<i>Sáng ra bờ suối, tối vào hang.</i>



Với trật tự này, cảnh như vận động, không đứng n, theo quy luật tuần hồn của
thời gian. Vì vậy, ta không lấy làm lạ khi bắt gặp thái độ "vẫn sẵn sàng" của Bác ở
câu thơ kế tiếp:


<i>Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.</i>


Thơ nói về một khí phách, một thái độ, một nhân sinh quan mà lời thơ vẫn dung dị
như lời nói hàng ngày. Đặc điểm của thơ tứ tuyệt là câu, chữ hết sức tiết kiệm và
một bài thơ hay đã bật lên được "chữ thần". Cụm từ "vẫn sẵn sàng" là điểm sáng
của bài thơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

thơ "Pha trị", "Ghẻ", "Dây trói"... trong "Nhật kí trong tù" là thái độ ung dung tự
tại trước những hồn cảnh khắc nghiệt với lời thơ hóm hỉnh bất ngờ.


Khác với người xưa: "An bần lạc đạo", Bác Hồ là con người lao động, luôn luôn
hành động vì một lí tưởng cao cả:


<i>Bàn đá chơng chênh dịch sử Đảng.</i>


Làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn những tiện nghi cần thiết, mượn đá làm bàn,
bàn đá lại "chông chênh", chi tiết vui, ngộ và đó là một sự vật. Trong cách nhìn sự
vật. Bác thường phát hiện những chi tiết ngộ nghĩnh, điều đó biểu hiện một tâm
hồn lạc quan.


Bài thơ kết thúc:


<i>Cuộc đời cách mạng thật là sang!</i>


Ngơn ngữ thơ bình dị mà ý thơ thì lớn lao. Nếu điểm sáng của hai câu thơ đầu là


thái độ "vẫn sẵn sàng" thì sức nặng của bài thơ được dồn vào câu kết, đặc biệt với
cụm từ "thật là sang!". Đây cũng là một cách nói vui, nói quá lên, chất hài hước đó
ta thường gặp trong thơ và trong cuộc sống đời thường của Bác. Chất hài hước này
làm cho bài thơ gợi lên niềm lạc quan cách mạng sáng ngời.


Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" là một bài thơ giản dị mà sâu sắc. Bài thơ thể hiện một
đạo lí sống cao đẹp nhưng lời thơ tự nhiên, không một chút vẽ vời hoa mĩ. Giọng
điệu thơ rất gần với cách nói hàng ngày, ta có cảm giác Bác khơng cố ý làm bài
thơ nhưng nó cứ đọng lại mãi trong tâm trí ta, sức sống lâu bền của bài thơ chính
là chỗ đó.


<b>Bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh - Mẫu 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Đến với bài thơ ta đã nhận thấy một sự vô tư từ ngay trong cách diễn đạt:


<i>“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”</i>


Nhịp thơ 3/3 với dấu phẩy ở giữa dòng chia câu thơ làm hai vế cân xứng như là
một lời kể tự nhiên về nhịp sống thường ngày của Bác nơi núi rừng Pác- bó. Hoạt
động và sinh sống ở nước ngoài nhiều năm, Bác vốn đã quen với một nếp sống có
kỉ luật, ở tại hang Pác- bó cũng vậy, Bác sinh hoạt và làm việc điều độ theo thời
gian phân bố. Sáng thì ra suối, để sinh hoạt, để làm việc rồi đến tối trở về hang để
nghỉ ngơi. Bác sinh hoạt có nề nếp và đồng thời ăn uống cũng đạm bạc:


<i>“Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”</i>


Hai từ “sẵn sàng” thốt lên nghe thì có vẻ như gợi ra một sự đủ đầy, muốn là có
ngay mà khơng hề thiếu thốn một điều gì. Nhưng thực chất, bữa cơm hàng ngày
của người chỉ có bẹ chuối và măng rừng, những thức rất đỗi là giản dị, nếu không
muốn gọi là kham khổ. Ở nơi núi rừng Pác- bó này khơng thể tìm đâu ra một thứ


gì tốt hơn là cháo bẹ, là rau măng, điều này đã chính tỏ Bác đang phải làm việc và
sinh hoạt trong một hồn cảnh vơ cùng thiếu thốn, ăn uống chỉ có thể gọi là đủ no.
Nhưng những khó khăn ấy lại được Hồ Chủ Tịch thốt lên bằng giọng nhẹ nhàng
sảng khoái chứng tỏ, Bác đối với những khó khăn vật chất tầm thường đều không
coi là quan trọng. Đối với Bác, việc quan trọng nhất lúc này là dân, là nước, là
đánh đuổi quân xâm lược:


<i>“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

những những khó khăn về vật chất, những điều quan trọng phải làm, Bác Hồ đã
kết thúc bài thơ:


<i>“Cuộc đời cách mạng thật là sang”</i>


Chỉ một từ “sang” làm cho tư tưởng bải thơ vụt sáng. Phải chăng người đọc thắc
mắc vì sao Bác gọi cuộc đời cách mạng gian khổ là “sang”. Cái sang ở đây không
phải là cái sang về vật chất mà mà giàu có về rất nhiều điều khác. “Sang” là ở một
cuộc sống hòa mình với thiên nhiên, tuy khơng xa hoa nhưng giản dị, hòa hợp với
thiên nhiên khiến cho tâm hồn tươi tắn thanh thản. “Sang” ở đây là một tấm lòng
hạnh phúc khi được hoạt động và làm việc vì nhân dân, vì đất nước, làm cơng việc
có ý nghĩa cho cuộc đời. “Sang” ở đây là tuy thiếu về vật chất nhưng tinh thần thì
ln tràn trề đủ đầy một niềm lạc quan vào ngày giải phóng dân tộc đang dần tới.
Với lời thơ giản dị, tự nhiên, giọng thơ sảng khoái mang đầy tinh thần lạc quan,
Hồ Chủ Tịch đã cho ta thấy cái “thú lâm tuyền” của Người nhưng không phải là
cái thú vui của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm năm xưa “lánh đục về trong”
mà là sự tạo nhã, hòa hợp với thiên nhiên ngay trong cuộc đời người lính. Ở Hồ
Chí Minh, niềm vui hịa hợp với thiên nhiên vẫn gắn với cuộc đời cách mạng, cuộc
đời hoạt động sơi nổi khơng ngừng nghỉ vì dân vì nước.


Bài thơ là sự diễn tả những hoạt động thường nhật của Bác Hồ trong những ngày


hoạt động ách mạng ở hang Pác- bó, Cao Bằng. Qua bài thơ, hình ảnh Bác Hồ
trong lịng người đọc càng thêm đẹp, thêm sáng lấp lánh trong sự giản dị, lạc quan,
tình yêu thiên nhiên sâu sắc, tinh thần cách mạng và tài năng thơ ca tuyệt diệu.
Nhân cách cao khiến của Người còn sáng mãi trong lòng mọi con dân nước Việt.


<b>Bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh - Mẫu 3</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

viết trong khoảng thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, nhà
thi sĩ ấy đã từng bộc bạch:


<i>“Ngâm thơ ta vốn không ham”.</i>


Con người ấy chưa một lần nhận mình là thi sĩ. Bác chỉ khẳng định tình yêu đối
với văn nghệ nói chung và văn chương nói riêng. Nhưng Người cha già dân tộc
chưa một lần nhận mình là thi sĩ ấy đã để lại cho nền Văn học Việt Nam cả một
gia tài quý báu. Một trong số đó, bài thơ “ Tức cảnh Pác Bó” để lại trong lịng
người đọc những ấn tượng sâu sắc.


Tháng Hai năm 1941, sau ba mươi năm bơn ba hoạt động ở nước ngồi, Bác Hồ
đã về nước để trực tiếp lãnh đạo cuộc cách mạng của dân tộc. Người sống trong
hang Pác Bó- một hang núi nhỏ sát với biên giới Việt- Trung. Trước cửa hang, có
một phiến đá gồ ghề được Bác chọn làm nơi ngồi dịch sử Đảng bên một con suối
trong vắt được Người đặt tên là suối Lê-nin. Tại đây, Bác Hồ viết bài thơ “Tức
cảnh Pác Bó” để nói về cuộc sống kham khó những ngày đầu của cuộc kháng
chiến dai dẳng đánh đuổi thực dân xâm lược, đồng thời thể hiện một tinh thần lạc
quang thông qua nhãn quang của người chiến sĩ Cách mạng.


Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Câu thơ mở đầu gợi
hình dung về cuộc sống sinh hoạt và làm việc của Bác tại hang Pác Bó (Cao Bằng):



<i>“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

<i>“Trong tù không rượu cũng không hoa</i>
<i>Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ</i>
<i>Người ngắm trăng soi ngồi cửa sổ</i>
<i>Trăng nhịm khe cửa ngắm nhà thơ.”</i>


Nếu như câu thơ thứ nhất giới thiệu khái quát về cuộc sống tại hang Pác Bó – Cao
Bằng thì câu thơ thứ hai tiếp tục làm rõ về những ngày sáng sống giản dị và có
phần khó khăn ấy:


<i>“Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”</i>


Câu thơ hoàn toàn được thêu dệt bằng bút pháp tả thực. Đó là những món ăn hàng
ngày của Bác ở rừng Pác Bó. Cách diễn đạt của nhà thi sĩ ấy rất hóm hỉnh, làm cho
câu thơ ánh lên nét cười. Cháo bẹ, rau măng là những món ăn nghèo đạm bạc
nhưng chứa chan tình cảm bởi đó là những thức ăn do thiên nhiên ban tặng và
người dân cung cấp. Thưởng thức cháo bẹ, rau măng là niềm vui của người chiến
sĩ cách mạng ln biết sống gắn bó với thiên nhiên, với nhân dân. Qua đó có thể
thấy Bác Hồ là một người có tình u thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết và coi
thường mọi khó khăn gian khổ. Có phải vì thế mà sau này, Người đã răn dạy thế
hệ sau:


<i>“Khơng có việc gì khó</i>
<i>Chỉ sợ lịng khơng bền</i>
<i>Đào núi vè lấp biển</i>
<i>Quyết chí ắt làm nên”?</i>


Câu thơ thứ nhất và câu thơ thứ hai nói về cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của
Người chiến sĩ cách mạng để rồi đến câu thơ thứ ba, Bác viết về những công việc


trong công cuộc hoạt động cách mạng của mình:


<i>“ Bàn đá chơng chênh dịch sử Đảng”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

trong vắt được Bác đặt tên là suối Lê-nin. Có thể thấy cuộc sống sinh hoạt đã đạm
bạc, nghèo khó, cuộc sống làm việc lại càng thiếu thốn hơn. Bác Hồ hiện lên vừa
như một người khách lâm tuyền, vừa là một chiến sĩ cách mạng vĩ đại.


Bài thơ kết lại với câu thơ nêu cảm nghĩ của Bác về cuộc đời Cách mạng:


<i>“ Cuộc đời cách mạng thật là sang”</i>


Câu thơ được viết bằng kiểu câu cảm thán dùng để khẳng định: cuộc đời cách
mạng sang. “ Sang” là sự giàu có, là tinh thần của một tâm hồn ln tìm thấy sự
thư thái giữa thiên nhiên. “ Sang” cũng cịn là sự sang trọng, giàu có của một con
người ln tự thấy mình sống có ích cho cách mạng, cho nhân dân.


Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn, giọng thơ gần gũi, ngôn ngữ thơ giản dị, “ Tức
cảnh Pác Bó” như một bức tranh tốc kí với những đường nét rất đỗi thanh sơ, chất
phác và mộc mạc về cuộc sống sinh hoạt và làm việc của vị lãnh tụ vĩ đại nói riêng
cũng như những chiến sĩ cách mạng nói riêng những năm đầu cuộc kháng chiến
đầy gian nan và thử thách. Từ đó giúp cho thế hệ sau hiểu hơn về giá trị của sự
sống hịa bình mà ngày nay ta đang có, biết sống và học tập để trở thành người có
ích cho xã hội, góp phần dựng xây và gìn giữ quê hương đất nước.


<b>Bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh - Mẫu 4</b>


Tức cảnh Pác Bó là một trong những bài thơ tứ tuyệt tiêu biểu cho phong cách thơ
Hồ Chí Minh. Bài thơ thể hiện niềm vui, niềm tin mãnh liệt và nghị lực phi thường
của Bác trong hoàn cảnh sống và làm việc giữa núi rừng Việt Bắc, sau mấy chục


năm trời xa cách đất nước và dân tộc.


Trong ba câu thơ đầu bài thơ, Bác nhắc đến điều kiện ở - ăn - làm việc của mình.
Ăn và ở là hai nhu cầu tất yếu của con người. Và riêng Bác, khi nói đến đời sống
sinh hoạt của mình, Người ln đề cập thêm vấn đề công việc. Ấy bởi Bác là
người luôn luôn làm việc, suốt đời lo cho dân, cho nước. Điều đó cho thấy tấm
lịng của Bác vĩ đại đến nhường nào:


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

Câu thơ đầu nói về nơi ở của người chiến sĩ. Nhịp thơ 4/3 tạo thành hai vế sóng
đơi. Câu thơ tốt lên một cảm giác về sự nhịp nhàng, nề nếp: sáng ra, tối vào.
Không gian: suối – hang, thời gian: sáng – tối, hoạt động: vào – ra. Nghệ thuật đối
làm nổi bật không gian hoang sơ, khó khăn, nếp sống hài hịa, gắn bó với thiên
nhiên của Bác. Giọng điệu cấu thơ rất thoải mái cho thấy sự ung dung, sự hòa nhịp
của Bác Hồ với núi rừng nơi đây. Cuộc sống đều đặn với khung cảnh bờ suối bình
dị, với nơi ở là hang tối. Khơng chỉ khó khăn về nơi ở, đồ ăn uống của Bác cũng
rất hạn chế. Đó chỉ là những thứ rất dân dã, sẵn có của núi rừng như cháo bẹ, rau
măng: "Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng". Câu thơ sử dụng nghệ thuật liệt kê, tái
hiện chân thật cuộc sống của người chiến sĩ Cách mạng. Giọng thơ đùa vui, hóm
hỉnh; câu thơ vẫn tiếp tục mạch cảm xúc hòa nhịp với cuộc sống núi rừng. Cuộc
sống nơi đây nhiều gian khổ, khó khăn nhưng Người ln vui thích, bằng lịng với
cuộc sống ấy. Thậm chí Người cịn cảm thấy rất thoải mái, rất sảng khối.


Niềm vui ấy đã làm cho Bác say mê làm việc, say mê trong bước đường hoạt động
và lãnh đạo kháng chiến:


<i>"Bàn đá chơng chênh dịch sử Đảng"</i>


Đây là hình tượng trung tâm của bài thơ. Cuộc sống giữa núi rừng thật gian khổ,
vất vả, thiếu thốn. Nơi làm việc cũng khơng lấy gì thoải mái vì bàn đá chơng
chênh, nhưng dáng điệu của Bác vẫn lồng lộng đường hoàng. Bác say mê với công


việc, tập trung cao độ vào công việc mà chẳng hề quan tâm đến vật chất quanh
mình. Từ láy chơng chênh vừa tạo hình, vừa gợi cảm. Đó là thế khơng vững chãi
vì khơng có chỗ dựa. Bàn làm việc là tảng đá không chắc chắn nhưng Người vẫn
làm việc say sưa, khỏe khoắn với công việc: dịch sử Đảng, tìm ra đường lối để
thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Phép đối (đối ý, đối thanh) cho thấy
điều kiện làm việc rất đơn sơ nhưng công việc rất lớn lao. Câu thơ mang giọng
điệu mạnh mẽ, khắc họa chân thực, sinh động phong thái ung dung, lạc quan của
người chiến sĩ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

cuộc sống núi rừng ấy, với suối, với hang, với cháo bẹ, với rau măng, với bàn đá.
Cuộc sống đó với Người khơng những khơng nghèo khổ, thiếu thốn mà cịn dư
thừa, sang trọng. Có được điều đó là do tinh thần lạc quan của Bác. Vì thế:


<i>"Cuộc đời cách mạng thật là sang"</i>


"Sang" ở đây là sang trọng, cao sang, nghĩa là rất đầy đủ, cao quý. Sở dĩ Người
cảm thấy nó "thật là sang" bởi vì nó là cuộc đời cách mạng, được cống hiến cho
cách mạng. Với những người cách mạng, nhất là những người dẫn đường như Bác
"Người đi trước ngàn sương mn tuyết. Dắt dìu dân nước Việt Nam ta" (Tố Hữu
- Ba mươi năm đời ta có Đảng) thì khó khăn, gian khổ chỉ là sự trả giá, nói như
Nguyễn Trãi: "Khó khăn thì mặc có màng bao". Thử so sánh hai hồn cảnh sống:
ở Pác Bó Việt Nam và hơn một năm sau đó, gần 30 nhà ngục ở Quảng Tây, Trung
Quốc, điều kiện tinh thần tuy có khác nhau nhưng hồn cảnh sống khơng hơn là
mấy. Nói như thế mà thương Bác vơ cùng, hiểu Bác vô cùng. Trong gian truân,
Người đâu nghĩ đến bản thân mình. Nghĩ đến sự nghiệp của cách mạng, đất nước
mà Người vui, nhất là tin, tin vào thời cơ độc lập đang đến gần. Vì thế "sang"
được coi là nhãn tự của câu thơ và câu thơ được coi là thần cú của bài thơ. Khẩu
khí này khác hẳn với những câu thơ Người viết hơn một năm sau đó trong "Nhật
kí trong tù". Bởi lẽ cái thiếu thốn đọa đày nơi ngục tù với Người là một thứ cực
hình tra tấn, cịn ở bài thơ này, nó lại là một niềm vui, nguồn cảm hứng thi nhân.


"Tức cảnh Pác Bó" là một bài thơ tứ tuyệt rất giản dị nhưng rất hàm súc, ý nghĩa
thật sâu xa. Lời thơ pha giọng vui đùa cho ta thấy tinh thần lạc quan, phong thái
ung dung cả Bác Hồ trong cuộc sống đầy gian khổ ở núi rừng Việt Bắc. Tinh thần
ấy đã giúp Bác vượt qua mọi khó khăn gian khổ để lãnh đạo cách mạng Việt Nạm
giành thắng lợi vẻ vang.


<b>Bài văn mẫu lớp 9 bài viết số 7 đề 6</b>



<b>Đề 6: Trình bày suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy.</b>
<b>Suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng - Mẫu 1</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

lịng ai đó. Một trong số ấy có nhà thơ Nguyễn Duy, qua bài thơ Ánh trăng, ta tiếp
nhận được một bài học sâu sắc: Bài học về cách sống ân tình, ân nghĩa, thủy chung.
Ngày nay hồn cảnh sống có nhiều sự thay đổi, con người cũng dần quên đi quá
khứ. Người và vầng trăng trở nên xa lạ, lạc lõng, nhạt nhẽo trong nghĩa tình (dù
Trăng vẫn ln tràn đầy tình nghĩa). Cuộc sống hiện tại với vật chất, tiện nghi đầy
đủ khiến con người dễ quên đi quá khứ, quên đi những ân tình thấm đẫm đã từng
gắn bó một thời.


Để rồi một ngày chợt nhận ra vầng trăng ngày xưa vẫn còn kia, tròn trĩnh, đong
đầy…Nỗi ân hận của tác giả chợt trào dâng…chẳng phải tấm lịng của vầng trăng
chính là tấm lòng của những con người trước kia đã cưu mang, che chở, chăm sóc
ta hay sao?...Họ chẳng phải chính là nhân dân ta, đồng bào ta, đồng chí, đồng đội
của ta hay sao? Chính họ cũng đã là người sẵn sàng hi sinh cho ta đó sao?...Nay ta
lại trở nên vơ tình đến vậy…


Niềm tâm sự sâu kín của nhà thơ chính là điều ơng muốn nói trong những giờ phút
này, khi những lời ấy chợt trở thành thơ…thì có lẽ ơng đã sửa lại lỗi lầm. Đó là sự
ân hận, sự sám hối của con người ta nhận ra sự bạc bẽo vơ tình của chính mình:



<i>Ngửa mặt lên nhìn mặt</i>
<i>có cái gì rưng rưng</i>


<i>như là đồng là bể</i>
<i>như là sơng là rừng</i>
<i>Trăng cứ trịn vành vạnh</i>


<i>kể chi người vơ tình</i>
<i>ánh trăng im phăng phắc</i>


<i>đủ cho ta giật mình</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

người ta, rồi ta sẽ thấy được trong cái im lặng đó chỉ là cả một khoảng bao la rộng
lượng.


Qúa khứ khi xưa hiện về nguyên vẹn. Trăng – hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy,
viên mãn, thủy chung. “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Trăng vẫn đẹp quá khứ vẫn tỏa
sáng đầy ắp yêu thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng “im phăng phắc”, một
cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng khơng hề trách móc con người quá vô tâm như một
sự khoan dung, độ lượng. “Vầng trăng” dửng dưng không một tiếng động nhưng
lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối. “Ánh trăng” hay chính là quan tịa
lương tâm đang đánh thức một hồn người. Cái “giật mình” của người lính phải
chăng là sự thức tỉnh lương tâm của con người? Chỉ lặng im thôi “vầng trăng” đã
thức tỉnh, đánh thức con người sau một cơn mê dài u tối.


Trăng ở đây đâu chỉ là trăng mà chính là biểu tượng cho những con người giản dị
trong sáng, nghĩa tình. Tấm lịng của vầng trăng chính là tấm lịng của nhân dân,
của đồng bào của đồng đội, người lính là vơ cùng rộng lớn. Luôn luôn bao dung
và tha thứ nên ánh trăng của Nguyễn Duy là một tác phẩm mang tính chất triết lí
thầm kín. Đó là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.



<b>Suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng - Mẫu 2</b>


Trăng một trong những đề tài quen thuộc thường thấy trong thơ ca. Nếu như nhà
thơ Chính Hữu đã tạo nên một hình tượng trăng thật đẹp “đầu súng trăng treo”
trong Đồng chí, thì đến “Ánh trăng” của Nguyễn Duy mang đến một ý nghĩa triết
lí thầm kín. Khổ cuối bài thơ gợi cho người đọc rất nhiều những suy ngẫm. Ánh
trăng như hồi chuông thức tỉnh tâm trí con người về q khứ.


<i>“Trăng cứ trịn vành vạnh</i>
<i>Kể chi người vơ tình</i>
<i>Ánh trăng im phăng phắc</i>


<i>Đủ cho ta giật mình”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt nhà thơ trở về với cuộc sống thành thị
ồn ào. Quen với những thứ ánh điện, cửa gương nên dần đã trở nên “xa lạ” với
người tri kỉ của mình. Cụm từ “người dưng” khiến cho người đọc khơng khỏi xót
xa. Thế rồi đến khi ánh đèn điện vụt tắt bắt gặp sự hiện diện bất ngờ của vầng
trăng người lính như giật mình sống lại với một phần kí ức của mình. Ánh trăng
thình lình xuất hiện khiến người lính trở nên rưng rưng. Những vần thơ cuối càng
khiến người đọc như lắng lại trong suy ngẫm:


<i>“Trăng cứ trịn vành vạnh</i>
<i>Kể chi người vơ tình</i>
<i>Ánh trăng im phăng phắc</i>


<i>Đủ cho ta giật mình”.</i>


Ánh trăng đại diện cho quá khứ, cho những năm tháng chiến đấu đầy cam go, tuổi


thơ đầy thiếu thốn của tác giả. Nay bắt gặp ánh trăng sau bao ngày xa cách trăng
vẫn tròn vành vạnh vẫn nguyên vẹn ban sơ như thưở nào. Đó cũng là đại diện cho
q khứ vẫn trịn vẹn tình nghĩa, vẫn viên mãn thủy chung một lịng. Ánh trăng dù
cho ngàn năm nữa thì vẫn khơng bao giờ thay đổi, mặc cho con người có thể vơ
tình với nó.


Đối diện với ánh trăng đủ đầy viên mãn như thế người thi nhân bỗng trở nên hổ
thẹn không thôi. Ơng tự nhận mình là một kẻ vơ tình. Một kẻ vơ tình với q khứ
với người bạn tri kỉ của mình. Vơ tình ở đây khơng phải là cố tình quên đi những
kỉ niệm thời cơ hàn, quên đi quá khứ mà có thể nó là do những sức ép, những xô
bồ của cuộc đời khiến con người “vô tình” quên đi quá khứ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

Chỉ bằng một ánh trăng nhưng nhà thơ Nguyễn Duy đã làm nên cả một điều mà
tưởng chừng như khơng thể. Đó là sự thức tỉnh lương tâm mãnh liệt một bài học
triết lí đầy suy ngẫm. Ánh trăng vừa là người bạn, vừa là tòa án lương tâm lại vừa
là cội nguồn của mọi sự bao dung nhân từ nhất. Chỉ cần con người cịn có suy nghĩ
cịn biết nhận ra sai lầm thì khơng bao giờ là muộn cả.


Khổ thơ cuối cùng của bài thơ Ánh trăng được coi như một trong những điểm
cộng cho tác phẩm. Nó mang con người đến những triết lí nhân sinh đầy sâu sắc.
Trong cuộc sống sẽ có rất nhiều lúc bạn lãng quên đi quá khứ, lãng quên đi những
thứ đã gắn bó với mình từ thưở hàn vi. Thế nhưng chỉ cần con người cịn có lương
tâm thì khơng cái gì là muộn màng cả. Quá khứ- hiện tại hay tương lai chính là
một sợi dây xuyên suốt trong tâm hồn của mỗi con người.


<b>Suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng - Mẫu 3</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

hồn tồn giải phóng, bài thơ ghi lại chân thực một thống giật mình của thi sĩ
trước vẻ đẹp vầng trăng ân tình. Trong cuộc sống mới, sinh hoạt mới, con người bị
cuốn vào guồng quay của công việc, của cuộc sống mà vô tình quên đi những ân


tình, những kỉ niệm của quá khứ. Nhưng vầng trăng vẫn vậy, tình nghĩa, thủy
chung một lịng, khơng có chút thay đổi. Ý vị xót xa của bài thơ được thể hiện rất
rõ trong toàn bài thơ, đặc biệt là trong khổ thơ cuối của bài.


Trong bài thơ "Ánh trăng", hình ảnh vầng trăng đã trở thành hình ảnh biểu tượng
cho những kí ức, biểu tượng cho quá khứ và vẻ đẹp đời sống bình dị, vĩnh hằng.
Nhắc đến trăng là Nguyễn Duy muốn nhắc đến lối sống ân tình thủy chung. Nếu ở
những khổ thơ trước đó, Nguyễn Duy đã gợi mở ra khoảnh khắc khu phố mất điện,
để rồi giật mình nhìn thấy vầng trăng, bao nhiêu kỉ niệm, hình ảnh quá khứ gắn bó
với trăng cũng như dịng thác lũ ào ào mà đổ về. Hình ảnh quá khứ càng tươi đẹp
bao nhiêu, càng gắn bó bao nhiêu thì nhà thơ càng tự trách mình bấy nhiêu, trách
mình sao lỡ vơ tình mà qn đi, để bây giờ nhớ lại thì trong lịng lại dâng đầy tư vị
của niềm xót xa. Nói về sự thủy chung của ánh trăng, cũng là lời nhắc nhở, kiểm
điểm chính mình, khổ thơ cuối chứa những triết lí ý nghĩa khiến cho độc giả phải
suy ngẫm:


<i>"Trăng cứ trịn vành vạnh</i>
<i>kể chi người vơ tình</i>
<i>ánh trăng im phăng phắc</i>


<i>đủ cho ta giật mình"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

<i>"Trăng cứ trịn vành vạnh"</i>


"Tròn vành vạnh" tả vẻ đẹp vầng trăng thiên nhiên trong sáng, viên mãn. Về cái
nhìn thị giác, trịn vành vạnh là vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên, là cái đẹp không
bao giờ gây nhàm chán, thất vọng với con người. Ngồi nghĩa tả thực, hình ảnh
vầng trăng tròn, lặng lẽ còn biểu tượng cho sự thủy chung, cho tình nghĩa đã từng
có trong những hồi ức. Những hồi ức ấy vẫn mãi "sáng", vẫn mãi tròn trịa, viên
mãn như vậy, khơng hề có chút đổi thay, dù thời gian có trơi qua đi nữa, thì tình


nghĩa của q khứ vẫn cịn đó, khơng hề phai nhạt. Nhưng, sự cảm thán về vầng
trăng chỉ là cách gợi mở để nhà thơ tự trách mình, trách mình lỡ vơ tình, quên đi
những hồi ức tốt đẹp ấy:


<i>"kể chi người vơ tình"</i>


"Người vơ tình" ở đây ta có thể hiểu là sự trách móc mà nhà thơ dành cho chính
bản thân mình. Trách mình sao có thể qn đi những tháng ngày của quá khứ,
quên đi những kỉ niệm của tuổi trẻ. Để bây giờ nhận ra bỗng cảm thấy xót xa, thấy
mình sao thật vơ tình. Sự tự trách của nhà thơ cũng làm cho độc giả cảm nhận một
tâm hồn thật đẹp, đó là vẻ đẹp của nhân cách. Nhà thơ vốn là người trọng tình
nghĩa, song vì nhịp sống mới quá hối hả xô bồ mà nhà văn vơ tình qn đi. Nhưng
đó chỉ là sự lãng quên trong khoảnh khắc, bởi những kỉ niệm đẹp vẫn nằm trong
sâu thẳm trái tim của nhà thơ, vì vậy khi được ánh trăng soi chiếu, nhà thơ mới
xúc động, mới dạt dào tình cảm đến vậy.


<i>"ánh trăng im phăng phắc"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

qua hình ảnh ánh trăng. Con người có thể đổi thay, có thể qn lãng nhưng những
kí ức thì vẫn cịn đó, nó sống cùng thời gian, năm tháng. Để đến một lúc nào đó,
nó sẽ gợi nhắc con người bằng những gì thân thương, gần gũi nhất. Con người chỉ
chấn động khi chợt nhận ra, nghe lời nhắc nhủ, răn dạy trong sự uy nghi, tĩnh lặng
của vầng trăng:


<i>"ánh trăng im phăng phắc</i>
<i>đủ cho ta giật mình"</i>


Bao dung mà nghiêm khắc, nghiêm khắc nhưng khơng lạnh lùng, người bạn tình
nghĩa vầng trăng, ánh trắng khiến con người giật mình và thức tỉnh. "Giật mình" là
cảm giác, là phản xạ tâm lí của người biết suy nghĩ. Nhân vật trữ tình trong bài thơ


giật mình vì chợt nhận ra sự vơ tình, bạc bẽo, nơng nổi trong cách sống của chính
mình. "Giật mình" vì ăn năn, tự vấn; "Giật mình" vì lãng quên năm tháng xưa, bạn
bè gian khổ, đói nghèo mà ân tình, ân nghĩa. Trong dịng thác vận động của cuộc
sống, những cái "giật mình" như vậy mới đáng quý làm sao. Nó hướng con người
đến những giá trị cao đẹp; bảo vệ con người trước những cám dỗ; níu giữ con
người khỏi bị trơi trượt trong lo toan bộn bề của cuộc sống. Câu thơ cuối cất lên
như một lời tự thú, một lời tự trách, một lời tự nhắc của nhà thơ.


Nhà thơ tự trách mình đã q vơ tình, vơ tình vì qn lãng, vơ tình vì đã có những
phút qn đi những ngày tháng, những kỉ niệm, những kí ức ấy. Sự tự trách của
nhà thơ cũng làm cho người đọc phải suy nghĩ, chiêm nghiệm về chính bản thân
mình. Trong cuộc sống con người rất dễ bị cuốn vào nhịp sống hối hả, tấp nập của
cuộc sống mà vơ tình quên đi những thứ bình dị nhưng đã đi sâu vào trong tiềm
thức, đã xây kết thành những kỉ niệm vững chắc mà ta không bao giờ quên. Sự
lãng quên ấy khơng đáng trách nhưng quay lưng lại với kí ức, với những kỉ niệm
thì đó là những hành động thật đáng trách, thật đáng lên án.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

Thái độ, tình cảm với quá khứ chưa xa nhiều hi sinh, mất mát, với những người đã
ngã xuống hôm qua khiến "ánh trăng" nằm trong mạch cảm xúc uống nước nhớ
nguồn, gợi lên đạo lí tình nghĩa, thủy chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam.


<b>Suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng - Mẫu 4</b>


Tác giả đặt nhan đề cho bài thơ là Ánh trăng. Quả thật xuyên suốt tác phẩm là hình
ảnh ánh trăng - vầng trăng của đồng quê, của rừng vàng biển bạc. Vầng trăng ấy
đã theo tác giả từ thủa còn thơ cho đến những năm tháng nhọc nhằn của tâm hồn
con người với vẻ đẹp tuy hoang sơ mà kì diệu. Cao hơn nữa con người và vầng
trăng đã trở thành tri kỉ. Sợi dây gắn bó mối quan hệ bền chặt, với bao nhiêu
chuyển biến của thời gian đến mức nhà thơ phải thốt lên:



<i>Ngỡ không bao giờ qn</i>
<i>Cái vầng trăng tình nghĩa</i>


Nhưng cuộc đời khơng phải là sự kéo dài thẳng tắp của ngày hôm nay khơng phải
bao giờ cũng đi theo dự tính của con người. Cái mà hôm qua chúng ta nâng niu
trân trọng bao nhiêu thì hơm nay rất có thể trở nên thừa thãi vô nghĩa bấy nhiêu.
Quá khứ dù đẹp đẽ đến đâu vẫn cũng là quá khứ, vần có thể bị che khuất bởi
những lo toan dự định với bao khát vọng ước mơ của đời sống thường ngày. Ở đây
tác giả kể lại câu chuyện đầy cay đắng của một vầng trăng bị lãng quên, bị lấn át
bởi “ánh điện cửa gương”. Trong tâm trí con người vầng trăng tri kỉ của những
ngày chưa xa ấy, chua xót thay đã bị trở thành “người dưng qua đường”. Cái ngỡ
thân quen xưa nay trở thành âm thầm xa lạ. Rồi ngay sau đó, nhà thơ tạo nên bước
ngoặt của tác phẩm khi để tình huống bất ngờ “đèn tắt” xảy ra. Lúc đó con người
đối diện với vầng trăng trịn trịa ân tình trong quá khứ chợt họ nhận ra được vẻ đẹp
và giá trị đích thực của ngày xưa ẩn sau sự dịu dàng và bao dung của ánh trăng.
Trên cơ sở đó, tác giả viết khổ cuối, khổ thơ chứa đầy ý nghĩa triết lí sâu sắc của
tồn bài thơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

<i>Ánh trăng im phăng phắc</i>
<i>Đủ cho ta giật mình.</i>


Vầng trăng vẫn cịn đó, trọn vẹn cao thượng đến lạ lùng mặc cho con người có thờ
ơ lạnh nhạt, nó vẫn toả sáng với bao vẻ đẹp tự nhiên thanh bạch. Vầng trăng đó
biểu tượng cho những ngày tháng gian khổ thiếu thốn mà nghĩa tình, cho tấm lòng
của nhân dân yêu thương che chở đùm bọc cách mạng:


Trăng cứ trịn vành vạnh. Những giá trị đích thực của quá khứ, những ân nghĩa
thuỷ chung của một thời oanh liệt - dù đã lùi xa mờ vào dĩ vãng nhưng vẫn trường
tồn cùng thời gian. Sự tròn đầy viên mãn của vầng trăng đặt cạnh sự vô tình của


con người làm tác giả thêm day dứt, hối hận trước tồ án lương tâm. Quả thật
chẳng có tồ án nào xét sự lãng quên của con người, chỉ có lương tri sâu thẳm mới
đánh thức trong chúng ta trách nhiệm đối với quá khứ. Sự cao thượng vị tha của
vầng trăng - bất chấp vơ tình xa lạ - buộc con người phải suy nghĩ lại chính mình.
Bài thơ được sáng tác năm 1978, chỉ ba năm sau ngày tồn thắng của dân tộc. Tại
sao chỉ có ba năm với cuộc sống thị thành, với bộn bề lo toan thường nhật có thể
làm cho người ta lãng quên hơn mười ngàn ngày trong lửa đạn thiếu thôn và sự ấm
áp tình đồng đội, vịng tay che chở của nhân dân? vẫn biết khơng có gì là mãi mãi
trước sức mạnh xói mịn của dịng chảy thời gian nhưng điều đang xảy ra vẫn
khiến nhà thơ phải ngỡ ngàng nhìn lại.


Con người ta lãng qn nhanh q! Cịn vầng trăng nặng lòng toả sáng đêm đêm:


<i>Ánh trăng im phăng phắc</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

hận của con người mà còn gửi gắm bên trong nhiều điều mà nhà thơ mn nói với
cái xã hội đang quay cuồng trong vịng xốy lo toan và mưu tính.


Khơng có q khứ thì sẽ khơng có hiện tại và lại càng khơng có tương lai. Tất cả
những gì chúng ta đang có đều dựa trên thành quả của những ngày đã qua. Tất cả
những gì chúng ta đang làm đều là nối tiếp những điều cha ơng chúng ta và chính
chúng ta đã làm trong quá khứ. Phải trân trọng và giữ gìn quá khứ để có thể hướng
tới tương lai. Phải chăng đó chính là triết lí mà tác giả Nguyễn Duy mn gởi gắm
đến người đọc qua những vần thơ?


Mục đích của nghệ thuật là tác động đến tâm hồn con người và xã hội theo hướng
tốt đẹp hơn. Bài thơ Ánh trăng, với những đặc sắc riêng về nghệ thuật và nội dung,
đã hồn thành tốt nhiệm vụ đó. Khổ cuối bài thơ là sự “giật mình” của con người,
hàm chứa trong đó bao nhiêu triết lí về cuộc sống và cả sự thức tỉnh đến toàn xã
hội chúng ta.



<b>Bài văn mẫu lớp 9 bài viết số 7 đề 7</b>



<b>Đề 7: Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt</b>
<b>Dàn ý hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa</b>


I.<b>Mở bài: Giới thiệu Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt</b>
- Ví dụ:


Trong gia đình, thì mỗi gia đình sẽ có những thành viên khác nhau, có những điểm
nổi bật khác nhau. Có gia đình làm nơng, có gia đình làm giáo viên, có gia đình
làm nhân viên hoặc các nghề khác. Trong gia đình bạn có thể ba, mẹ, ơng bà, cháu,
cậu, chú,…. Mọi người thân trong gia đình là một người bạn khơng thể thiếu trong
cuộc sống của chúng ta, mỗi người có thể đối với ta một cách khác nhau, thể hiện
tình cảm khác nhau. Một tình cảm rất thiêng liêng được thể hiện qua bài thơ Bếp
lửa của nhà thơ Bằng Việt đó là tình bà cháu. Bên cạnh tình bà cháu thiêng liêng
thì bài thơ cịn thể hiện hình ảnh bếp lửa rất nỗi bật.


<b>II. Thân bài: Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt</b>
<b>1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

+ Bếp lửa rất gần gũi, thân thiện


+ Hình ảnh ngọn lửa ảo mộng được nhen nhóm vào lúc sương sớm rất mộng mị
và ảo mộng


+ Hình ảnh bếp lửa rất gần gũi, thân thuộc và gắn bó với tuổi thơ
<b>2. Suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa:</b>


+ ấp iu, nồng đượm


+ niềm yêu thương


+ bếp lửa không thể dập tắt được trong lòng người cháu
+ bếp lửa là nơi ấp ủ tình bà cháu thiêng liêng


<b>III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh bếp lửa</b>


<b>Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa - Mẫu 1</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

nồng đượm một lần nữa làm tỏa sáng, và làm hồng lên toàn bộ cấu tứ trong mạch
cảm xúc của nhà thơ.


Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa trong sương sớm, gắn liền với đôi tay chi chút,
cầ mẫn của người bà nhóm lửa:


<i>“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm</i>
<i>Một bếp lửa ấp iu nồng đượm</i>
<i>Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”</i>


Bếp lửa trờn vờn sương sớm, ấp iu được nhóm lên chắt chiu, cần mẫn và khéo léo
bởi đôi tay gầy guộc, xương xương của người bà trong sớm hôm. Cụm từ “biết
mấy nắng mưa” đã cho thấy sự vất vả, tần tảo, hi sinh sớm hôm của người bà cho
sự đủ đầy, cho đứa cháu ấm lịng.


Khơng chỉ vậy bếp lửa thiêng liêng ấm áp ấy cũng là sự gắn liền với mùi khói hun
nhèm mắt cháu. Bếp lửa ấy gắn liền với cuộc đời khốn khó, cơ cực của hai bà cháu,
chính mùi khói cay đặc đã trở thành mùi vị quen thuộc của ấu thơ mà dù có xa quê,
có đi khắp chân trời góc bể thì nó vẫn hun nhèm mắt cháu, cháu vẫn cứ bồi hồi,
xúc động cay xè khi nhớ về nó. Vậy là bếp lửa khơng chỉ gắn liền với hình ảnh
người bà ấp iu, chi chút mà còn là mạch dẫn để tác giả gợi nhớ về tuổi thơ, về


những gì cay đắng, cơ cực mà yên ấm trong vòng tay yêu thương, chi chút của
người bà. Nhớ bà, cũng chính là việc tác giả nhớ về hình ảnh bếp lửa gắn liền với
trái tim nồng hậu, ấm áp của người bà hơn bao giờ hết. Người bà cũng là biểu
tượng của người giữ lửa, nhóm lửa và truyền lửa thiêng liêng, bất diệt:


<i>“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,</i>
<i>Một ngọn lửa, lịng bà ln ủ sẵn,</i>
<i>Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…</i>


<i>Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa</i>
<i>Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

<i>Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi</i>
<i>Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ</i>


<i>Ơi kì lạ và thiêng liêng-bếp lửa.”</i>


Bà là người nhóm lửa, nhóm ngọn lửa của u thương mà lịng bà ln ủ sẵn để
mong sưởi ấm cho cháu trong mọi hoàn cảnh. Bà nhóm ngọn lửa sưởi ấm cháu
trong những lúc đói lịng, nhóm u thương ngọt bùi với xóm giềng, bà cũng là
người nhóm dậy và thức dậy những gì tươi đẹp, hồn nhiên và trong sáng nhất của
tuổi thơ cháu. Cịn gì thiêng liêng cho bằng. trái tim và tình yêu thương của bà đã
trở thành ngọn lửa bất diệt, thiêng liêng luôn rực sáng, soi đường chỉ lối trên mỗi
bước chân của cháu. Nó thiêng liêng, bất diệt đến mức mà dù sau này, có đi xa, có
lửa trăm nhà, có khói trăm tàu thì cuộc sống tiện nghi hiện đại ấy cũng khơng bằng
ngọn lửa lịng bà, không ấm áp và ngọt bùi đắng cay như mùi khói hun nhèm mắt
cháu. Nhưng tấm lịng người bà cũng đã được thể hiện xúc động và chân thực qua
hình ảnh bếp lửa. Bếp lửa ấy là nơi bà nhen nhóm lên những yêu thương, sự quan
tâm, chăm sóc và những kí ức đẹp của tuổi thơ trong cháu. Ngọn lửa của bà như
nguồn sáng mạnh mẽ, bất diệt để làm cháu tự tin, can đảm trên đường đời. Có thể


nói, bếp lửa ấy khơng chỉ cịn có hơi ấm, mà nó cịn cả một trời sức mạnh, cả một
biển yêu thương, một điểm tựa vững chắc và thiêng liêng của tuổi thơ. Để rồi cứ
thổn thức, âm vang và ám ảnh mãi hình ảnh bếp lửa và đơi bàn tay chi chút, cẩn
trọng của bà. Bếp lửa ấy của Bằng Việt giống như mảnh kí ức thiêng liêng, thầm
kín mà dù có đi xa, quen với cuộc sống hiện đại, tiện nghi thì cũng khơng bao giờ
cháu qn thổn thức sớm mai này bà nhóm bế lên chưa. Như thế, bếp lửa chính là
sự hiện hữu thiêng liêng và cao cả của người bà, của sức mạnh và niềm tin bất diệt
mà người cháu luôn khắc cốt ghi tâm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

nghệ thuật, góp phần là nên con mắt thơ tinh tế, giàu mãnh cảm. Bằng tất cả tấm
lòng, tác giả để lại một hình tượng nghệ thuật bằng thơ đầy ám ảnh, dư ba


<b>Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa - Mẫu 2</b>


"Bếp lửa" là bài thơ tuyệt hay của Bằng Việt. Bài thơ đã đi qua một hành trình nửa
thế kỉ, nhưng đọc lúc nào, ta cũng cảm thấy hay, thấy xúc động kì lạ. Giọng thơ
ngọt ngào, tha thiết. Hình ảnh người bà đơn hậu, con chim tu hú, kỉ niệm vui, buồn
thời thơ ấu,... và hình ảnh bếp lửa, tất cả cứ sống dậy trong tâm hồn ta. Hình ảnh
bếp lửa thật đẹp và đầy ấn tượng vì bếp lửa là sự sống, là nguồn hạnh phúc gia
đình, là tình thương con cháu của bà. Có bà mới có bếp lửa.


Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa . Các từ láy: "ấp iu, chờn vờn " được sử dụng
thất đắt, thật tài tình, vừa gợi tả ngọn lửa, vừa làm hiện lên người bà đang nhóm
lửa:


<i>"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm</i>
<i>Một bếp lửa ấp iu nồng đượm</i>
<i>Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".</i>


Có bếp lửa tất có khói. Bếp lửa nhà nghèo lắm khói. Bếp lửa thời tản cư, thời


kháng chiến lại càng nhiều khói:


<i>" Lên bốn tuổi cháu đã qua mùi khói...</i>
<i>Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu</i>
<i>Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! ".</i>


Cháu đã sống trong lòng bà, đã được bà chăm chút yêu thương, "Bà dạy cháu làm,
bà chăm cháu học". Nhà nghèo, bố mẹ đi cơng tác xa, nên đã ‘Tám năm rịng
cháu cùng bà nhóm lửa". Bếp lửa đã sưởi ấm tình thương, tình bà cháu. Cháu
thương bà, cháu muốn được san sẻ cùng chim tu hú khi nghĩ về bếp lửa:


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

<i>Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà</i>
<i>Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa".</i>


Bà tần tảo, bà vất vả thức khuya dậy sớm để nhóm lửa, làm ngọn lửa, bếp lửa
sáng lên, sưởi ấm hạnh phúc gia đình, thấm sâu tình thương vào tâm hồn con
cháu. Nhờ thế mà sức sống, nguồn sống, nguồn vui hạnh phúc gia đình dai dẳng,
bền bỉ, bất diệt.


Các động từ: nhen, ủ, chứa và hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa được tác giả dùng thật
đắt, nói lên thật đẹp "niềm tin " nếp sống đó:


<i>Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen</i>
<i>Một ngọn lửa lịng bà ln ủ sẵn</i>
<i>Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng... "</i>


Càng về cuối giọng thơ càng trở nên bồi hồi, tha thiết. "Đời bà lận đận", trải nhiều
"mưa nắng" suốt mấy chục năm rồi, cho "đến tận bây giờ" bà "vẩn giữ thói quen
dậy sớm" để nhóm bếp lửa, vì sự ấm no hạnh phúc của con cháu. '"'Niềm yêu
thương", '''‘khoai sắn ngọt bùi ", "nồi xôi gạo mới sẻ chung vui ", ''những tâm tình


tuổi nhỏ",... đều do bà "nhóm". Điệp ngữ "nhóm" bốn lần cất lên làm sáng bừng
vần thơ, làm sáng tâm hồn con cháu. Có thể nói đây là những câu thơ đẹp nhất
nói về bà và hình ảnh bếp lửa:


<i>"Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ</i>
<i>Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm</i>
<i>Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm</i>
<i>Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

<i>Nhóm dậy cả những tâm hồn tuổi nhỏ</i>
<i>Ơi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa"!</i>


Người đọc cảm thấy cả một đàn con cháu đông vui đang ngồi xung quanh bà,
xung quanh bếp lửa trong mái ấm hạnh phúc gia đình mỗi sáng mỗi chiều. Câu
cảm thán cuối đoạn thơ như một tiếng reo cất lên của đứa cháu nhỏ, tiếng reo của
ngọn lửa bập bùng trong bếp lửa được bà "nhen" lên và "ủ sẵn " cả cuộc đời.
Hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa ln ln gắn bó với người bà thương yêu. Dù đang
sống và học tập ở phương xa, đứa cháu vẫn nhớ khôn nguôi người bà đôn hậu và
bếp lửa ở quê nhà. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ làm cho nỗi nhớ bà, nhớ bếp lửa,
nhớ gia đình, nhớ quê hương càng trở nên sâu lắng, thiết tha, bồi hồi:


<i>Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu</i>
<i>Có ngọn lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả</i>


<i>Nhưng chẳng lúc nào quên nhắc nhở:</i>
<i>- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?</i>


Thơ ca dân tộc chưa có nhiều bài thơ viết về người bà kính yêu trong gia đình:
Nguyễn Duy nói về bà ngoại qua bài thơ "Đị Lèn" với kí ức tuổi thơ thật cảm
động. "Bếp lửa" của Bằng Việt là một bài thơ cứ cuốn hút lấy tâm hồn tuổi thơ


chúng ta. Hình ảnh người bà thân thương và hình ảnh bếp lửa được tác giả nói
đến vừa gần gũi thân quen, vừa thiêng liêng kì lạ. Tinh cảm là nguồn sáng của
tâm hồn, là sức sống của thi ca. "Bếp lửa " quả có bao nguồn sáng và sức sống
dào dạt như vậy.


<b>Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa - Mẫu 3</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

ruột thịt. Với Bằng Việt kỉ niệm về bà và tình bà cháu chắc là sâu nặng lắm thân
thiết lắm nên mới khơi nguồn dòng cảm xúc nồng ấm để sáng tạo một tác phẩm
đặc sắc: bài thơ Bếp lửa. Có thể đấy là những kỉ niệm riêng của nhà thơ, song đọc
bài thơ chúng ta vẫn được sưởi chung với nhà thơ hơi lửa của tình người thật gần
gũi ân nghĩa, thật cao đẹp và thiêng liêng. Theo diễn biến tâm tư của nhân vật
người cháu, chúng ta cảm nhận thấm thìa từng cung bậc tâm trạng.


Ngỡ như ta đang nhóm bếp lửa vậy - lửa của kỉ niệm tuổi thơ, lửa cuộc sống lúc đã
trưởng thành, bếp lửa của bà xưa là lửa của trăm nhà ngày nay.


Tám câu thơ đầu là kỉ niệm mới nhen lúc đứa cháu bôn tuổi:


<i>Một bếp lửa chờn vờn sương sớm</i>
<i>Một bếp lửa ấp iu nồng đượm</i>
<i>Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.</i>..


Đọng lại trong mấy dòng thơ là chữ thương và hình ảnh bà lặng lẽ, âm thầm trong
khung cảnh biết mấy nắng mưa. Vậy là kỉ niệm đã sơng dậy từ tình cảm cháu nhớ
thương bà và cuộc sơng của hai bà cháu đầy khó khăn gian khổ:


<i>Năm ấy là năm đói mịn đói mỏi</i>
<i>Bố di đánh xe, khô rạc ngựa gầy</i>



Gia cảnh như thế nên tuổi thơ của cháu và tuổi già của bà sao tránh được những cơ
cực xót đau. Bao nhiêu kỉ niệm xa xưa được nhớ lại.


Trong đó có một ấn tượng nhất, nổi lên lay động tâm hồn. Đó là ấn tượng về khói
bếp khói từ một bếp lửa của nhà nghèo.


<i>Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói ...</i>
<i>Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu</i>
<i>Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay...</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

mẽ nhờ ở những chi tiết ngôn từ chân thực và giản dị như thế. Cái bếp lửa kỉ niệm
của nhà thơ vừa mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc xanh... Mà đã
đấy ắp những hình ảnh hiện thực, thấm đẫm biết bao nghĩa tình sâu nặng.


Đoạn thơ tiếp theo:


<i>Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa</i>
<i>(...)</i>


<i>Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

tảo âm thầm bên trong tiếng tu hú cứ trở đi, trở lại vấn vít, xoắn quyện vào nhau,
dệt lên bức tranh xao xuyến.


Đứa cháu lớn dần. Cuộc sống khó khăn hơn. Song nghị lực người bà vẫn bền vững,
tấm lịng người bà vẫn mênh mơng. Kỉ niệm mà người cháu nhớ bà cứ trang trải
như ánh sáng bếp lửa. Ý thơ mở tiếp những sự việc cụ thể:


<i>Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi</i>
<i>Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi</i>



Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:


<i>"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,</i>
<i>Mày viết thư chớ kể này, kể nọ</i>
<i>Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!".</i>


Lời thơ chân thực như chính cuộc sống đang hiện lên. Xin cứ để ngun khơi
chẳng cần phân tích lí lẽ nhiều lời, chúng ta vẫn thấm thìa vẻ đẹp tinh thần của cả
một thế hệ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vừa qua. Đó là tình
đồn kết xóm làng, là ý chí nghị lực của những người mẹ, người bà ở hậu phương
hướng ra tiền tuyến và đẹp hơn hết, rộng hơn, cao cả hơn là vẻ lung linh bất diệt
của tình bà cháu hồ trong tình u q hương, tổ quốc. Do đó khơng phải ngẫu
nhiên, từ hình ảnh bếp lửa, đến đây lời thơ bừng sáng thành ngọn lửa:


<i>Một ngọn lửa, lịng bà ln ủ sẵn</i>
<i>Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

Ớ đoạn cuối, kỉ niệm tuổi thơ lắng dần, chuyển từ cảm xúc nhổ' thương của đứa
cháu nhỏ đối với bà sang những suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, về ân sâu nghĩa
nặng của người thanh niên trưởng thành ngày nay đối với thế hệ ông bà, cha mẹ
ngày trước:


<i>Lận dận đời bà biết mấy nắng mưa</i>
<i>Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ</i>


<i>Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm</i>
<i>Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm</i>
<i>Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi</i>



<i>Nhóm nồi xơi gạo mới sẽ chung vui</i>
<i>Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ</i>


<i>Ơi kì lạ và thêng liêng - bếp lửa...</i>


Hình ảnh người bà ơm trùm cả đoạn thơ. Điệp từ nhóm được nhắc lại bơn lần
mang bôn ý nghĩa khác nhau, bồi đắp cao dần toả sáng dần nét kì lạ của bếp lửa và
vẻ đẹp thiêng liêng của người bà từ vóc dáng đến việc làm nhất là nghĩa tình sâu
nặng của bà. Nhóm bếp lửa ấy là cái bếp có ánh lửa sáng và hơi ấm. Nhóm niềm
yêu thương là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng ấm. Nhóm nồi xơi gạo mới
thổi chung vui bà mở rộng tấm lịng đồn kết, gắn bó với làng xóm quê hương. Và
cuối cùng người bà kì diệu ấy nhóm dậy khơi dậy giáo dục thức tỉnh tâm hồn và
sức sống tuổi thanh xuân thơ ấu để đứa cháu khôn lớn nên người.. Để đưa cháu
được đi xa, được thấy ngọn lửa khói trăm tàu, để có lửa trăm nhà niềm vui trăm
ngả, ngơn ngữ văn chương dạt dào như sóng rồi lan toả như lửa ấm, hay ở đây là
cảm xúc dâng trào, đang toả ấm nhân vật người cháu, của nhà thơ? Mỗi câu mỗi
chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương ân nghĩa. Đó là đạo lí cội
nguồn dân tộc Việt Nam chúng ta trong quan hệ gia đình, con cái đối với cha mẹ,
cháu đối với ơng bà, tổ tiên. Vẻ đẹp của đạo lí: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ra sơng
nhớ suối có ngày nhớ đêm...


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

lịng kính u trân trọng và biết ơn của cháu đối với bà và cũng là đối với quê
hương gia đình đất nước.


Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với kể chuyện, miêu tả và bình luận.
Thành cơng của bài thơ cịn là sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh
người bà để làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm cảm xúc và suy nghĩ về tình bà
cháu.


Ơi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!



</div>

<!--links-->

×