Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Những vấn đề cơ bản về ngân hàng điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.89 KB, 32 trang )

Những vấn đề cơ bản về ngân hàng điện tử
I -Khái niệm về ngân hàng thơng mại.
1-Khái niệm .
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thơng mại gắn liền với lịch sử và
phát triển của nền sản xuất hàng hoá, nh vậy, ngân hàng thơng mại là một sản
phẩm đặc biệt của nền kinh tế hàng hoá, đồng thời là một trong những nghành
công nghiệp lâu đời nhất. Xem xét quá trình hình thành và phát triển của ngân
hàng thơng mại, từ các hoạt động ban đầu là đổi tiền; nhận tiền gửi; cho vay và
chi trả hộ, cũng nh phát triển theo quy mô và nghiệp vụ nh nghiệp vụ bảo lãnh,
đặc biệt là phát hành các tín phiếu chứng nhận về tiền gửi đợc dùng để thanh toán
chi trả gần giống nh giấy bạc ngân hành hiện nay, nhìn chung ngân hàng là một
loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể đợc định
nghĩa qua chức năng và nhiệm vụ, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện
trong nền kinh tế, nhng ở đây đặt ra vấn đề là những yếu tố trên luôn luôn thay
đổi , thực tế rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng
khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tơng hỗ và các công ty bảo hiểm hàng
đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng, và ngợc lại, ngân hàng
cũng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh(các tổ chức tài chính phi ngân hàng)
bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng
khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu t vào quỹ tơng hỗ và thực hiện nhiều
dịch vụ mới khác, do vậy cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ
chức này trên phơng diện những loại hình dịch vụ mà chúng đang cung cấp:
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế.
Ngợc lại, một số định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu, ở nớc ta theo luật
các tổ chức tín dụng (1/10/1998) : Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng đợc
thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên
quan. Hay luật các tổ chức tín dụng của nớc CHXHCN Việt Nam ghi : Hoạt
động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội


dung thờng xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán.
2- Các chức năng chủ yếu của ngân hàng th ơng mại
2.1-Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu t, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền
kinh tế: một là : Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu
cho tiêu dùng và đầu t vợt quá thu nhập và vì thế họ là những ngời cần bổ sung
vốn; hai là : Các cá nhân và tổ chức thặng d trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại
của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền tiết
kiệm. Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân
hàng, điều tất yếu là tiền sẽ ở nhóm thứ hai chuyển sang cho nhóm th nhất nếu cả
hai cùng có lợi, nh vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính
giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một l-
ợng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó lại là quan hệ tín dụng,
hoặc không thì chỉ là quan hệ cấp phát vốn hoặc là hùn vốn.
Việc quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp với thời gian, không
gian, quy mô làm cản trở các quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh
trung gian tài chính, do việc chuyên môn hoá, trung gian tài chính có thể làm
giảm chi phí giao dịch, tăng thu nhập cho ngời tiết kiệm, nhờ đó mà khuyến khích
tiết kiệm, giảm phí tổn cho ngời đầu t, làm khuyến khích đầu t. Trung gian tài
chính đã tập hợp các ngời tiết kiệm và đầu t nên giải quyết đợc các mâu thuẫn của
tín dụng trực tiếp, gánh chịu rủi ro và sử dụng các nghiệp vụ kỹ thuật để hạn chế,
phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
2.2-Tạo phơng tiện thanh toán.
Tiền-vàng có một chức năng quan trọng là làm phơng tiện thanh toán, ban đầu các
ngân hàng đã tạo ra phơng tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lợng
tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều u thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã
thay thế tiền kim loại làm phơng tiện lu thông và phơng tiện lu trữ, nó trở thành
tiền giấy.

Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy
rằng nếu họ có đợc số d trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có
đợc hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Theo những quan điểm hiện đại, đại l-
ợng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận, thứ nhất là tiền giấy trong lu thông(Mo), thứ
hai là số d trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại các ngân hàng,
thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn . Khi
ngân hàng cho vay, số d trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng
lên, khách hàng có dùng để mua hàng và dịch vụ, do đó bằng việc cho vay(hay tạo
tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phơng tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1).
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phơng tiện thanh toán khi các khoản tiền
gửi đợc mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay, khi
khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền cho vay để chi trả thì sẽ tạo nên
khoản thu (tức làm tăng số d tiền gửi ) của một khách hàng khác tại một ngân
hàng khác, từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng
riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ d thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có
thể tạo ra khối lợng tiền gửi (tạo phơng tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt
động cho vay (tạo tín dụng).
2.3-Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc
gia, thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch
vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đa
ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán nh thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm
chi, nhờ thu, các loại thẻ . Cung cấp mạng l ới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ
và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Ngoài ra các ngân hàng còn thực hiện
thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ơng hoặc thông qua các
trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng ngày càng đạt đợc
hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng đợc mở rộng, vì vậy, công
nghệ thanh toán hiện đại ngày càng đợc các nhà quản lý áp dụng rộng rãi. Nhiều
hình thức thanh toán đợc chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán
không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên

toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế đợc thiết lập đã làm tăng hiệu quả
của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán
quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
II- Sự hình thành và phát triển ngân hàng điện tử
1-Sự hình thành ngân hàng điện tử
1.1-Khái niệm về ngân hàng điện tử.
Ngân hàng điện tử (E-Banking) hay còn gọi là ngân hàng trực tuyến (Online
Banking), ngân hàng mạng (Internet Banking) là một hình thức ngân hàng mà các
dịch vụ khách hàng của nó đợc thực hiện một cách tự động thông qua mạng
Internet, và nguyên liệu chính đợc sử dụng là tiền điện tử (E-Money).
Tiền điện tử (Electronic money, Digital Casch, E-casch) là phơng tiện biểu
hiện giá trị, là sự biểu hiện dới dạng số hoá của tiền tệ.
* Theo định nghĩa của Uỷ ban Châu Âu thì tiền điện tử là một loại tiền:
+ Đợc chứa đựng trong các thiết bị điện tử nh thẻ điện tử hay bộ nhớ máy
tính.
+ Đợc chấp nhận nh là phơng tiện trong thanh toán.
+ Đợc phát hành với mục đích chuyển cho ngời sử dụng để phục vụ nh một
sự thay thế cho tiền mặt (tiền giấy, tiền xu, ).
+ Đợc phát hành để thực hiện thanh toán điện tử cho những thanh toán có
giá trị giới hạn.
Tiền điện tử (E-money) theo nh định nghĩa là một hình thái tiền tệ cho phép khách
hàng sử dụng phơng tiện truyền thông điện tử để tiếp cận với hệ thống thanh toán.
Nh vậy tiền chính là thông tin (Infomation) đợc chuyển giao giữa các thiết bị điện
tử giúp cho quá trình thanh toán.
Mạng Internet là một hệ thống các máy tính đợc kết nối với nhau trên phạm vi
toàn thế giới. Mạng cho phép các thành viên trao đổi thông tin, dữ liệu, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển các dịch vụ truyền thông, th tín điện tử, thơng
mại điện tử...
Nh vậy, ngân hàng điện tử theo nh định nghĩa thực chất là việc ứng dụng Internet
trong lĩnh vực ngân hàng. Đối tợng của ngân hàng điện tử là các khách hàng sử

dụng máy tính cá nhân có nối mạng, toàn bộ các nghiệp vụ đều đợc thực hiện tại
nhà hay bất kỳ nơi nào có kết nối Internet mà trong đó các nghiệp vụ hoàn toàn đ-
ợc tự động hoá, không cần đến sự tham gia của các nhân viên ngân hàng.
1.2-Sự hình thành ngân hàng điện tử.
Sự phát triển của công nghệ thông tin đã làm ảnh hởng rất lớn tới lĩnh vực ngân
hàng, tài chính và thơng mại. Có nhiều quan điểm về nghành công nghiệp ngân
hàng sẽ tận dụng đợc cơ hội thuận lợi do sự phát triển của công nghệ thông tin
mang lại hay lại phải đấu tranh để duy trì vai trò cơ bản (principa role) của nó
trong nền kinh tế. BillGates, chủ tịch tập đoàn Microsoft, bậc thầy trong lĩnh vực
công nghệ tin học, trong buổi gặp gỡ các quan chức ngân hàng Châu Âu (EU)
năm 1994 cho rằng các ngân hàng sẽ gặp phải những thách thức không nhỏ để tồn
tại trong thời gian tới. BillGates cho rằng : Các ngân hàng cũng nh loài khủng
long, đứng trớc nguy cơ của sự lỗi thời và có thể sẽ bị tuyệt chủng. Một số nhà
ngân hàng đã cảm thấy bị xúc phạm bởi câu nói có vẻ nh phi lý này của Bill, một
số khác lại coi đó nh một hồi chuông cảnh báo, một sự thách thức cho giới ngân
hàng, hoặc là vơn lên làm chủ công nghệ mới để cung cấp các sản phẩm tài chính
và thơng mại điện tử trong thế kỷ 21, hoặc bị gạt ra bên ngoài để phục vụ nh một
kênh bị động cung cấp các thông tin du lịch thông qua công nghệ mà sự phát triển
phụ thuộc vào các nghành khách, những nghành có thể sẽ không còn sử dụng các
kênh ngân hàng truyền thống.
Sự hình thành của ngân hàng điện tử là tất yếu khách quan, cũng giống nh các
ngân hàng thơng mại truyền thống, nó xuất phát từ sự phát triển của tiền và các
hình thức thơng mại. Tuy nhiên không thể thiếu một nguyên nhân nữa để ngân
hàng điện tử ra đời đó là sự phát triển của công nghệ thông tin, cuộc cách mạng
công nghệ thông tin là nhân tố quyết định sự phát triển của tiền tệ và các hình
thức thơng mại, tạo tiền đề cho ngân hàng điện tử ra đời.
- Internet cuộc cách mạng công nghiệp thứ ba.
Cái mà ngời ta gọi là cuộc cách mạng công nghiệp không chỉ đơn giản là triển
khai thêm một công nghệ nữa mà là sự đảo lộn cơ bản trong cách sản xuất và tiêu
dùng, thế giới đã biết đến hai cuộc cách mạng công nghiệp :

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đợc theo đuổi đến năm 1840, sinh ra
ở nớc Anh với sự phát minh ra máy hơi nớc do James Watt năm 1776, lần đầu tiên
ngời ta đã thành công trong công việc biến nhiệt thành chuyển động mà ứng dụng
đầu tiên là chiếc máy kéo sợi bông bằng hơi nớc, và trớc năm 1830 đã xuất hiện
đờng sắt đầu tiên, do vậy nớc Anh trong những năm 1780 và năm 1860 là khoảng
thời gian ngời dân nớc Anh vừa trở nên đông đúc và giầu có hơn, từ một tỷ lệ tăng
trởng khiêm tốn 0,5% đã tăng thêm mức tăng trởng 2%.
Cuộc cách mạng thứ hai là phát minh ra điện của Thomas Edison mở ra năm
1882 ở Mỹ, lần này với những nhà máy điện đã làm cho mức tăng trởng của nớc
Mỹ lên tới 4%, đối với công chúng thăm triển lãm quốc tế năm 1881, điện chỉ là
chiếc máy khâu hay chiếc xe điện nhỏ do hãng Siemens chế tạo. giúp tới thăm
triển lãm, nhng điều quan trọng hơn là đã mở ra những cơ sở công nghiệp lớn và
làm việc theo dây chuyền.
Và chúng ta đang ở trong cuộc cách mạng công nghiệp lần ba, là một cuộc cách
mạng về công nghệ điện tử và Internet, nguồn gốc của Internet là hệ thống máy
tính của Bộ quốc phòng Mỹ, gọi là mạng ARPAnet, một thí nghiệm đợc thiết kế từ
năm 1969 để tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác khoa học trong các công
trình nghiên cứu quốc phòng. Nh vậy, mạng Internet nguyên thuỷ đợc thiết kế
nhằm mục đích phục vụ việc cung cấp thông tin cho giới khoa học nên công nghệ
của nó cho phép mọi hệ thống đều có thể liên kết với nó thông qua một cổng điện
tử. Theo cách đó, ngày nay có hàng ngàn máy tính cũng nh hệ thống dịch vụ th
điện tử...... đã trở thành thành viên của Internet với khoảng 1 tỷ trang Wed, 375
triệu ngời dùng mạng Internet đang phát triển với tốc độ bùng nổ. Theo thống kê
của báo Internet commrce thì cứ sau 150 ngày số lợng ngời truy cập Internet lại
tăng gấp đôi, Internet thực sự trở thành một cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
ba.
Nhờ có công nghệ kỹ thuật số và Internet, năng suất lao động của ngời Mỹ
kể từ thập kỷ 90 đã tăng 2,5% hàng năm. Cuộc cách mạng Internet đã trở làm thay
đổi cơ bản trong cách sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế. Internet tạo ra một
không gian tại đó mọi ngời có thể gặp gỡ trao đổi thông tin, các doanh nghiệp có

thể quảng cáo và bán hàng hóa của mình các ngân hàng có thể phục vụ khách
hàng mà không cần giao dịch trực tiếp với khách
hàng (hình 1).
Kênh phân phối của
các tổ chức tài chính
Kênh phân
phối ngoài
Kênh phân phối trong
Giao dịch thông qua
Phơng tiện truyền thông
Giao dịch
trực tiếp
Kênh hỗ trợ
Kỹ thuật
Thông qua
Email
Kênh
viễn thông
Kênh
điện tử
Tự
phục vụ
-Nhân viên tiếp thị
-Ngân hàng hội viên
-Các chi nhánh
-Quầy giao dịch
- Máy rút tiền
tự động ATM
- Điện thoại
- Internet

Hình 1 : Internet một kênh phân phối của ngân hàng
Internet đợc gọi là kênh phân phối điện tử, kết hợp với kênh viễn thông và hệ
thống tự phục vụ ( ATM ) tạo nên kênh phân phối kỹ thuật ( Technical chanel ).
Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển thì kênh phân phối sử dụng các thiết bị
kỹ thuật ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong hệ thống phân phối dịch vụ
khách hàng, trong đó kênh Internet hay Ngân hàng điện tử là không thể thiếu đợc
khi thơng mại điện tử phát triển.
- Sự phát triển của thơng mại điện tử
Với những u điểm của nó, cha bao giờ Internet lại trở thành một công cụ thơng
mại hữu hiệu nh hiện nay. Những chuyên gia về thị trờng từng mơ ớc có thể đến
riêng từng khách hàng để chào bán hàng của mình thì giờ đây Internet đã giúp họ
thực hiện ớc mơ đó. Đây là cách tốt nhất để phục vụ khách hàng có một số nhu
cầu nhất định. Chỉ cần nhấn vài lệnh trên bàn phím và đợi vài giây là khách hàng
có thể vào cửa hàng mà mình u thích. Mua sắn trên mạng cũng giúp ngời tiêu
dùng tự tin hơn vì họ có thể tự so sánh giá cả của các cửa hàng khác nhau và mua
sắm với giá rẻ nhất.
Quảng cáo và bán hàng trên Internet
Nhà nớc thực hiên các chính sách
Hình 2 : Mô hình tổng quát giao dịch thơng mại điện tử
Có nhiều phơng thức thanh toán trong thơng mại điện tử, tuy nhiên chủ yếu thông
qua hai hình thức chính là thanh toán trung gian và thanh toán qua ngân hàng.
Hình thức thanh toán qua ngân hàng đợc trình bày tổng quát nh hình 2, toàn bộ
qua trình đặt hàng, mua hàng và thanh toán đợc thực hiện trực tuyến qua mạng
trên Internet. Theo đó, ngân hàng đóng vai trò trung tâm trong thanh toán điện tủ,
thiếu nó, thơng mại điện tử không thể thực hiện đợc. Vì vậy, sự xuất hiện của th-
ơng mại điện tử tất yếu dẫn đến sự ra đời của một ngân hàng trên mạng (Online
Banking) hay ngân hàng điện tử (E-Banking).
Nh vậy, thơng mại điện tử phát triển làm xuất hiện nhu cầu về thanh toán trực
tuyến qua ngân hàng, đó là cơ hội tiềm tàng để các ngân hàng điện tử ra đời và
phát triển. Ngợc lại, sự ra đời của ngân hàng điện tử thúc đẩy sự phát triển của th-

ơng mại điện tử, quyết định đến sự phát triển và thành bại của thơng mại điện tử.
- Sự phát triển của tiền tệ và các tổ chức tài chính phi ngân hàng .
Cuộc cách mạng trong lĩnh vực ngân hàng cơ bản dựa trên sự thay đổi trong kênh
phân phối của các tổ chức tài chính. Sự xuất hiện của kênh phân phối điện tử lại là
kết quả của cuộc cách mạng về khái niệm tiền tệ.
Trong nền kinh tế trao đổi hiện vật, khả năng chi trả cho hàng hoá và dịch vụ đợc
phản ánh bằng hàng hoá trao đổi trung gian nh cái rìu, thuốc lá, lỡi câu sau đó,
tiền tệ bằng kim loại ra đời và đợc tạo bởi kim loại đá quý. Tiếp theo là sự xuất
hiện của tín tệ. Tín tệ là một loại tiền đợc chấp nhận trong thanh toán nhng bản
thân nó không có giá trị, tín tệ đợc phát hành bởi hệ thống ngân hàng, bao gồm
tiền giấy và tiền xu. Ngày nay, khi khoa học công nghệ phát triển, khả năng chi
trả, thanh toán cho hàng hoá và dịch vụ của mỗi cá nhân đơn giản đợc phản ánh
bằng con số trong bản ghi tài khoản khách hàng tại ngân hàng. Điều này dẫn tới
một khái niệm mới là tiền điện tử (E-Money, E-Cash) hay tiền số hoá (Dital Cash)
mà bản chất của loại thông tin này là thông tin (Information) đợc chuyển giao
giữa các thiết bị điện tử để thanh toán trong nền kinh tế. Cách hiểu mới về tiền tệ
này đã dẫn đến cuộc cách mạng điện tử của các tổ chức tài chính.
- Cạnh tranh giữa ngân hàng và phi ngân hàng.
Sự xuất hiện của tiền tệ điện tử đã mở ra một thị trờng đầy tiềm năng cho việc
phát triển các dịch vụ thanh toán dựa trên loại tiền mới này. Nhận thức đợc thị tr-
ờng tiềm năng này, hàng loạt các công thành viên tài chính (ngân hàng và phi
ngân hàng) cạnh tranh nhau trong việc cung cấp các loại tiền điện tử này, mỗi
công ty có một loại tiền điện tử riêng và có phơng thức thanh toán riêng và có ph-
ơng thức thanh toán khác nhau. Theo Banking Policy Report trong năm 1997 đến
năm 2000 có khoảng 3700 tỷ USD đã đợc đầu t và phát triển cơ sở hạ tầng cần
thiết cho thơng mại điện tử. Cuộc chạy đua giữa bản thân hệ thống các ngân hàng
và đặc biệt là giữa ngân hàng với các tổ chức phi ngân hàng trong việc cung cấp
các phơng tiện thanh toán (tiền điện tử), diễn ra ngày càng quyết liệt. Các ngân
hàng trớc đây hoàn toàn nắm giữ quyền kiểm soát về tiền tệ, tuy nhiên cho đến
cuối năm 1995, sự phát triển của tiền điện tử đã nằm ngoài kiểm soát của hệ thống

ngân hàng, mà đúng hơn là ngân hàng trung ơng (Mỹ, Anh,..).. nh CyberCash,
DigiCash, và First Virtual Holdings là 3 công thành viên mạnh nhất về cung cấp
các dịch vụ thanh toán điện tử trên mạng vào thời điểm cuối năm 1995 và đầu
năm 1996, cả ba công thành viên đều cung cấp những dạng tiền điện tử khác nhau
và đều muốn đáp ứng cho khách hàng sự thuận tiện và an toàn trong thanh toán.
Đối với các nhà ngân hàng thì áp lực cạnh tranh lớn nhất không phải từ phía các
nhà ngân hàng mà từ các hiệp hôi tín dụng, nhà môi giới chứng khoán, đặc biệt là
các nhà cung cấp thẻ tín dụng phi ngân hàng nh American Express, Discover
theo thống kê của Internet Banking và Security : Hiện nay ngân hàng chỉ giữ 20%
tài chính của hộ gia đình so với 34% của 20 năm trớc, quản lý 30% ký quỹ của
các tổ chức kinh doanh so với 7 năm trớc là 42%. Những nhà cung cấp thẻ tín
dụng phi ngân hàng tấn công vào phần khách hàng của ngân hàng và nắm giữ
luôn 25% thị phần so với năm 1994 họ chỉ chiếm đợc 5%. Thực tế là các ngân
hàng đã đi chậm hơn so với các tổ chức phi ngân hàng trong việc cung cấp các ph-
ơng tiện thanh toán cho thơng mại điện tử. Việc suy giảm thị phần này đồng nghĩa
với việc các ngân hàng đang mất đi vai trò trung gian tài chính của mình, chức
năng cơ bản của ngân hàng là trung gian thanh toán trong nền kinh tế, nhng chức
năng này đang bị cạnh tranh mạnh mẽ, đe doạ tới sự tồn tại của các hệ thống ngân
hàng.
Câu hỏi ở đây sẽ đặt ra là : Điều gì sẽ xảy ra khi những ngân hàng có những chức
năng nh các tổ chức phi ngân hàng, nhng các tổ chức này lại có nhiều thuận lợi
hơn các ngân hàng do sự chuyên môn hoá trong công nghệ thanh toán, điều gì sẽ
xảy ra nếu nh những công ty tin học viễn thông hàng đầu nh Microsoft, Netscape,
IBM,..liên kết với các hiệp hội tín dụng phi ngân hàng để cung cấp các dịch vụ
tài chính có tính chất toàn cầu. Rõ ràng, các ngân hàng đã mất đi vị trí độc quyền
là trung gian tài chính của mình và nguy cơ bị tụt hậu về công nghệ nh Billgate đã
cảnh báo là khó tránh khỏi, nếu nh các ngân hàng không tự đổi mới hay nói cách
khác là để tồn tại và phát triển, ngân hàng buộc phải làm một cuộc cách mạng, mà
thực chất của cuộc cách mạng này là sự phát triển của công nghệ thanh toán, hớng
tới thanh toán trực tuyến qua mạng Internet để phục vụ cho sự phát triển của th-

ơng mại điện tử, hay cuộc cách mạng này chính là sự hình thành nên các ngân
hàng điện tử.
Tóm lại, dới sự phát triển của công nghệ và ứng dụng khoa học công nghệ
thông tin và thơng mại điện tử, sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tài chính thì
việc hình thành ngân hàng điện tử là tất yếu và khách quan, hơn nữa, với sự thuận
lợi về uy tín, kinh nghiệm trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính, sẽ
là cơ hội để các ngân hàng mở rộng thêm kênh phân phối trên mạng. Tuy nhiên để
đạt đợc nhng mục tiêu trên, các ngân hàng phải mất nhiều thời gian và chi phí.
2- Lợi ích của ngân hàng điện tử
Ngân hàng điện tử có rất nhiều lợi ích đối với khách hàng, nền kinh tế cũng nh đối
với bản thân ngân hàng, theo đó, ngân hàng điện tử có những lợi ích (u điểm)
sau :
* Lợi ích đối với khách hàng bao gồm :
An toàn và hiệu quả. Thanh toán bằng thẻ tín dụng phức tạp hơn nhiều so
với thanh toán qua ngân hàng điện tử, ngân hàng điện tử bằng hệ thống
thanh toán (BIPS) có tính bảo mật cao, khách hàng không phải khai thông
tin về cá nhân và thẻ tín dụng, do đó rất an toàn, hơn hẳn so với phơng thức
thanh toán bằng thẻ tín dụng và th tín dụng. Ngân hàng điện tử thích hợp
với mọi hình thức thơng mại điện tử, đáp ứng đợc nhu cầu thanh toán của
khách hàng ở mọi mức độ và không bị giới hạn bởi số lợng tiền thanh toán
nh đối với thanh toán bằng thẻ tín dụng.
Tiếp cận mọi lúc, mọi nơi. Với hệ thống kết nối mạng thờng trực, khách
hàng có thể tiếp cận với ngân hàng 24/24 giờ, vào tất cả các ngày và tại bất
cứ địa điểm nào về các loại sản phẩm, dịch vụ, các thủ tục, cách thức vay,
trả nợ hay các dịch vụ t vấn về đầu t chứng khoán Khả năng tiếp cận với
ngân hàng vào bất cứ thời điểm nào rất có ý nghĩa đối với những ngời
không có thời gian đến ngân hàng vào giờ hành chính, đối với cả các doanh
nhân thờng phải đi xa hay sinh viên du học thì đây là hình thức lý tởng vì
họ có thể tiếp cận với ngân hàng điện tử ở bất cứ nơi nào trên thế giói có
kết nối.

Khả năng tự kiểm soát cao. Đối với ngân hàng truyền thống, khách hàng
cảm thấy họ không tự kiểm soát đợc tài khoản của mình. Ngợc lại, ngân
hàng trực tuyến giúp khách hàng có thể thờng xuyên theo dõi và kiểm soát
đợc tình hình tài chính của mình.
Tiết kiệm thời gian, chi phí và các thao tác giao dịch. Khách hàng không
còn phải mất thời gian xếp hàng chờ đợi để thực hiện các giao dịch với
ngân hàng, công việc này có thể đợc thực hiện hoàn toàn thông qua máy
tính tại nhà hay tại công thành viên. Đặc biệt, ngân hàng điện tử giúp giảm
chi phí giao dịch cho khách hàng một cách đáng kể. Nếu trớc đây, trong
giao dịch ngân hàng truyền thống, khi khách hàng muốn biết về số d tài
khoản của mình thì phải trả gấp 2 lần so với việc sử dụng máy rút tiền tự
động ATM, gấp 5 lần nếu sử dụng Home Banking (ngân hàng qua điện
thoại) và gấp 10 lần khi sử dụng ngân hàng điện tử.

×