Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

huy động vốn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.62 KB, 25 trang )

huy động vốn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
1.1.1 Ngân hàng thương mại và vai trò của nó trong nền
kinh tế
Sự ra đời của Ngân hàng là sản phẩm cao cấp của nền sản xuất
hàng hoá .Vào đầu thế kỷ thứ XVIII sản xuất hàng hoá phát triển, quan hệ
mua bán, trao đổi sản phẩm hàng hoá giữa các vùng, cá nước ngày càng
lớn . Các thương nhân khi đi mua hàng hoá, bán hàng thường mang theo
một lượng hàng hoá rất lớn . Do vậy thường mất rất nhiều công sức để
bảo quản lượng tiền vàng . Trong khi đó tại thời gian này vàng được
dùng phổ biến trong đời sống hàng ngày ( như đúc tiền, đồ trang sức ... )
hoạt động của các nhà thợ vàng rất phát triển và họ có nhiều kho cất trữ
rất tốt đảm bảo an toàn .
Để giảm bớt chi phí bảo quản lượng tiền vàng và đảm bảo về mặt an
toàn tài sản của mình, cacs thương nhân đã bắt đầu tìm kiếm và gửi
lượng tiền vàng vào các nhà thợ vàng, để chứng nhận cho việc ký gửi này,
các nhà thợ vàng phát hành giấy biên nhận . Lúc đầu số lượng người gửi
tiền vàng tại các nhà thợ vàng còn ít, các nhà buôn khi cần tiền mang
biên lai đến các hiệu vàng rút lượng tiền vàng ra và thanh toán với nhau
bằng chính những đồng tiền vàng . một thời gian sau nhà buôn gửi tiền
vàng vào các nhà thợ vàng ngày càng nhièu, các thương nhân khi thanh
toán tiền mua bán hàng hoá với nhau đã dùng biên lai gửi tiền để thanh
toán thay cho việc trả tiền vàng. Các biên lai được lưu chuyển từ thương
nhân này sang thương nhân khác để thanh toán nợ .Việc làm này tiết
kiệm cho nhữnh người phải trả nợ họ không đến các nhà thợ vàng trình
biên lai rút ra số tiền càn thiết gửi cho chủ nợ. Các nhà chủ nợ này ngay
sau đó lập tức gửi vào chỗ các thợ vàng. Chính vì vậyviẹc trao đổi biên lai
đơn giản hơn nhiều. Để giúp cho việc này những người làm vàngphát
hành loại biên lai ở dạng tiện lợi, làm cho người sở hữu có thể dùng làm
chi trả và chuyể quyền sở hữu của biên lai sang chủ mới
Khi ngày càng có nhiều thương gia đến gửi và rút tiền vàng ra, các
nhà thợ vàng phát hiện ra rằng ở một thời điểm bất kỳ các bien lai dùmg


để rút vàng ra chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số tiền vay họ giữ, và trong
kho của họ bao giờ cũng tồn một lượng tiền vàng lớn. Các nhà thợ vàng
dùng lượng tiền đó cho vay đói với các nhà sản xuất thương nhân thiếu
vốn cho sản xuất và buôn bán để kiếm lãi đồng thời các dịch vụ khác cũng
được phát triển theo như tài khoản ký gửi, triết khấu hối phiếu trước
hạn thanh toán, mua bán vàng nén... và ngân hàng ra đời.
Thời kỳ đầu của hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế chỉ có duy
nhất một loại ngân hàng đó là ngân hàng thương mại. Ngân hàng
thương mại thực hiện các chức năng của nó như nhân tiền gửi của khách
hàng, đầu tư, cho vay, làm dịch vụ thanh toán và phát hành các kỳ phiếu
ngân hàng . Khi lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển, các kỳ phiếu
của ngân hàng thương mại phát hành nó không đáp ứng được nhu cầu
trao đổi lưu thông hàng hoá, và những kỳ phiếu đó nó chỉ được sử dụng
lưu hành trong phạm vi nhất định nào đó, khả năng thanh toán của các
kỳ phiếu có hạn .
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 tại các nước đều có xu
hướng quốc hữu hoá các ngân hàng phát hành, các ngân hàng phát hành
thuộc quyền sở hữu nhà nước, các ngân hàng này không chỉ phát hành kỳ
phiếu, giấy bạc ngân hàng mà còn thực hiện chức năng quản lý nhà nước
trên lĩnh vực tTền tệ - Tín dụng -Ngân hàng - Đó là các ngân hàng trung
ương ra đời . Còn các ngân hàng khác chỉ thực hiện nhận tiền gửi, cho vay
đầu tư, dịch vụ thanh toán mà không được phát hành giấy bạc ngân
hàng, đó là các ngân hàng thương mại . Ngân hàng thương mại có vai trò
rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường, đó là:.
Một là : Ngân hàng là cầu nối gữa tiét kiệm với tiêu dùng và đầu tư.
Là một trung gian tài chính các ngân hàng thương mại đã tập trung
huy động các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để đầu tư vốn cho các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và nhân dân vay. Đòng thời trong nền
kinh tế thị trường những người có tiền mà chưa có cơ hội đầu tư sản
xuất thì ai cũng muốn đồng vốn của mình phải sinh lời nên họ sẵn sàng

cho vay để lấy lãi. Còn các nhà doanh nghiệp cũng vì mục đích sinh lời của
đồng vốn mà họ rất cần tiền để mua nguyên vật liệu phục vụ vcho quá
trình sản xuất lưu thông hàng hoá, hay đầu tư để mở rộng qui mô sản
xuất mà chưa đủ vốn. Ngân hnàg (vì mục đích lợi nhuận) đã thu hút
những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của các nhà sản xuất, lưu thông
hàng hoá dịch vụ và các tầng lớp dân cư khác, đem cho các donh nghiệp
và các tầng lớp dân cư cần vốn vay . Như vậy với các chức năng, vai trò
của mình ngân hàng đã chuyển đồng vốn từ những người vì các lí do mà
không dùng vốn để sinh lời một cách trực tiếp sang những người cần vốn
để sinh lời . Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất
hàng hoá, và làm cho đồng tiền luôn luôn vận động, hoạt động ngân hàng
góp phần làm tăng thu nhập cho tất cả những khách hàng của mình và
thúc đẩy nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn .
Ngân hàng đã sử dụng chính sách lãi suất để khích lệ sự tiết kiệm
trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư .
Các nhà sản xuất kinh doanh muốn thu được nhiều lợi nhuận thì phải
thực hiện tiết kiệm tối đa các chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm thì
từ đó mới trả được lãi vay ngân hàng. Trong mối quan hệ giữa tiết kiệm .
đầu tư và tiêu dùng hiện tại thì yếu tố kiềm chế hay kích thích chính là lãi
suất . Do vậy các Ngân hàng phải nghiên cứu tình hình kinh tế xã hội thị
trường ....để đưa ra các chính sách lãi suất hợp lý để làm sao giữa người
đầu tư trực tiếp và người đầu tư gián tiếp đều thu được lợi nhuận hợp lý
.
Hai là : Hoạt động ngân hàng góp phần giảm chi phí lưu thông, nâng
cao hiệu quả đồng vốn .
Trong nền kinh tế thị trường hoạt đọng trao đổi mua bán hàng hoá
diễn ra thường xuyên hết sức sôi động trong phạm vi rộng lớn, vì vậy nhu
cầu thanh toán giữa các thành viên trong nền kinh tế rất lớn . Ngân hàng
với chức năng trung tâm thanh toán đã đưa ra những phương tiện công
cụ thanh toán rất tiện lợi và ngày càng đổi mới như uỷ nhiệm chi, uỷ

nhiệm thu, séc thanh toán bù trừ, thẻ điện tử .... đã làm giảm lượng tiền
mặt đến mức tôi thiểu trong lưu thông, như Các Mác đã viết : " Tiền đã
được thay thế một phần rất lớn, một mặt bằng nghiệp vụ tín dụng, mặt
khác bằng tiền tín dụng "
Tín dụng ngân hàng đã làm giảm lượng tiền nhàn rỗi đến mức tối
thiểu cần thiết và hiệu quả đồng vốn vay ngày càng được nâng cao . Để
đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được liên tục thì ngoài lượng vốn tiền
tệ đang hoạt động, các ngân hàng còn phải có một lượng vốn tiền tệ dự
trữ vói một số lượng tiền nhất định theo qui định của ngân hàng nhà
nước ( Tuỳ theo tình hình kinh tế, xã hội, chính sách kinh tế xã hội của
từng thời kỳ mà tỷ lệ vốn tiền tệ dự trữ cao hay thấp. ).
Tỷ số giữa vốn tiền tệ đang hoạt động với vốn tiền tệ dự trữ phải
bằng tỷ số giữa thời gian lưu thông và thòi gian sản xuất . Vốn tiền tệ
nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư phải được sử dụng
vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác, thông qua
con đường tín dụng ngân hàng . Nhờ có hoạt động của tín dụng ngân
hàng mà vốn tiền tệ được sử dụng một cách tiết kiệm và có hiêụ quả . Mặt
khác các doanh nghiệp tuy đã có khả biến đại bộ phận vốn tiền tệ của
mình thành vốn sản xuất thì sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn .
Ba là : hoạt động ngân hàng có tác dụng điều tiết sự dịch chuyển của
vốn đầu tư, dẫn đến bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận, thúc đẩy nền kinh tế
hàng hoá phát triển mạnh mẽ .
Trong quan hệ tín dụng vì mục đích lợi nhuận tối đa và đảm bảo sự
an toàn của đồng vốn, nên ngân hàng đã hạn chế cho vay đối với nghành
có tỷ suất lợi nhuận thấp kém, vì vậy gây nên một sự chuyển hướng, dịch
chuyển của vốn đầu tư sang nghững nghành kinh tế mới, có tỷ suất lợi
nhuận cao . Hệ thống tín dụng ngân hàng ngày càng phát triển và
hoạt động theo hướng đó làm cho việc dị chuyển vốn một cách dễ dàng,
tập trung duy trì lợi nhuận bình quân từ tất cả các nghành . đồng thời
với sự tác động của ngan hàng vốn đựơc dịch chuyển từ vùng thừa vốn

sang vùng thiếu vốn đảm bảo cho sụ khác biệt thúc đẩy nền kinh tế phát
triển ổn định .
Bốn là : Hoạt động ngân hàng góp phần chống lạm phát, một trong
những con đường dẫn đến lạm phát của nền kinh tế là lạm phát qua con
đường tín dụng ; Ngân hàng với chức năng làm nhiệm của mình đã sử
dụng các công cụ, chính sách sử dụng tiền tệ, ngăn chặn lượng tiền thừa
vào lưu thông, góp phần chống lạm phát . Ngân hàng vói tư cách là trung
tâm tiền tệ - tín dụng thanh toán, thông qua các nghiệp vụ của mình kiểm
soát các hoạt động của nền kinh tế, đưa các hoạt động của nền kinh tế
vào quĩ đạo chung . Ngân hàng xác định được hướng đầu tu vốn và đề ra
các biện pháp sủ lí những tác động xấu ảnh hưởng đến nền kinh tế, làm
cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục, góp phần điều hoà lưu thông
tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền kiềm chế lạm phát .
1.1.2 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại trong nền kinh
tế.
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là nghiệp vụ huy
động vốn và thực hiện các dịch vụ ngân hàng .
Nghiệp vụ huy động vốn
Đây là nghiệp vụ quan trọng của ngân hàng thương mại . Với chức
năng và nghiệp vụ của mình các ngân hàng thương mại đã tập trung huy
động các nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư
vào ngân hàng góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, bảo vệ giá trị của
đồng tiền, kiềm chế lạm phát .
Mặt khác trên cơ sở nguồn vốn huy động được, ngân hàng tiến hành
cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, cho các mục tiêu phát
triển kinh tế của địa phương và cả nước . Nghiệp vụ huy động vốn của
ngân hàng ngày càng mở rộng, tạo uy tín của ngân hàng ngày càng cao,
các ngân hàng chủ động trong hoạt động kinh doanh, mở rộng quan hệ
tín dụng với các thành phần kinh tế và các tổ chức dân cư, mang lại lợi
nhuận cho ngân hàng . Do đó các ngân hàng thương mại phỉ căn cứ vào

chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, của địa phương . Từ
đó đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp nhất là các nguồn vốn
trung, dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước .
Nghiệp vụ sử dụng vốn :
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp
vụ sử dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả cao, nâng cao vai trò uy tín
của ngân hàng, tăng cương sự cạnh tranh của ngân hàng trên thị
trường . Do vậy các ngân hàng phải thường xuyên bám vào các mục tiêu
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đưa ra các hình thức đầu tư đúng
đắn, có hiệu qủ, phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, nhu cầu sử
dụng vốn của xã hội, thực hiện cho vay theo các dự án đầu tư, các
chương trình phục hồi sản xuất .
Ngân hàng thực hiện đầu tư cho vay có hiệu quả, góp phần vào mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho
người lao động, góp phần vào mục tiêu xoá đói, giảm nghèo, chuyển dịch
cơ cấu của nền kinh tế, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của các
ngành các vùng kinh tế .
Nghiệp vụ sử dụng vốn có hiệu quả, gops phần mở rộng quan hệ tín dụng
với các thành phần kinh tế, thu hút được nhiều khách hàng đến quan hệ
giao dịch với ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng nghiệp vụ
huy động vốn.
Nghiệp vụ trung gian
Thực chất nghiệp vụ trung gian là ngân hàng cung ứng các dịch vụ
phục vụ khách hàng xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ các ngân hàng
thương mại thực hiện các lệnh chi trả, các dịch vụ do các chủ tài khoản
yêu cầu, trên cơ sở đó ngân hàng thu phí dịch vụ . Ngày nay do nhu cầu
phát triển của nền kinh tế đòi hỏi hoạt động dịch vụ ngân hàng ngày càng
mở rộng về số lượng và chất lượng . Các ngân hàng đầu tư các trang
thiết bị, cơ sở vật chất áp dụng các công nghệ tiên tiến vào hoạt động

ngân hàng, thực hiện tốt khâu thanh toán không dùng tiền mặt như uỷ
nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thanh toán séc, thanh toán bù trừ, thực hiện
chuyển tiền nhanh qua mạng máy vi tính, thực hiện thanh toán qua thẻ
tín dụng .
Thực hiện tốt khâu dịch vụ góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng,
xu hướng nguồn thu về dịch vụ ngày càng tăng và chiếm một tỷ lệ lớn
trong tổng thu về kinh doanh của ngân hàng . Đồng thời góp phần phần
làm tăng chu chuyển của nguồn vốn, tiết kiệm vốn trong quá trình thanh
toán, làm giảm khối lượng lưu thông bằng tiền mặt, tiết kiệm được các
chi phí in ấn, kiểm đếm tiền ....
Ngân hàng thực hiện tốt khâu dịch vụ, thanh toán, thu hút được
nhiều khách hàng đến giao dịch với ngân hàng . Từ đó tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác huy động vốn và cho vay của ngân hàng .
Các nghiệp vụ hoạt động của ngân hàng thương maị có mối quan hệ
mật thiết hữu cơ, làm tiền đề, điều kiện cho nhau, các ngân hàng thương
mại phải thực hiện tốt, đồng bộ tất cả các nghiệp vụ hoạt động, thực sự
đóng vai trò quan trọng và trở thành công cụ không thể thiếu trong nền
sản xuất hàng hoá nói riêng và trong nền kimh tế thị trường nói chung
1.2 Huy động vốn của ngân hàngthương mại trong nền kimh
tế
1.22 Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế
Nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ chủ yéu của ngân hàng thương mại.
Việc đưa ra các hình thức huy động phù hợp, linh hoạt là điều rất cần
thiết của các ngân hàng thương mại. Có như vậy mới khai thác được các
nguồn vốn tuì các thành phần kinh tế các doanh nghiệp và cá nhân. Các
hìmh thức huy đoọng vốn có ảnh hưởng đêns khối lượng vốn thu hút vào
ngân hàng. Vì vậy sử dụng linh hoạt và kết hợp các hình thức huy động
vốn sẽ thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền vào ngân hàng.
Nguồn vốn huy động vào ngân hàng thuơng mại bao gồm các nguồn vốn

chủ yếu
-Nhận tiền gửi của khách hàng
-Vốn đi vay
1.221 Tiền gửi của khách hàng
Tiền gửi của khách hàng đó là tiền gửi của các tổ chức kinh tế,
doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước và các định chê tài chính trung gian
cùng cá nhân trong nước và ngoài nước có quan hệ tiền gửi với ngân
hàng.
Tiền gửi của khách hàng được chia làm hai bộ phận: Tiền gửi của doanh
nghiệp, tổ chức kimh tế và tiền gưỉi tiết kiệm của dân cư .
Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổv chức kinh tế :
_ Tiền gửi không kỳ hạn :
Đây là khoản tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào và
ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng, thực chất đó là
khoản tiền gửi dùng để đảm bảo trong thanh toán .
Tiền gửi đảm bảo thanh toán được ký thác vào ngân hàng để thực hiện
các khoản chi trả về mua hàng hoá dịch vụ và thực hiện các khoản chi trả
khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh một cách thuận tiện
và tiết kiệm . Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi chờ thanh toán mà
không phải tiền để dành . Bởi vậy đối với khách hàng đây là một tài sản
mà họ ký thác uỷ nhiệm cho ngân hàng bảo quản và thực hiện các nghiệp
vụ liên quan theo yêu cầu của khách hàng . Do vậy khách hàng gửi tiền
không mất quyền sở hữu, cũng như quyền sử dụng số tiền đó . Họ có
quyền lấy ra hoặc chuyển nhượng cho bất kỳ ai . Khách hàng được sử
dụng số tiền của mình bằng các phương tiện thanh toán dùng để chi trả
như séc uỷ nhiệm chi . thư chuyển tiền ....
Đối với ngân hàng đây là một khoản nợ mà ngân hàng có nghĩa vụ
thực hiện lệnh thanh toán chi trả cho người thụ hưởng loại tiền gửi suất
này thường thấp hơn lãi suất trả cho tiền gửi có lãi khác. Nhưng khi
khách hàng mở và sử dụng các loại tài khoản này thì được ngân hàng

×