Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tổng quan về công ty tài chính thuộc tập đoàn và nghiệp vụ ủy thác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.12 KB, 28 trang )

Tổng quan về công ty tài chính thuộc tập đoàn và nghiệp vụ ủy
thác
1.1. Khái quát mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn và công ty tài
chính trong tập đoàn đó
1.1.1. Mô hình tổng công ty theo hướng tập đoàn
Dựa trên những giác độ nghiên cứu và phân tích khác nhau người ta
đưa ra một số định nghĩa khác nhau về tập đoàn kinh doanh. Đó là một thực
thể kinh tế thực hiện sự liên kết kinh tế giữa các thành viên là các doanh
nghiệp có quan hệ với nhau về công nghệ và lợi ích được gọi bằng các tên khác
nhau như: hiệp hội, liên hiệp, tổng công ty theo mô hình tập đoàn, tập đoàn
kinh doanh... Theo các tác giả của từ điển thương mại Anh Pháp Việt thì khái
niệm “Group” (tức tập đoàn) có thể hiều như sau: Một nhóm là một tập đoàn
kinh tế và tài chính gồm một công ty mẹ và các công ty khác mà nó kiểm soát
hay trong đó có nó tham gia. Mỗi công ty bản thân cũng có thể kiểm soát các
công ty khác hay tham gia các tổ hợp khác. Theo quan niệm này đặc trưng chủ
yếu của tập đoàn kinh doanh là cấu trúcvà sự kiểm soát của một công ty lớn
nhất (công ty mẹ ) trong tổ hợp các công ty đó.
Dưới giác độ của văn bản pháp luật, theo điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt
động của tổng công ty nhà nước ban hành tại nghị định số 39CP ngày 27-6-
1999, điều lệ ghi rõ:
“Tổng công ty nhà nước là doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn bao
gồm các đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài
chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị hoạt động trong một
hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính, do nhà nước thành lập
nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản
xuất để thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao; nâng cao khả năng hiệu quả kinh
doanh của các đơn vị thành viên và của toàn tổng công ty đáp ứng yêu cầu của
nền kinh tế”
Tổng quát các tập đoàn có ba loại hình tổ chức:
Loại hình thứ nhất: Quan hệ giữa các thành viên tương đối lỏng lẻo
thông qua các thoả thuận hoặc các cam kết hợp tác, trong hình thức này các


công ty thành viên tham gia tập đoàn có tính độc lập cao; thông thường cơ sở
tồn tại của loại hình tập đoàn này là các thoả thuận hoặc hợp đồng tạo ra sự
liên kết mèm giữa các thành viên để tăng thêm lợi thế cho nhóm các thành viên
đó.
Loại hình thứ hai: Mối liên kết giữa các thành viên rất chặt chẽ, mức độ
phụ thuộc lẫn nhau cao, các đơn vị thành viên bị hạn chế tính độc lập, cơ sở
kinh tế của sự liên kết chặt chẽ trong nội bộ tập đoàn là quyền sở hữu giữa các
công ty thành viên có sự nắm giữ cổ phiếu của nhau hoặc có một công ty mạnh
nhất chi phối cả tập đoàn.
Loại hình thứ ba: Do sự phát triển cao của thị trường tài chính, hình
thành kiểu tập đoàn có hạt nhân liên kết là công ty tài chính. Công ty mẹ
(Holding Company) là công ty tài chính nắm giữ cổ phần chi phối của các công
ty con. Sự phát triển cao của thị trường tài chính và công nghệ thông tin cho
phép một công ty chi phối một hoặc nhiều công ty khác thông qua quyền sở
hữu cổ phiếu do vậy các công ty trong tập đoàn không nhất thiết phải có mối
liên hệ về sản phẩm hay công nghệ kỹ thuật.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về thành lập các tổng công
ty theo quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 7/3 /1994 của thủ tướng chính
phủ, cả nước đã có 92 tổng công ty lớn trong đó có 17 tổng công ty 91 là các
tổng công ty được thành lập thí điểm xây dựng theo mô hình tập đoàn kinh
doanh. Tuy nhiên có thể nhận thấy việc phát triển các tập đoàn kinh tế Nhà
nước ở Việt Nam còn rất mới mẻ và đang gặp nhiều khó khăn. Các tổng công ty
có sức cạnh trạnh quốc tế chưa cao, hàng hoá dịch vụ xuất khẩu rất khó khăn,
qui mô và tiềm lực so với các tập đoàn kinh tế tương tự của các nước là quá
nhỏ bé. Vì vậy có thể thấy giữa các tổng công ty hướng tập đoàn kinh doanh
của ta và các tập đoàn kinh tế còn có một khoảng cách khá xa. Một nguyên
nhân chủ yếu của tình trạng này là các tổng công ty không có đủ vốn thích hợp
để phát triển, để đổi mới công nghệ và mở rộng sản xuất. Do thị trường vốn
của ta còn rất sơ khai và kém phát triển, nguồn vốn từ nhà nước thì lại rất hạn
hẹp, nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại thì không đủ qui mô và chủ yếu

là ngắn hạn nên không đáp ứng đủ yêu cầu đầu tư và phát triển của các tổng
công ty. Công ty tài chính trong các tổng công ty ra đời với nhiệm vụ quan
trọng là điều hoà vốn trong tổng công ty và tạo lập, sử dụng nguồn vốn phù
hợp, hiệu quả nhất để phát triển tổng công ty.
1.1.2. Mô hình công ty tài chính trong tổng công ty
Tuy các ngân hàng là một tổ chức tài chính quan trọng nhất của các
trung gian tài chính nhưng các tổ chức tài chính phi ngân hàng ngày càng
đóng một vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn vốn từ những người cho
vay - người tiết kiệm tới những người vay- những người cần chi tiêu. Quá
trình đổi mới tài chính đã làm cho các tổ chức tài chính phi ngân hàng trở nên
quan trọng hơn rất nhiều. Các tổ chức này ngày nay cạnh tranh trực tiếp hơn với
các ngân hàng qua các dịch vụ tương tự như hoạt động của ngân hàng.
Những năm đầu của thế kỷ 20 các trung gian tài chính phi ngân hàng,
trong đó có công ty tài chính được hình thành trên cơ sở chuyên môn hoá một
số hoạt động của ngân hàng nhằm khắc phục, hạn chế các khiếm khuyết của
các ngân hàng thương mại và đa dạng hoá các định chế tài chính trong nền
kinh tế thị trường. Trong sự phát triển của các tổ chức tài chính phi ngân hàng
các công ty tài chính ngày càng khẳng định vị thế và vai trò của mình như một
định chế tài chính không thể thiếu trong nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Công ty tài chính là một tổ chức tài chính trung gian mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là:
- Thu hút vốn bằng cách phát hành thương phiếu, trái phiếu và cổ phiếu.
- Cho vay chủ yếu la trung và dài hạn
- Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua
- Cầm cố các loại hàng hoá, vật tư, ngoại tệ, các giấy tờ có giá và các vật
bảo đảm khác
- Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh vàng bạc, đá quý, mua bán chuyển
nhượng chứng khoán
Cho đến thập kỷ 70, có 3 loại hình công ty tài chính hoạt động phổ biến
là tài trợ tiêu dùng, tài trợ bán lẻ,và tài trợ thương mại.Từ thập niên 80 trở

lại đây, các công ty tài chính không ngừng thực hiện đa dạng hoá hoạt động
kinh doanh trên nhiều lĩnh vực như thuê mua, đầu tư tài chính, phát hành và
kinh doanh chứng khoán,.. đồng thời thực hiện sáp nhập, thôn tính lẫn nhau
để tạo thành các công ty tài chính có qui mô hoạt động lớn, nâng cao sức
cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh.
Hoạt động của các công ty tài chính là rất đa dạng và phong phú nhưng
nhìn chung có thể phân loại như sau:
Căn cứ vào các hoạt động nghiệp vụ, công ty tài chính được chia thành:
+ Các công ty tài chính bán hàng: cho những người tiêu dùng vay để
mua các hàng hoá từ một nhà bán lẻ hoặc một nhà sản xuất khác. Các công ty
tài chính bán hàng trực tiếp cạnh tranh với các ngân hàng về cho vay tiêu
dùng và được người tiêu dùng sử dụng vì các món vay thường được thực
hiện nhanh hơn và tiện lợi hơn tại nơi mua hàng.
+ Các công ty tài chính người tiêu dùng: cho người tiêu dùng vay để
mua những món hàng riêng, ví dụ như đồ đạc và các dụng cụ gia đình để cải
thiệ nhà cửa hay để giúp thanh toán các món nợ nhỏ.
+ Các công ty tài chính kinh doanh: cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt
cho các doanh nghiệp bằng cách mua những khoản tiền sẽ thu có chiết khấu;
việc cung cấp các tín dụng này được gọi là bao thanh toán. Ngoài ra, các công
ty tài chính kinh doanh cũng chuyên môn hoá trong việc cho thuê thiết bị là
những thứ công ty mua sau đó cho các nhà kinh doanh thuê một số năm.
Căn cứ vào quan hệ về sở hữu, các công ty tài chính được chia thành:
+ Các công ty tài chính độc lập thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh
như: nghiệp vụ tín dụng (cho vay và bảo lãnh cho các khách hàng thương mại
và sản xuất công nghiệp ); các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua; nghiệp vụ bao
thanh toán; kinh doanh tiền tệ; tư vấn tài chính...
+ Các công ty tài chính trong các tập đoàn kinh doanh tham gia chủ yếu
các hoạt động như: tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư để cung ứng cho các
thành viên trong tập đoàn; quản lý và đầu tư các khoản vốn chưa sử dụng
trong tập đoàn; quản lý các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, điều hoà vốn giữa

các thành viên; làm đầu mối và tư vấn cho tập đoàn, các công ty thành viên
trong quan hệ với các ngân hàng, các đối tác đầu tư; quản lý rủi ro và áp
dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro tài chính trong tập đoàn; cung cấp các
dịch vụ tư vấn tài chính khác...
Sự khác biệt cơ bản giữa các ngân hàng thương mại và các công ty tài
chính là các ngân hàng có nhận tiền gửi thường xuyên trong khi các công ty
tài chính thì sử dụng vốn tự có để cho vay và đầu tư, không nhận tiền gửi của
dân chúng và các tổ chức với thời hạn ngắn và dưới hình thức mở tài khoản,
không thực hiện dịch vụ thanh toán và sử dụng vốn vay để làm phương tiện
thanh toán trong khi đó quá trình trung gian tài chính của các công ty tài
chính được mô tả rằng họ vay những món tiền lớn nhưng lại thường cho vay
các món tiền nhỏ, một quá trình hoàn toàn khác với quá trình trung gian của
các ngân hàng thương mại. Chính vì vậy quá trình cho vay của các công ty tài
chính đặc biệt thích hợp với các nhu cầu của các doanh nghiệp và người tiêu
dùng. Tuy vậy, trong các quốc gia có nền kinh tế phát triển, do yêu cầu mở
rộng phạm vi hoạt động nên các công ty tài chính đều muốn mở rộng và đa
dạng hoá các nghiệp vụ để phục vụ khách hàng của mình nhiều hơn dẫn đến
sự phân chia giữa các tổ chức ngân hàng và các công ty tài chính ngày càng
mờ nhạt.
Các công ty tài chính đang ngày càng phát triển và là một định chế tài
chính không thể thiếu của mỗi quốc gia. Các công ty tài chính có một lợi thế là
họ không gặp phải một hạn chế nào từ phía chính phủ về việc mở chi nhánh,
về những tài sản mà họ có và cách thức huy động vốn. Việc không có hạn chế
giúp cho các công ty tài chính có thể làm phù hợp một cách tốt hơn các món
vay của họ với những nhu cầu của khách hàng hơn là các tổ chức ngân
hàng.Thông qua các công ty tài chính các nguồn vốn nhỏ hệp trong dân cư có
thể được tập trung lại phục vụ cho nhu cầu về vốn của đất nước cũng như các
hoạt động đầu tư dài hạn khác.
Các công ty tài chính trong tập đoàn là sản phẩm tất yếu của thị trường
và là bước phát triển cao hơn của các tập đoàn kinh doanh, góp phần làm đa

dạng hoá các dịch vụ tài chính và các loại hình tổ chức tín dụng. Sự ra đời của
các công ty tài chính làm tăng thêm nguồn vốn huy động, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn trong tập đoàn và nhất là phát huy triệt để sức mạnh của tập
đoàn trên thị trường tài chính trong và ngoài nước.
Các công ty tài chính trong tập đoàn được thành lập với mục đích ban
đầu là cung cấp các dịch vụ tài chính trợ giúp cho các hoạt động kinh doanh
chủ yếu của tập đoàn như tài trợ bán hàng, huy động vốn tập trung, quản lý
vốn đầu tư ủy thác, điều hoà vốn nhàn rỗi, tư vấn và làm đại lý phát hành trái
phiếu trên thị trường tài chính...; sau đó các công ty tài chính đã từng bước
đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, mở rộng đối tượng phục vụ ra bên ngoài
tập đoàn như cho khách vay để mua hàng hoá do tập đoàn sản xuất, cho các
doanh nghiệp trong cùng ngành kinh tế - kỹ thuật vay vốn, cung cấp các dịch
vụ bảo hiểm, tài chính, kinh doanh địa ốc...
Sở hữu vốn của công ty tài chính là sở hữu hỗn hợp nhưng có một chủ
đóng vai trò khống chế, chi phối về tài chính. Tập đoàn tiến hành hoạt động
và quản lý tập trung một số mặt như huy động, điều hoà, quản lý vốn; nghiên
cứu triển khai; đào tạo; xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược thị
trường, chiến lược sản phẩm, chiến lược đầu tư...
Các công ty tài chính chiếm một vị trí quan trọng thiết yếu trong dây
chuyền vốn - tín dụng của các tập đoàn, là trung gian tài chính-cầu nối giữa
tập đoàn với thị trường tài chính. Một nguồn vốn kinh doanh quan trọng của
các công ty tài chính là nguồn vốn được cấp hoặc đi vay từ tập đoàn và các
công ty thành viên; đồng thời doanh thu từ các hoạt động tài trợ để mua
hàng hóa do tập đoàn sản xuất, cho các đơn vị thành viên trong tập đoàn vay,
chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng doanh thu của các công ty tài chính.
Trong qua trình hoạt động, các công ty tài chính trong tập đoàn thường
phát triển theo hai xu hướng:
- Một là: phát triển trở thành một tổ hợp các công ty gồm công ty mẹ và
các công ty con phần lớn mang họ của công ty mẹ. Công ty mẹ chi phối các
công ty con về mặt tài chính và chiến lược thông qua quyền biểu quyết do sở

hữu một phần khống chế trong tổng cổ phần đang lưu hành của công ty con.
- Hai là: hình thành các công ty tài chính độc lập trực thuộc tập đoàn, có
chức năng hoạt động giống nhau nhưng kinh doanh trên trên các vùng địa lý
khác nhau; hoặc có chức năng hoạt động khác nhau nhưng cùng hoạt động
trên cùng một địa bàn.
Là thành viên trong tập đoàn nên các công ty tài chính có nhiều lợi thế
nhờ hiểu được rõ các đặc tính kinh tế -kỹ thuật của tập đoàn, các mối quan hệ
trong nội bộ tập đoàn; có khả năng tiếp cận nhiều nguồn thông tin với chi phí
thấp để nắm bắt hoạt động ản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên; từ
đó rút ngắn thời gian và chi phí thẩm định so với các tổ chức tín dụng khác.

1.2. Nghiệp vụ ủy thác
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của nghiệp vụ ủy thác
Nghiệp vụ ủy thác có nguồn gốc, xuất xứ từ rất lâu, gần như là cùng với
sự hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại.
Trong thời kỳ sơ khai của nền kinh tế thị trường, đã có những nhà buôn,
địa chủ hay thợ kim hoàn,.. là những người có tiền và phát sinh nhu cầu được
bảo đảm an toàn về những khoản tiền hay tài sản của mình. Từ đó xuất hiện
những người giầu hơn hay có khả năng, được kính trọng hơn những người
khác đứng ra giữ hộ của cải của người khác và nhận được một khoản tiền phí
nhất định của những người gửi,khi đó nghiệp vụ ủy thác nảy sinh. Sau đó
những người này nhận thấy có thể lợi dụng tiền của mọi người để cho vay
những người có nhu cầu và có lợi hơn nhiều so với nhận phí và do vậy từ việc
nhận phí họ đã tiến tới trả cho những người gửi tiền một khoản để thu hút
tiền gửi và hình thành những ngân hàng thương mại sơ khai. Vậy có thể thấy
nghiệp vụ ủy thác đã xuất hiện từ rất sớm tuy rằng còn sơ khai và khác nhiều
so với ngày nay.
Dễ thấy, ban đầu nghiệp vụ ủy thác dựa trên cơ sở sự tin tưởng lẫn nhau
giữa những người có quan hệ ủy thác. Vì vậy trong tiếng Anh có thuật ngữ
“Trust” (có nghĩa là đúng, tín nhiệm, tin tưởng ) được sử dụng để chỉ tới

nghiệp vụ ủy thác và nó đã cho thấy bản chất của nghiệp vụ ủy thác là nghiệp
vụ được thực hiện trên cơ sở của sự tin tưởng và sự tín nhiệm lẫn nhau giữa
các bên trong xã hội.
Ban đầu, nghiệp vụ ủy thác đa số chỉ xuất hiện trong những quan hệ cá
nhân với cá nhân và dựa nhiều vào sự tin tưởng mang tính cá nhân cao giữa
hai bên. Cá nhân có tài sản trên cơ sở nhận thấy một người khác có uy tín cao,
có khả năng đảm bảo an toàn hay có khả năng làm cho tài sản của mình sinh
lợi sẽ giao cho người đó tài sản của mình để quản lý hay kinh doanh hộ mình.
Người có tài sản thì có thể an tâm về số tài sản của mình không lo bị cướp hay
thất lạc và trong một số trường hợp họ còn có thể nhận được một khoản lợi
nhuận nhỏ. Trong khi đó thì người nhận quản lý tài sản vừa có thể nâng cao
được uy tín của mình vừa nhận được một khoản phí hay có thể mang tài sản
đó ra kinh doanh sinh lời (nếu chủ sở hữu đồng ý ) tuy trong giai đoạn đầu thì
loại hình này ít khi xảy ra. trong giai đoạn này thì ủy thác được hiểu là việc bảo
đảm, quản lý hộ tài sản của người khác và được tiến hành dựa trên cơ sở sự
tin tưởng cá nhân giữa hai bên.
Ngay từ giai đoạn này của nghiệp vụ ủy thác thì đối tượng của các hợp
đồng ủy thác đã khá đa dạng bao gồm tiền, nhà đất, vàng bạc, đồ trang sức,...
và có đặc điểm rất quan trọng là chưa có sự tham gia của luật pháp mà chỉ là
sự thoả thuận miệng giữa hai bên tham gia ủy thác trên cơ sở tin tưởng và hai
bên cùng có lợi.
Dần dần cùng với sự phát triển của sản xuất, nghiệp vụ ủy thác có nhiều
thay đổi. Lúc này, không chỉ còn là mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau mà
còn là mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức hay giữa tổ chức với tổ chức.
Trong kinh tế thị trường xuất hiện nhu cầu của các công ty có lượng vốn nhàn
rỗi, hay có tài sản chưa sử dụng mong muốn tài sản của mình gặp ít rủi ro nhất
hay mong sinh lời một cách hợp lý đã tìm đến những người có khả năng đáp
ứng một cách tốt nhất những đòi hỏi đó. Khi đó nghiệp vụ ủy thác phát triển
tới một mức độ cao, xuất hiện những tổ chức chuyên nghiệp cung ứng dịch vụ
ủy thác cho toàn xã hội và lúc này hoạt động ủy thác không còn đơn thuần là

quản lý tài sản để nhận phí mà chuyển sang chủ yếu là lĩnh vực quản lý tài sản
nhằm sinh lời và thực hiện các công việc mà khách hàng yêu cầu.
Trong giai đoạn phát triển này, các loại hinh tổ chức tín dụng đã phát
triển mạnh mẽ với hàng loạt các công ty mới như công ty bảo hiểm, các quỹ
tiết kiệm tín thác dành cho người nghèo... Với đặc điểm khách hàng đến với
công ty bảo hiểm luôn e ngại với các rủi ro mà họ có thể gặp phải, các công ty
bảo hiểm đã nhanh chân hơn các tổ chức tín dụng khác trong việc phát triển
nghiệp vụ ủy thác cho phép khách hàng có thể yên tâm về sự an toàn của các
tài sản của họ khi ủy thác chúng cho công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, nghiệp vụ ủy
thác của công ty bảo hiểm chỉ được phép dừng ở mức độ quản lý tài sản để
hưởng phí chứ chưa nghĩ tới việc sử dụng chúng để sinh lợi.
Trong khi đó thì hệ thống các quỹ tín thác dành cho người nghèo đã nghĩ
tới việc sinh lợi cho tài sản của khách hàng khi thực hiện thu gom những đồng
tiền nhỏ bé của người nghèo tập trung lại và ủy thác cho người quản lý quỹ để
gửi ngân hàng lấy lãi hay đầu tư vào chứng khoán để sinh lợi. Lãi thu được sẽ
chia theo tỷ lệ tiền gửi của từng người. Quỹ này trao cho những người nghèo
một cơ hội sinh lợi từ số tiền nhỏ bé của họ, hình thức này được coi như sự
phát triển bậc thấp của dịch vụ ủy thác vốn.
Ngân hàng tuy có chậm hơn trong việc phát triển nghiệp vụ ủy thác
nhưng lại là tổ chức thực hiện mạnh nhất và trong những năm 50 của thế kỷ
20 nghiệp vụ ủy thác được coi là chìa khóa mở ra các hướng hoạt động mới
của ngân hàng thương mại trong tương lai. Tại ngân hàng, các tài khoản ủy
thác thường được chia rõ tài khoản nào được phép mang ra đầu tư, cho vay
tài khoản nào chỉ được phép quản lý.
Với sự đa dạng của các tổ chức có thực hiện nghiệp vụ ủy thác thì những
người có nhu cầu đã có thêm nhiều phương hướng lựa chọn để họ có thể lựa
chọn được người nhận ủy thác phù hợp với yêu cầu của họ nhất.
Khi nền kinh tế thị trường phát triển tới đỉnh cao kéo theo sự phát triển
của mọi mặt và sự phân công lao động sản xuất làm xuất hiện nhiều ngành
nghề mới với sự chuyên môn hóa cao Đặc trưng của kinh tế thị trường là tự

do cạnh tranh, tự do sản xuất, tự do kinh doanh và tự do mậu dịch. Sự phát
triển của nghiệp vụ ủy thác cũng vậy, tự những hình thức sơ khai ban đầu, dần
dần các nghiệp vụ đã được hoàn thiện, phát triển thành nhiều loại hình mới
như ủy thác công việc, ủy thác hàng hoá xuất nhập khẩu,... mà trong đó ủy thác
vốn ngày càng trở nên quan trọng và thu hút được nhiều sự quan tâm của
khách hàng. Vốn cũng là một loại hàng hóa và có cung, cầu cùng một mức giá
cả cho quyền sử dụng vốn. Vì vậy thị trường vốn đã được tạo lập và ngày càng
phát triển các công cụ vốn đa dạng, phức tạp. Kinh tế càng phát triển càng có
nhiều luồng vốn dịch chuyển trong nước và quốc tế, từ đó xuất hiện nhu cầu
những tổ chức chuyên môn với hiểu biết chuyên sâu và khả năng nắm vững
những công cụ vốn để phục vụ cho thị trường này, đó là trung gian tài chính.Hệ
thống các tổ chức này càng lành mạnh và hoàn chỉnh thì thị trường vốn càng
có hiệu quả, đóng vai trò đòn bẩy kinh tế, tạo chất xúc tác cho các phản ứng
dây chuyền phát triển nền kinh tế, theo cách này các trung gian tài chính có thể
giúp thúc đẩy nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn.
Theo truyền thống thì các ngân hàng thương mại là trung tâm hội tụ các
nguồn cung cầu về vốn và là trung gian tài chính quan trọng nhất. Tuy vậy,
càng ngày vai trò này càng được chia sẻ cho các tổ chức tài chính trung gian
khác như: Cong ty đầu tư, Công ty tín dụng thuê mua, quỹ đầu tư và phát triển,
quỹ đầu tư tương hỗ,... Những trung gian tài chính thu được lợi nhuận bằng
việc đặt một lãi xuất cao hơn cho các món cho vay so với món lãi họ thanh toán
cho vốn mà họ vay từ người cho vay. Như vậy, do hoạt động trong quá trình tài
chính gián tiếp, những trung gian tài chính có thể làm lợi cho phần lớn những
người có món tiết kiệm nhỏ bằng việc đem lại cho họ thu nhập tiền lãi cao và
có thể giúp cho người vay món nhỏ nay có thể vay được tiền vốn mà họ không
có cách nào khác để có được (điển hình là công ty tài chính chuyên vay món
tiền lớn để chovay các khoản nhỏ với thời hạn dài). Những người vay các món
tiền lớn cũng hưởng lợi bởi vì quá trình trung gian tài chính có nghĩa là có
được nhiều vốn hơn cho người vay trong thị trường tài chính. Không có trung
gian tài chính thị trường tài chính không thể có lợi ích trọn vẹn.

Khách hàng cung cấp vốn cho các trung gian tài chính này là những
người, những tổ chức có số tiền dư thừa, chưa được mang ra sử dụng. Những
người này mong muốn số tiền này sinh lời nhưng lại e ngại có thể mắc phải rủi
ro. Họ có thể gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng, hay mua trái phiếu, tín phiếu của
chính phủ vì đây là cách để đồng tiền của họ có thể sinh lời với mức an toàn
cao nhất có thể. Nhưng cũng có những người mong muốn một mức lợi nhuận
cao hơn dù phải gánh chịu rủi ro cao hơn bàng cách đầu tư trực tiếp vào các
dự án hay thị trường chứng khoán. Tuy nhiên nếu theo phương pháp này thì
nhà đầu tư phải tự mình gánh chịu hoàn toàn rủi ro, phải tự đi thu nhận các
thông tin cần thiết. Và đôi lúc lợi nhuận các nhà đầu tư nhận được không đủ
cho các chi phí mà họ đã phải bỏ ra.
Nhằm trung hoà hai thái cực này, thoả mãn những người mong muốn có
lợi nhuận không quá thấp và rủi ro phải chịu không quá lớn thì ngiệp vụ ủy
thác có thể được coi là một giải pháp tốt. Từng chứng minh được lợi ích của
mình khi thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ ủy thác với các loại hàng hoá thông
thường hay các công việc mà khách hàng tin cậy giao phó, chuyển sang thực
hiện ủy thác vốn của các khách hàng nghiệp vụ này của các trung gian tài
chính tỏ ra có sức thuyết phục lớn. Những người có tiền hay tài sản nhàn rỗi
hay tạm thời nhàn rỗi thì họ có thể sử dụng phương pháp ủy thác đầu tư
chứng khoán thông qua các tổ chức trung gian hay ủy thác tài sản bằng tiền để
đầu tư vào các công trình, dự án của một công ty cụ thể hoặc cho tổ chức tín
dụng đầu tư hộ mình. Với phương pháp ủy thác thông qua tổ chức tín dụng,
những cá nhân hay tổ chức có vốn dư thừa chưa sử dụng có thể an tâm vì với
những món tiền ủy thác này, các tổ chức tín dụng có thể tập hợp lại thành một
món tiền lớn và dung nó đầu tư, kinh doanh sinh lời vì họ là những người am
hiều đối với việc cho ai vay hay mua loại chứng khoán nào hay đầu tư vào dự
án nào là có lợi nhất và lợi thế tiết kiệm chi phí nhờ qui mô.Như vậy nghiệp vụ
ủy thác đã tiến tới quản lý vốn và tài sản để sinh lời cho khách hàng và bản
thân tổ chức nhận ủy thác.
Tuy ngày nay trên thế giới các ngân hàng thương mại luôn là tổ chức

thực hiện nghiệp vụ ủy thác với qui mô lớn và dành cho nó sự quan tâm nhiều
nhất nhưng càng ngày càng có nhièu tổ chức trung gian tài chính khác quan
tâm nhiều hơn tới nghiệp vụ này trong đó phải kể tới các công ty tài chính độc
lập và các công ty tài chính trong các tập đoàn lớn. Các tập đoàn lớn sản xuất
kinh doanh nay đã quan tâm nhiều hơn tới việc thực hiện nghiệp vụ ủy thác,
các tập đoàn thường đóng vai trò người ủy thác và giao vốn cho công ty tài
chính thuộc tập đoàn mình hoặc cho một tổ chức tín dụng thực hiện việc đầu
tư kinh doanh hộ. Các công ty, tập đoàn lớn cũng có thể lựa chọn phương pháp
ủy thác vốn trực tiếp vào các cơ sở. Tuy nhiên hình thức này không nhiều vì
không phải công ty hay tập đoàn nào cũng có đủ thông tin cần thiết hay có khả
năng quản lý bao quát hết mọi việc, cũng như không phải bất cứ thành phần
kinh tế nào cũng được pháp luật cho phép nhận ủy thác.
Và hiện nay ở nước ta, nghiệp vụ ủy thác đang được hy vọng nhiều vào
việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như giúp cac doanh nghiệp cần vốn
có nhiều cơ hội hơn trong việc thu hút nguồn vốn. Nghiệp vụ ủy thác không chỉ
mang lại lợi ích cho hai bên ủy thác và nhận ủy thác mà cả Nhà nước cũng
được hưởng lợi trong nghiệp vụ này. Với các khoản ủy thác từ nước ngoài đầu
tư vào các doanh nghiệp trong nước, Nhà nước thu được thuế như đối với các

×