Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG TMCP NHÀ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.63 KB, 24 trang )

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG TMCP NHÀ HÀ NỘI
2.1 Khái quát về ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội
2.1.1 Lịch sử hình thành và hoạt động
Habubank là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên ở Việt Nam được
thành lập từ năm 1989 với mục tiêu ban đầu là hoạt động tín dụng trong lĩnh
vực phát triển nhà. Tiền thân của Habubank là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam kết hợp với các cổ đông bao gồm Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà
Nội và một số doanh nghiệp quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực xây dựng,
quản lý nhà và du lịch.
Ngày 2 tháng 1 năm 1989, Habubank khai trương hoạt động tại số 125 Bà
Triệu, Hà Nội với tên gọi là “NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ HÀ NỘI”.
Với số vốn điều lệ ban đầu là 5 tỷ đồng, Habubank được phép kinh doanh các
sản phẩm và dịch vụ ngân hàng trong 99 năm.
Tháng 10 năm 1992, Ngân hàng được phép thực hiện thêm một số hoạt
động kinh doanh ngoại tệ gồm tiền gửi, tiết kiệm, vay và tiếp nhận, cho vay,
mua bán kiều hối, thanh toán ngoại tệ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Cùng
với đó, Ngân hàng cũng được đổi tên thành “NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN NHÀ HÀ NỘI”. Cơ cấu cổ đông của Ngân hàng cũng được mở rộng
với sự tham gia của các cá nhân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Trong suốt 20 năm hoạt động của mình, với 16 thành viên tham gia từ
ngày đầu, đến nay số lượng nhân viên Habubank toàn hệ thống đã lên tới hơn
1000 người, ngân hàng không ngừng phát triển và lớn mạnh qua từng năm
tháng. Mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch liên tục được mở rộng.
Habubank đã ngày càng chứng tỏ thương hiệu, hình ảnh, vị thế của mình trên
thị trường trong và ngoài nước. Bên cạnh các lỗ lực trong hoạt động kinh doanh,
Habubank cũng đã đạt được nhiều danh hiệu trong những năm qua với 3 năm
liền được tạp chí The Banker bầu chọn là “Ngân hàng Việt Nam của năm”,
Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, huân chương lao động hạng 3, và 9 năm
liên tục được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xếp loại A. Để đạt được mục tiêu
đó, Ban lãnh đạo cũng như toàn bộ cán bộ nhân viên ngân hàng phải thật sự


đoàn kết và nỗ lực, vượt qua những khó khăn, giữ vững tốc độ tăng trưởng ổn
định, giữ được niềm tin của khách hàng, các cổ đông, đối tác và nhà đầu tư.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức
2.1.3 Tinh hình hoạt động kinh doanh của Habubank
Trong những năm trở lại đây, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội đặc biệt chú
trọng đến việc củng cố năng lực tài chính, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân
hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh khi thị trường có khó khăn. Trong các
năm qua, vốn điều lệ của Habubank không ngừng được tăng lên. Từ 1.000 tỷ
đồng năm 2006 đã tăng lên đến 2.000 tỷ đồng năm 2007 và đến năm 2008 vốn
điều lệ của Ngân hàng đã đạt 2.800 tỷ đồng. Cùng với việc tăng vốn điều lệ, quy
mô tổng tài sản của Habubank cũng đã có những thay đổi lớn. Năm 2006, tổng
tài sản đạt 11.685 tỷ đồng đến cuối năm 2008 tổng tài sản của Ngân hàng đã
tăng lên 24.000 tỷ (tăng gấp hơn 2 lần).
Trong những năm qua, tình hình hoạt động kinh doanh của Habubank luôn
có chất lượng và có tốc độ tăng trưởng ổn định, bền vững qua các năm.
2.1.3.1 Huy động vốn
Trong 3 năm, từ 2006 đến 2008 tình hình kinh tế Việt Nam có nhiều biến
động điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình hoạt động của các doanh
nghiệp nói chung và hệ thống ngành ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên, Habubank
vẫn luôn đảm bảo tốt khả năng thanh khoản, đảm bảo đủ nguồn vốn phục vụ
hoạt động kinh doanh phát triển của Ngân hàng.
Bảng 2.1: Cơ cấu vốn của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005 2006 2007
Số tiền 05/04 Số tiền 06/05 Số tiền 07/06
Tổng nguồn
vốn
5.524.791 222,46% 11.685.318 211,51% 23.518.684 201,27%

Vốn chủ sở
hữu
391.464 256,48% 1.756.381 448,67% 3.179.345 181,02%
Tỷ trọng 7,09% 15,03% 13,52%
Nợ phải trả 5.133.327 9.928.937 193,42% 20.339.339 204,84%
Tỷ trọng 92,91% 84,97% 86,48%
(Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội năm 2006,
2007,2008)
Năm 2006, Habubank lần đầu tiên phát hành giấy tờ có giá để huy động
vốn trong nước. Sau thời gian ngắn toàn hệ thống huy động được 131 tỷ đồng
tại thời điểm ngày 31/12/2006. Bên cạnh việc triển khai các hoạt động nhằm
tăng cường huy động vốn từ tiết kiệm dân cư, Habubank cũng đẩy mạnh tiếp thị
và mở rộng quan hệ với các tổ chức kinh tế có nguồn tiền gửi lớn và các tổ chức
tài chính, ngân hàng để tăng cường vốn huy động.
Năm 2007, Habubank vẫn chú trọng đến việc phát hành giấy tờ có giá và
đã phát hành thành công 2 đợt kỳ phiếu USD cho Ngân hàng, đưa ra nhiều sản
phẩm mới có chất lượng. Ngoài ra, Habubank cũng đẩy mạnh công tác chăm
sóc khách hàng cũ, tiếp thị các doanh nghiệp mới để nâng cao số dư tiền gửi tại
Ngân hàng. Tổng huy động của Ngân hàng trong năm 2007 đạt 20.340 tỷ đồng,
tăng trưởng 105% so với năm 2006 và vượt 50% kế hoạch, trong đó huy động
tiết kiệm tăng 30,3%, huy động tiền gửi khách hàng tăng 299% và huy động từ
thị trường liên ngân hàng tăng 122,4%.
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu vốn năm 2007của Habubank
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2007 Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội)
Năm 2008, do ành hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới và
những khó khăn của nền kinh tế trong nước, Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội vẫn
an toàn vượt qua, tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn định và bền vững.
Tổng huy động của Habubank trong năm 2008 ước đạt 19.758 tỷ, so với năm
2007, huy động tiết kiệm từ dân cư tăng 37,3% .
2.1.3.2 Sử dụng vốn

 Cho vay khách hàng
Bảng 2.2: Tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu 2006 06/05 2007 07/06 2008 08/07
Tổng dư nợ cho
vay
6.087 183% 9.419 155% 10.516 111,6%
Tỷ trọng
100% 100% 100%
Cho vay ngắn hạn
4.285 186,5% 5.623 131,2% 6.078 108,1%
Tỷ trọng
70,4% 59,7% 57,8%
Cho vay trung và
dài hạn
1.801 174,5% 3.796 210,7% 4.438 116,9%
Tỷ trọng
29,6% 40,3% 42,2%
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2006,2007,2008 Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội)
Nhìn vào bảng trên ta có thể thấy tổng dư nợ của Habubank tăng dần qua
các năm với tốc độ khá cao. Nguyên nhân của việc tăng tổng dư nợ là do
Habubank đã không ngừng mở rộng mạng lưới hoạt động của mình. Năm 2006,
hệ thống mạng lưới của Habubank đã khai trương thêm 5 điểm giao dịch tại các
vùng kinh tế trọng điểm. Cùng với đó, Habubank còn tiếp tục phát triển, đưa ra
các chính sách tín dụng với lãi suất phù hợp để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của khách hàng một cách nhanh nhất. Habubank đã không ngừng mở rộng và
phát triển các dịch vụ cả về chiều sâu, trong đó dịch vụ cho vay khách hàng là
dịch vụ tạo ra nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng.
Năm 2007 được xem là năm thứ hai liên tiếp đánh dấu sự thành công vượt
bậc của Habubank về chiến lược phát triển nhanh, mạnh, hiệu quả và an toàn.

Tuy nhiên, mặc dù vẫn gia tăng về số tuyệt đối nhưng tốc độ tăng trưởng dư nợ
của Habubank có chiều hướng suy giảm. Đến năm 2008 tốc độ tăng trưởng dư
nợ cho vay thấp hơn so với những năm trước rất nhiều, giảm từ 183% năm 2006
xuống còn 111,6% năm 2008. Điều này là do những ảnh hưởng bất lợi từ những
khó khăn của nền kinh tế đất nước cũng như kinh tế thế giới trong năm 2008.
Trong tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng, tỷ trọng cho vay trung và dài
hạn đã tăng lên đáng kể qua các năm từ 2005 đến 2007 (từ 31% lên 40,3%), cho
thấy Habubank đang có xu hướng mở rộng tín dụng trung và dài hạn nhằm đảm
bảo mức lợi nhuận ổn định.
 Hoạt động đầu tư
Habubank đẩy mạnh kinh doanh giấy tờ có giá nhằm đa dạng hoá danh
mục đầu tư và là phương tiện hỗ trợ thanh khoản của Ngân hàng, đảm bảo an
toàn hoạt động. Tổng danh mục đầu tư giấy tờ có giá của Habubank năm 2007
đạt 2.411 tỷ đồng, tăng 64% so với năm 2006, trong đó chủ yếu là trái phiếu
Chính phủ và các loại chứng khoán nợ do các TCTD khác và các tập đoàn kinh
tế lớn phát hành.
Ngoài việc bổ sung vốn cho công ty chứng khoán trực thuộc Ngân hàng,
trong năm 2007, Ngân hàng cũng đầu tư thêm 138,46 tỷ đồng vốn dài hạn vào
các doanh nghiệp hoạt động tốt, có tiềm năng.
Về chứng khoán kinh doanh, tổng đầu tư chứng khoán kinh doanh của
Ngân hàng tới thời điểm 31/12/2007 là 77,74% tỷ đồng, tương đương 0,33%
tổng tài sản của Ngân hàng, trong đó hơn 90% là chứng khoán niêm yết.
 Kinh doanh ngoại tệ
Bên cạnh việc tăng cường hoạt động kinh doanh trên thị trường liên ngân
hàng, Habubank cũng đẩy mạnh việc mở thêm bàn thu đổi ngoại tệ tại địa bàn
Hà Nội và Hà Đông. Doanh số kinh doanh ngoại tệ trong năm 2006 đạt 3,63 tỷ
USD, tăng 2 lần so với năm 2005. Năm 2007, thị trường ngoại hối Việt Nam có
một số đặc điểm lớn: Cung ngoại tệ trên thị trường lớn, lượng đầu tư gián tiếp
tăng 6,5 lần so với năm 2006 và gây ra hiện tượng thừa ngoại tệ tại một số thời
điểm. Hoạt động chủ yếu của Habubank tập trung chủ yếu để đảm bảo cung cấp

cho các khách hàng thanh toán Quốc tế của Ngân hàng.
Năm 2005 lợi nhuận từ kinh doanh ngoại hối đạt 3,56 tỷ VNĐ, năm 2006
lợi nhuận thuần từ kinh doanh ngoại tệ đạt 1,17 tỷ đồng, đạt 117% kế hoạch,
đến năm 2007, thu từ kinh doanh ngoại tệ là 2,7 tỷ đồng, tăng gấp đôi so với
năm 2006.
2.1.3.4 Kết qủa kinh doanh của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
Bảng 2.3: Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005 2006 2007
Tổng doanh thu hoạt động kinh
doanh
488.911 986.246 2.248.179
Tổng chi phí hoạt động kinh doanh 371.031 707.174 1.702.501
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh 117.880 279.072 545.678
Tỷ lệ nợ quá hạn 1,1% 1,3% 2,5%
Lợi nhuận trước thuế 103.097 248.047 460.755
Lợi nhuận sau thuế 75.190 185.193 365.623
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006, 2007, 2008 của Ngân hàng
TMCP Nhà Hà Nội)
Trong những năm qua, tình hình hoạt động kinh doanh của Habubank luôn
giữ được tốc độ tăng trưởng rất cao về cả doanh thu và thu nhập sau thuế. Trung
bình, mỗi năm doanh thu của Habubank tăng 217% tức là tăng gấp đôi so với
năm trước. Lợi nhuận sau thuế của Habubank cũng tăng với tốc độ tương ứng
với doanh thu. Nguyên nhân của việc tăng doanh thu và lợi nhuận là do
Habubank đã mở rộng rất nhiều quy mô hoạt động từ việc vốn điều lệ tăng từ
1.000 tỷ năm 2006 lên 2.000 tỷ năm 2007.
Tuy nhiên ta cũng có thể thấy cùng với mức tăng doanh thu thì chi phí hoạt
động kinh doanh cũng tăng tương ứng, điều này cho thấy ở Habubank mới chỉ

có sự tăng trưởng về lượng chứ chưa có sự tăng trưởng về chất lượng hoạt động.
Tỷ lệ nợ quá hạn theo các năm đểu tăng cho thấy Habubank đang có vấn đề về
chất lượng các khoản cho vay. Do đó, Ngân hàng cần phải tìm cách nâng cao
hơn nữa chất lượng tín dụng của mình.
2.2 Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội trong thời gian qua
2.2.1 Thực trạng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Như ta đã biết, DNVVN là thành phần kinh tế năng động, linh hoạt đối với
sự thay đổi của thị trường. Hiện nay số DNVVN ở Việt Nam chiếm khoảng
97% tổng số doanh nghiệp nhưng vốn của các DNVVN chỉ chiếm khoảng 30%
tổng số vốn của các doanh nghiệp. Như vậy, tình hình vốn trong các DNVVN
còn gặp nhiều khó khăn và nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh là rất
lớn.

×