Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.07 KB, 28 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG
CHỨNG TỪ
1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức có vai trò quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Các ngân hàng thương mại có
mặt khắp nơi trên toàn thế giới, khách hàng của họ là cá nhân, hộ gia đình,
doanh nghiệp và thậm chí là cả Chính phủ.
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính có các nghiệp vụ chính
là nhận tiền gửi, cho vay và là trung gian thanh toán của nền kinh tế.
Định nghĩa trên cho thấy 3 chức năng chính của ngân hàng thương mại là:
trung gian tài chính, tạo phương tiện thanh toán và trung gian thanh toán. Các
ngân hàng thương mại thực hiện vai trò trung gian tài chính thông qua hút vốn
trong xã hội bằng cách phát hành các loại tiền gửi (tiền gửi thanh toán, tiền gửi
có kỳ hạn…), sau đó dùng vốn này để cho vay. Không chỉ như vậy, tổ chức này
còn phát hành giấy nhận nợ, do nó có một số ưu điểm nên chúng đã trở thành
phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Từ đó chức năng
tạo phương tiện thanh toán được thực hiện. Ngoài ra, để việc thanh toán diễn ra
một cách nhanh chóng và thuận tiện với chi phí thấp, ngân hàng còn cung cấp
cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm
chi, các loại thẻ… Vì vậy, họ không chỉ thanh toán được trong nước mà còn có
thể thanh toán được với đối tác nước ngoài thông qua các trung tâm thanh toán
quốc tế. Như vậy, chức năng cuối cùng là làm trung gian thanh toán đã được
ngân hàng thương mại thực hiện.
1.1.2 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại cung cấp rất nhiều sản phẩm, dịch vụ cho khách
hàng trong đó có một số hoạt động chính sau:
Cho vay: đây là hoạt động mang lại nguồn thu lớn nhất cho các ngân
hàng. Hoạt động này giúp cho những người thiếu vốn trong nền kinh tế có tiền
để tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
người dân... Ta có thể kể đến một số hình thức cho vay sau: chiết khấu thương


phiếu, tài trợ dự án, cho vay tiêu dùng...
Nhận tiền gửi: để có tiền cho vay ngân hàng đã cho ra đời nhiều hình thức
để huy động được tiền. Phương pháp phổ biến được các tổ chức tín dụng này áp
dụng đó là trả lãi cho các khoản tiền gửi để bù đắp cho khách hàng về việc họ
sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng hiện tại.
Mua bán ngoại tệ: ngân hàng có thể đứng ra mua bán ngoại tệ cho khách
hàng hoặc cho chính bản thân ngân hàng để được hưởng phí dịch vụ và chênh
lệch tỷ giá.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: ngân hàng sẽ
thực hiện thanh toán hộ cho doanh nghiệp và người dân khi họ có yêu cầu với
điều kiện đã mở tài khoản tại đây. Việc này không chỉ làm tăng số tiền mà ngân
hàng huy động được mà còn giúp cho khách hàng được hưởng thêm các tiện ích
khi không dùng tiền mặt (như an toàn, nhanh chóng, chính xác...).
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: nhu cầu chi tiêu của Chính phủ rất
lớn, trong khi đó ngân hàng thương mại lại có khả năng huy động vốn và cho
vay với khối lượng lớn. Do đó, muốn được thành lập thì các ngân hàng phải
chịu sự kiểm soát và cam kết tài trợ một phần cho các hoạt động của Chính phủ
khi có nhu cầu.
Một số hoạt động khác: bảo quản vật có giá, cho thuê, tư vấn, cung cấp
dịch vụ đại lý, bảo hiểm, môi giới đầu tư chứng khoán.
1.2 Thanh toán quốc tế
Mỗi quốc gia có điều kiện địa lý, tự nhiên, trình độ phát triển xã hội và
khoa học khác nhau, do đó sự phát triển kinh tế cũng như các nhu cầu của người
dân về cơ sở vật chất trong các quốc gia cũng khác nhau. Trước sự đòi hỏi ngày
càng phong phú về chất và đa dạng về lượng mà chỉ giới hạn ở mỗi một quốc
gia thì chắc chắn không thể đáp ứng đủ, hoạt động thương mại quốc tế trong đó
có thanh toán quốc tế đã ra đời.
1.2.1 Khái niệm thanh toán quốc tế
Xuất phát từ thực tiễn, các hoạt động trao đổi, buôn bán diễn ra thường
xuyên và ngày càng phát triển hơn. Ban đầu chỉ có nhà buôn tham gia vào hoạt

động này, họ tự thống nhất với nhau địa điểm, loại tiền hoặc vật chất trao đổi...
Sau đó có thêm các chủ thể khác mà có thể kể đến như các trung gian tài chính,
người vận chuyển, nhà bảo hiểm... Đặc biệt việc trao đổi giữa các quốc gia với
nhau làm phát sinh các khoản thu chi trong từng giao dịch, hoạt động này phụ
thuộc vào quy định thống nhất giữa hai nước, đó là: thanh toán quốc tế.
Vậy “thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền
hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa
các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác, hay giữa một
quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các
nước liên quan”.
Sự khác nhau lớn nhất giữa thanh toán quốc tế và thanh toán quốc nội
chính là yếu tố ngoại quốc: chủ thể tham gia thanh toán quốc tế nhất thiết phải
có ít nhất một bên là người không cư trú, tiền tệ được sử dụng là ngoại tệ đối
với một trong hai quốc gia; còn hàng hóa thì thông thường được luân chuyển ra
khỏi biên giới một quốc gia… Hơn nữa, hoạt động thanh toán quốc tế chứa
đựng nhiều rủi ro hơn so với hoạt động thanh toán quốc nội do hoạt động này
diễn ra trong một không gian lớn, thời gian thanh toán dài, liên quan đến nhiều
bên tham gia (ít nhất là hai quốc gia), chịu sự điều chỉnh của nhiều nguồn luật.
1.2.2 Các yếu tố cơ bản của thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là một hoạt động phức tạp, bao gồm nhiều bên tham
gia, nhiều cách thức, phương tiện thanh toán. Do đó để nghiên cứu kỹ hơn hoạt
động này ta cần tìm hiểu các yếu tố cơ bản có trong thanh toán quốc tế
1.2.2.1 Chủ thể tham gia thanh toán quốc tế
Hoạt động thanh toán quốc tế có các chủ thể sau tham gia vào quá trình
này đó là:
Ngân hàng trung ương đóng vai trò là người thay mặt Chính phủ ký kết
các hiệp định, điều ước quốc tế, luật quốc tế về tiền tệ và tín dụng. Đồng thời
đây cũng là Ngân hàng tổ chức, điều hành, quản lý các ngân hàng thương mại
trong hoạt động tiền tệ và thanh toán quốc tế.
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính quan trọng tham gia

vào hoạt động thanh toán quốc tế. Với mạng lưới rộng khắp trên toàn quốc, và
có mối quan hệ ngân hàng đại lý với hầu khắp các ngân hàng khác trên thế giới,
ngân hàng thương mại đóng vai trò là trung gian thanh toán, chuyển tiền cho các
bên tham gia. Ngoài ra, tổ chức tài chính này còn hỗ trợ, thúc đẩy thanh toán
quốc tế được diễn ra nhanh chóng hơn do họ có thể cho các hãng buôn, doanh
nghiệp xuất nhập khẩu vay tiền mua hàng hóa, hoặc đứng ra bảo lãnh cho bên
mua hàng để đảm bảo hoạt động thanh toán quốc tế diễn ra thuận lợi và ít rủi ro
hơn.
Ngoài hai chủ thể trên còn có các chủ thể khác như: pháp nhân, thể nhân
kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ... hãng bảo hiểm, vận tải... Tham
gia vào hoạt động thanh toán quốc tế họ sẽ là người ủy thác cho ngân hàng thu
hộ các khoản phải thu và chi hộ những khoản phải thu.
1.2.2.2 Tiền tệ chủ yếu sử dụng trong thanh toán quốc tế
*) Việc lựa chọn đồng tiền nào trong thanh toán quốc tế sẽ phụ thuộc vào
sự thỏa thuận của hai bên tham gia mua bán trao đổi hàng hóa với nhau. Tuy
nhiên để thống nhất thì nhất thiết phải phân loại tiền tệ trong thanh toán.
- Căn cứ vào phạm vi sử dụng tiền tệ thì chia thành:
Tiền tệ thế giới (World currency): là tiền tệ được tất cả các quốc gia trên
thế giới thừa nhận làm phương tiện thanh toán quốc tế và dự trữ quốc tế, mà
không cần có sự thừa nhận trong một văn bản, Hiệp định nào. Hiện nay chưa có
một đồng tiền nào có thể thay thế vàng đóng vai trò tiền tệ thế giới.
Tiền tệ quốc tế (International currency): là tiền tệ chung của một khối
kinh tế hay tiền của hiệp định quốc tế. Ví dụ: USD, SDR, EUR...
Tiền tệ quốc gia (National currency): là tiền tệ của một nước riêng biệt.
Ví dụ: VND, JPY, GBP...
- Căn cứ vào sự chuyển đổi tiền tệ thì chia thành:
Tiền tự do chuyển đổi (Free convertible currency): là đồng tiền của một
quốc gia này có thể đổi sang đồng tiền của quốc gia khác qua hệ thống ngân
hàng nước đó mà không cần giấy phép. Căn cứ vào 3 yếu tố: chủ thể chuyển
đổi, mức độ chuyển đổi, nguồn thu nhập tiền tệ mà có thể chia tiếp thành tiền tệ

tự do chuyển đổi toàn bộ và tự do chuyển đổi từng phần. Ví dụ: đồng tiền tự do
chuyển đổi toàn bộ như USD, EUR, CHF..., với Việt Nam đồng tiền tự do
chuyển đổi từng phần như THB, INR, KRW...
Tiền tệ chuyển khoản (Tranferable currency): là tiền tệ ghi trên tài khoản,
thông qua hệ thống tài khoản mở tại ngân hàng, tiền được chuyển từ tài khoản
này sang tài khoản khác khi có yêu cầu mà không cần giấy phép. Như vậy, tiền
tệ chuyển khoản chỉ có thể chuyển nhượng quyền sở hữu từ người này sang
người khác mà không thể tự do chuyển đổi sang đồng tiền khác.
Tiền tệ song biên (Clearing currency): là tiền tệ ghi trên tài khoản, được
quy định trong hiệp định thanh toán bù trừ được ký kết giữa Chính phủ hai nước
với nhau. Loại tiền này không được chuyển đổi cũng như chuyển khoản mà chỉ
được ghi Nợ và ghi Có, cuối năm sẽ tiến hành bù trừ. Bên nào dư Nợ sẽ phải trả
bên kia một khoản tiền, cách thức chi trả được quy định trong hiệp định đã ký
kết.
- Căn cứ vào hình thức tồn tại của đồng tiền thì chia thành:
Tiền mặt (Cash): là tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng trung ương
(hoặc Kho bạc nhà nước) của các quốc gia in ấn, phát hành. Tỷ trọng của loại
tiền này trong thanh toán quốc tế không đáng kể.
Tiền tín dụng (Credit currency): là tiền ghi sổ, tiền trên tài khoản. Loại
tiền này chiếm tỷ trọng rất lớn trong thanh toán.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng đồng tiền thì chia thành:
Tiền tính toán (Account currency): là tiền tệ được dùng để thể hiện giá cả
cũng như tổng giá trị của hợp đồng mua bán giữa các bên.
Tiền thanh toán (Payment currency): là tiền tệ được dùng để thanh toán
nợ hoặc thanh toán cho các hợp đồng đã được ký kết.
*) Đồng tiền nào được lựa chọn sử dụng trong thanh toán quốc tế là do sự
thỏa thuận giữa 2 bên mua – bán, tuy vậy còn bị phụ thuộc vào các nhân tố như:
tương quan so sánh trong quan hệ ngoại thương, vị trí của đồng tiền được lựa
chọn tại thời điểm giao dịch, và đặc biệt là tập quán sử dụng đồng tiền trong
việc mua bán một số mặt hàng – ví dụ: dầu thô thường sử dụng USD, kim loại

màu sử dụng GBP...
Nhìn chung trong thanh toán quốc tế bên nào cũng muốn chọn đồng tiền
của nước mình làm tiền tệ thanh toán bởi qua đó vị thế của đồng tiền nước mình
được nâng cao trên thị trường tiền tệ quốc tế. Hơn nữa việc này còn giúp cho
bên đó chủ động hơn trong việc thanh toán và giảm thiểu rủi ro khi tỷ giá ngoại
tệ biến động.
*) Trong bối cảnh hiện nay, giá cả các mặt hàng luôn thay đổi, cơ chế tỷ
giá thả nổi được hầu hết các quốc gia thực hiện do đó các khoản phải thu, phải
trả bằng ngoại tệ bị biến động. Để giảm thiểu rủi ro tỷ giá, để tránh việc giá trị
tiền tệ được nhận khác với giá trị hàng hóa đã trao, các bên tham gia thanh toán
có thể ký kết với nhau một trong các điều kiện đảm bảo hối đoái sau:
Điều kiện đảm bảo bằng vàng: hình thức thông dụng nhất là loại tiền tệ
đã được chọn để sử dụng trong thanh toán sẽ được đảm bảo bằng vàng, tức là
xác định giá vàng theo đồng tiền này. Như vậy khi giá vàng thay đổi thì giá
hàng hóa và tổng giá trị ghi trong hợp đồng mua bán cũng sẽ được điều chỉnh
tương ứng.
Điều kiện đảm bảo bằng ngoại hối: thay cho vàng ở trên, đồng tiền được
chọn sẽ được xác định tỷ giá theo một đồng tiền khác tương đối ổn định. Trước
một ngày thanh toán lấy lại tỷ giá giữa 2 đồng tiền này để xem xét sự biến động.
Tuy nhiên hạn chế của điều kiện này là không tránh được tình trạng cả 2
đồng tiền cùng lên giá, hoặc cùng xuống giá thì tỷ giá xác định sẽ không thay
đổi. Do đó để hạn chế nhược điểm trên ta có thể sử dụng biện pháp đảm bảo
hỗn hợp, tức là đầu tiên 2 bên cùng thỏa thuận lựa chọn ra đồng tiền để thanh
toán, sau đó lựa chọn tiếp đồng tiền tương đối ổn định và xác định giá vàng theo
đồng tiền này.
Điều kiện đảm bảo theo “rổ” tiền tệ: trong điều kiện hiện nay thì bản thân
giá vàng cũng luôn biến động, do đó để hạn chế nhược điểm trên các bên tham
gia thanh toán không lựa chọn một loại tiền tệ, hay vàng để đảm bảo mà thay
vào đó là một “rổ” tiền tệ. Một “rổ” này sẽ bao gồm nhiều loại ngoại tệ mạnh,
tương đối ổn định tại thời điểm giao dịch, sau đó sẽ xác định tỷ giá trung bình

của cả “rổ” với đồng tiền ban đầu của hợp đồng ký kết. Tương tự như cách trên,
trước một ngày kết thúc hợp đồng thanh toán lấy lại tỷ giá này.
Điều kiện đảm bảo theo tiền tệ quốc tế: SDR hoặc EUR. Bản thân hai loại
tiền quốc tế cũng là một “rổ” tiền tệ mạnh nhất thế giới (SDR) hay nhóm tiền tệ
của liên minh châu Âu (EUR). Như vậy để giúp cho các bên đối tác tránh gặp
khó khăn trong việc xác định loại tiền nào đưa vào “rổ” đảm bảo, thì họ có thể
chọn ngay hai loại tiền này để đảm bảo mà không cần suy nghĩ đến tỷ giá, cũng
như tỷ trọng của từng loại tiền trong “rổ”.
Điều kiện đảm bảo căn cứ vào mức biến động giá cả quốc tế: trong điều
kiện này hai bên sẽ xác định tổng giá trị hợp đồng theo chỉ số giá quốc tế đối
với mặt hàng hai bên đang mua – bán. Đồng thời cũng cần xác định được chỉ số
giá quốc tế là giá cả hay giá thành, đối với toàn bộ hàng, hay là một phần của
hàng. Do đó hình thức này thường được áp dụng đối với hàng hóa có tính chất
nguyên, nhiên vật liệu.
1.2.2.3 Thời gian thanh toán quốc tế
Trong thanh toán quốc tế, thời gian thanh toán có ảnh hưởng đến hiệu quả
sản xuất kinh doanh, bên xuất khẩu mà nhận được tiền càng nhanh thì càng tăng
doanh thu, bên nhập khẩu mà trả tiền càng chậm thì càng giảm được nhiều chi
phí. Còn trong lĩnh vực phi thương mại (chuyển tiền...) thì yếu tố này không có
nhiều ý nghĩa quan trọng. Do đó việc xác định thời gian trả tiền sẽ là một nội
dung quan trọng trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng thương mại quốc tế.
Có các cách quy định sau:
*) Trả tiền trước: đây là hình thức mà bên nhập khẩu trả một phần, hoặc
toàn bộ số tiền mua hàng cho bên xuất khẩu ngay sau khi ký hợp đồng mua
hàng, hoặc trước một khoảng thời gian so với thời điểm giao hàng. Hình thức
này có ý nghĩa:
Khi hai bên đã quan hệ làm ăn từ trước, bên nhập khẩu có tiềm lực về tài
chính và có thể cấp tín dụng cho bên xuất khẩu để họ có thêm vốn để tiến hành
sản xuất hàng cho mình. Số tiền trả trước phụ thuộc vào khả năng của người
nhập khẩu và nhu cầu của người xuất khẩu. Trong trường hợp này, giá hợp đồng

thường thấp hơn giá hàng trả tiền ngay khi giao hàng; phần chênh lệch là số tiền
lãi tính trên số ngày kể từ khi ứng trước đến ngày người xuất khẩu hoàn trả tiền
ứng trước.
Khi hai bên chưa có quan hệ làm ăn bao giờ, hai bên chưa tin tưởng nhau
trong giao dịch, có thể do vị thế chênh lệch của hai bên (ví dụ: người bán bán
mặt hàng khan hiếm trên thị trường, người bán là nhà cung cấp lớn…) mà người
xuất khẩu yêu cầu người nhập khẩu đặt cọc tiền để đảm bảo thực hiện hợp đồng.
Trong trường hợp này, thời gian ứng trước thường ngắn và không được tính lãi
trên số tiền ứng trước.
*) Trả tiền ngay: gồm một trong các hình thức sau
Bên nhập khẩu trả tiền ngay sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng mà
chưa đưa lên phương tiện vận tải tại nơi quy định (theo Incoterms 2000 đó là
các điều kiện EXW, FAS, DAF, FCA).
Bên nhập khẩu trả tiền ngay sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng mà đã
đưa lên phương tiện vận tải tại nơi quy định (theo Incoterms 2000 đó là điều
kiện FOB).
Bên nhập khẩu trả tiền khi nhận được bộ chứng từ được hoàn thành bởi
người xuất khẩu. Họ có thể trả tiền ngay khi nhìn thấy toàn bộ chứng từ, hoặc
sau 5-7 ngày kể từ khi nhìn thấy.
Bên nhập khẩu trả tiền ngay khi nhận được hàng hóa tại nơi quy định
trong hợp đồng hoặc tại cảng đến.
*) Trả tiền sau: trên cơ sở 4 hình thức trả tiền ngay thì trả tiền sau cũng có
4 hình thức:
Bên nhập khẩu trả tiền sau X ngày kể từ khi hoàn thành nghĩa vụ giao
hàng mà chưa đưa lên phương tiện vận tải tại nơi quy định.
Bên nhập khẩu trả tiền sau X ngày kể từ khi hoàn thành nghĩa vụ giao
hàng mà đã đưa lên phương tiện vận tải tại nơi quy định.
Bên nhập khẩu trả tiền sau X ngày kể từ khi nhận được bộ chứng từ được
hoàn thành bởi người xuất khẩu.
Bên nhập khẩu trả tiền sau X ngày kể từ khi nhận được hàng hóa tại nơi

quy định trong hợp đồng hoặc tại cảng đến.
*) Thời gian trả tiền hỗn hợp: tùy theo tính chất của hàng hóa, và cũng để
hài hòa lợi ích của đôi bên mà có thể vận dụng tổng hợp các cách thanh toán
trên. Ví dụ: trong một hợp đồng ngoại thương có quy định:
- 5% tổng giá trị hợp đồng trả cho người xuất khẩu trong thời gian 30
ngày sau khi ký được hợp đồng.
- 5% tổng giá trị hợp đồng trả cho người xuất khẩu trong thời gian 10
ngày trước ngay quy định đợt giao hàng thứ nhất.
- 5% tổng giá trị hợp đồng trả cho người xuất khẩu ngay sau khi giao đợt
hàng cuối.
- 10% tổng giá trị hợp đồng trả cho người xuất khẩu trong thời gian 20
ngày kể từ khi lắp xong máy, không chậm quá 10 tháng kể từ khi giao đợt hàng
cuối.
- 75% tổng giá trị hợp đồng còn lại trả cho người xuất khẩu trong thời
gian 4 năm, mỗi năm một phần bằng nhau.
Như vậy trong hợp đồng này, 2 cách trả tiền đầu là trả tiền trước, cách trả
tiền thứ 3 là trả tiền ngay, 2 cách trả tiền cuối cùng là trả tiền sau.
1.2.2.4 Phương tiện thanh toán quốc tế:
Hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng phát triển thì số lượng các
phương tiện xuất hiện ngày càng nhiều. Trong số đó, chúng ta có thể kể đến
những phương tiện được sử dụng nhiều nhất, phổ biến nhất trong thanh toán
quốc tế đó là:
Hối phiếu (bill of exchange): đây là một lệnh đòi tiền vô điều kiện do một
bên ký phát người khác. Theo đó ngay sau khi nhìn thấy hối phiếu hoặc sau một
số ngày nhất định trong tương lai người bị ký phát phải trả một số tiền nhất định
cho người thụ hưởng (có thể chính là người ký phát hoặc bên thứ 3 hoặc người
cầm hối phiếu).
Lệnh phiếu – kỳ phiếu (promissory note): đây là chứng từ cam kết trả tiền
của bên ký phát cho người hưởng lợi một số tiền nhất định vào một thời điểm
nhất định trong tương lai. Như vậy lệnh phiếu hoàn toàn trái ngược với hối

phiếu.
Séc (cheque): là tờ lệnh trả tiền vô điều khiện do người chủ tài khoản ký
phát, yêu cầu ngân hàng phục vụ họ trả tiền ngay khi nhìn thấy tờ séc, cho
người cầm nó hoặc một người thụ hưởng được chỉ định.
Thẻ thanh toán: là hình thức tiền điện tử do ngân hàng phát hành cho
phép khách hàng thanh toán tiền tại những nơi chấp nhận thẻ trong phạm vi
hoặc quá số dư tài khoản của chủ thẻ (phụ thuộc sự thỏa thuận của ngân hàng
với khách hàng).
Ngoài các phương tiện trên, chúng ta có thể kể đến: cổ phiếu, trái phiếu,
chứng chỉ tiền gửi, hợp đồng quyền chọn, biên lai tín thác...
1.2.2.5 Đặc điểm, vai trò của thanh toán quốc tế
Hoạt động thanh toán quốc tế là một loại dịch vụ mang lại nhiều lợi
nhuận. Với việc am hiểu các nghiệp vụ thanh toán, bảo lãnh, cũng như có mạng
lưới rộng khắp trên toàn thế giới thông qua chi nhánh, văn phòng đại diện và
ngân hàng đại lý... ngân hàng thương mại đã cung cấp dịch vụ này cho khách
hàng một cách nhanh chóng, chính xác; từ đó thu phí và mang về nguồn thu
nhập không nhỏ cho ngân hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng phát triển thì thanh toán quốc tế
điện tử sẽ dần dần thay thế cho các phương pháp thanh toán bằng chứng từ
truyền thống. Có được đặc điểm này là do hoạt động ngoại thương trên thế giới
diễn ra càng ngày càng đa dạng, phức tạp; và cùng với nó là yêu cầu thanh toán
nhanh gọn, chính xác, hạn chế rủi ro cho đôi bên để mang lại lợi nhuận cao
nhất. Nguyên nhân thứ hai là hoạt động thanh toán quốc tế có sự hỗ trợ rất lớn
từ phía ngành công nghệ thông tin, một khi công nghệ còn phát triển thì việc
thanh toán qua biên giới trên mạng điện tử quốc tế vẫn còn tiến bộ hơn nữa.
Hoạt động thanh toán quốc tế đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế quốc gia thông qua việc thúc đẩy và mở rộng các hoạt động xuất
nhập khẩu, đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài và các hoạt động dịch
vụ (như du lịch, hợp tác quốc tế). Đặc biệt nó còn giúp cho thị trường tài chính
quốc gia hội nhập quốc tế.

1.2.3 Các phương thức thanh toán quốc tế
Trong các giao dịch kinh tế hiện nay, việc thanh toán tiền hàng hóa, dịch
vụ giữa hai bên thường không diễn ra một cách trực tiếp, mà thông thường hoạt
động này sẽ được ủy thác cho ngân hàng để đảm bảo an toàn, nhanh chóng, tiện
lợi. Vậy theo nghĩa rộng thì “toàn bộ nội dung, điều kiện và cách thức để ngân
hàng tiến hành chuyển tiền và trả tiền giữa người không cư trú với người cư trú
gọi là phương thức thanh toán quốc tế”.
Thanh toán quốc tế gồm hai mảng đó là: thanh toán quốc tế trong ngoại
thương và thanh toán phi ngoại thương. Trong đó tỷ trọng của hoạt động thanh
toán quốc tế trong ngoại thương chiếm tỷ trọng rất lớn và đóng vai trò chủ yếu
trong kinh tế đối ngoại. Do đó có thể định nghĩa phương thức thanh toán quốc tế
theo nghĩa hẹp sau: “phương thức thanh toán quốc tế trong ngoại thương là toàn
bộ quá trình, điều kiện quy định để người mua trả tiền và nhận hàng, còn người

×