MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
VÀ CHO VAY VỐN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
VIỆT NAM - CHI NHÁNH CÀ MAU
5.1. TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN
Sự phấn đấu và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của tập thể cán bộ nhân viên Ngân
hàng Công Thương Cà Mau đã giúp cho Ngân hàng đạt được những thành quả đáng kể
trong công tác huy động vốn và cho vay vốn. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động vẫn
không thể tránh khỏi những tồn tại và thiếu sót do nhiều nguyên nhân gây nên.
5.1.1. Hoạt động huy động vốn.
- Công tác huy động vốn chưa chủ động năm bắt nhu cầu khách hàng, đánh giá
khả năng, đối tượng huy động trên địa bàn.
- Chưa có những chính sách huy động riêng, hầu hết đều chạy theo các đợt phát
động của Trung ương.
- Chưa phân tích đánh giá vốn đầu vào bình quân của từng loại vốn huy động để
đưa ra những chính sách phù hợp trong từng thời kỳ.
- Nguồn vốn huy động tăng trưởng chưa nhiều, tiền gửi của các tổ chức kinh tế
chiếm đa số trong khi huy động từ dân cư rất ít dẫn đến thiếu tính ổn định, vẫn còn phụ
thuộc vào nguồn vốn điều hoà từ Ngân hàng Trung ương.
- Thực hiện Marketing chưa mang tính chuyên nghiệp, kỹ năng giao tiếp còn yếu,
hình thức tuyên truyền quảng bá thương hiệu, sản phẩm của Ngân hàng còn đơn điệu,
thiếu biện pháp tiếp cận khách hàng.
5.1.2. Hoạt động cho vay vốn.
- Hạn chế lớn nhất là dấu hiệu tuộc dốc của tổng dư nợ, mặc dù có sự cạnh tranh
của các Ngân hàng thương mại nhưng công tác điều hành nói chung của Ban Giám đốc,
biện pháp phục vụ khách hàng nói riêng của Phòng Khách hàng, Phòng Kế toán và
Phòng Tiền tệ kho quỹ chưa thật tốt, đôi lúc còn để xẩy ra phiền hà cho khách hàng, nên
thay vì vay ở Ngân Hàng Công Thương Cà Mau, khách hàng lại vay ở các Ngân hàng
khác.
- Còn nhiều sai sót trong quá trình xử lý nghiệp vụ, nhất là việc có quá nhiều sai
sót đối với dữ liệu trên Incas, và lập báo cáo thống kê.
- Chất lượng thẩm định chưa đạt yêu cầu. Thời gian thẩm định và trả lời khách
hàng thường rất chậm so với quy định của Ban Giám đốc. Còn có hiện tượng khách
hàng chạy từ nơi này sang nơi khác trên cùng chi nhánh trên địa bàn.
- Chất lượng tín dụng còn thấp, nợ xấu phát sinh nhiều và ở mức cao. Khả năng
thu nợ tồn động ngoại bảng còn quá chậm so với số nợ tồn đọng quá lớn.
- Trình độ cán bộ tín dụng còn nhiều bất cập, không đồng đều, vừa thừa, vừa thiếu.
Các Trưởng, Phó phòng nghiệp vụ chưa có kế hoạch kèm cập nâng cao tay nghề cho
nhân viên, chưa tạo ra công cụ cho nhân viên mình quản lý một cách khoa học.
- Hoạt động tín dụng của các Phòng khách hàng, Phòng Giao dịch chưa thể hiện rõ
nét phương châm cấp tín dụng để phát triển dịch vụ, nhiều khách hàng có giao dịch tín
dụng nhưng chưa được cán bộ tín dụng giới thiệu để bán sản phẩm dịch vụ tiền gửi,
chuyển tiền, thẻ, chi trả kiều hối….. lãnh đạo các Phòng khách hàng, Phòng Giao dịch
và cán bộ tín dụng chưa thể hiện sắc nét vai trò là đại diện của Ngân hàng, là cầu nối
giữa Ban lãnh đạo Ngân hàng với khách hàng trong mọi giao dịch để khai thác hết các
nhu cầu đa dạng, tiềm năng về sản phẩm dịch vụ Ngân hàng của khách hàng
5.2. GIẢI PHÁP.
Việc mở rộng hoạt động đầu tư của Ngân hàng là một trong những yếu tố quan
trọng, thúc đẩy nền kinh tế địa phương phát triển, phù hợp với xu thế phát triển chung
của đất nước. Nhưng để làm được điều đó đòi hỏi Ngân hàng phải chú ý nhiều vấn đề
từ việc tìm kiếm nguồn vốn đến hiệu quả cho vay vốn. Muốn thế cần phải phối hợp chặt
chẽ giữa Ngân hàng và Nhà Nước nhằm đề ra các biện pháp cụ thể để mở rộng hoạt
động đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
5.2.1. Đối với hoạt động huy động vốn.
Vốn là điều kiện quan trọng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
mà trong đó quan trọng nhất là vốn huy động. Những năm qua nguồn vốn huy động của
Ngân hàng không đủ để đáp ứng việc cho vay vốn, là do Ngân hàng đóng trên địa bàn
mà người dân sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp và nuôi trồng nên rất khó cho đơn
vị trong việc cân đối giữa vốn huy động và vốn cho vay, cho nên việc sử dụng vốn điều
hòa của chi nhánh là điều tất yếu.
Trên cơ sở tiếp tục duy trì các hình thức huy động hiện có đang phát huy hiệu quả,
giữ được khách hàng truyền thống, Ngân hàng cần mạnh dạn áp dụng các hình thức huy
động mới, phấn đấu đạt mức tăng trưởng nguồn vốn với nhịp độ cao, bền vững để đáp
ứng được sự cân đối hài hoà với tốc độ tăng trưởng cho vay và các hoạt động kinh
doanh khác. Từng bước tăng trưởng nguồn vốn huy động, giảm tỷ trọng nguồn vốn điều
hoà từ Ngân hàng Công Thương
Việt Nam. Sau đây là một số biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả huy động vốn:
* Huy động vốn từ dân cư:
- Lãi suất huy động phải thật sự hấp dẫn người dân, luôn giữ nó ở mức tương đối
ổn định, không nên thay đổi nhiều lần trong năm để người dân yên tâm gửi tiền vào
Ngân hàng.
- Áp dụng lãi suất thăng hoa, khách hàng gửi tiền càng lớn thì lãi suất càng cao.
- Đẩy mạnh và đa dạng các hình thức huy động vốn như: tiết kiệm dự thưởng,
tiết kiệm gởi góp, tuyên truyền và khuyến khích mở tài khoản cá nhân…Tập trung làm
tốt đợt huy động chứng chỉ tiền gửi dài hạn dự thưởng bằng vàng nhằm thu hút sự quan
tâm của khách hàng đồng thời nhằm làm tăng thêm nguồn vốn trung và dài hạn.
- Ngân hàng cần quan tâm chú trọng hơn nữa việc huy động vốn ở nông thôn.
Đây là thị trường tiềm năng về vốn rất lớn vì hiện nay nông thôn có nhiều hộ gia đình
làm ăn rất có hiệu quả, họ tích lũy rất nhiều nhưng họ chỉ biết cất giữ bằng cách mua
vàng.
- Cần mở rộng công tác tuyên truyền và tiếp thị về huy động vốn để người dân
biết được về lãi suất, cũng như hình thức huy động vốn đa dạng của Ngân hàng nhằm
thu hút ngày càng nhiều khách hàng.
- Thường xuyên cải tiến phong cách giao dịch, bố trí cán bộ giao dịch trực tiếp
có kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn cao, tác nghiệp nhanh chóng, chính xác, hướng dẫn
tận tình, rút ngắn được thời gian thực hiện các giao dịch nhằm là giảm bớt được sự cách
biệt với sự hiện đại và đa dạng về sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng thương mại
khác.
- Thường xuyên theo dõi diễn biến các sản phẩm, lãi suất huy động của các
Ngân hàng thương mại khác trên địa bàn, để đưa ra những sản phẩm huy động có tính
cạnh tranh, lãi suất hấp dẫn, phù hợp với tình hình cung cầu vốn trên thị trường và tâm
lý của khách hàng.
- Lựa chọn các hình thức khuyến mãi thích hợp trong việc thực thi các chính
sách khách hàng đặc biệt đối với khách hàng thường xuyên có số dư tiền gửi lớn; nên
có tặng phẩm, gởi thiệp chúc mừng vào những ngày lễ, tết cổ truyền, ngày thành lập
Ngân hàng.
- Mỗi khách hàng quan hệ với Ngân hàng, Ngân hàng nên tiếp xúc với khách
hàng cả hai lĩnh vực huy động vốn và cho vay vốn, để khi khách hàng làm ăn tốt có lợi
nhuận sẽ giữ tiền của họ tại Ngân hàng.
- Ngân hàng phải giữ mối quan hệ thân thiết với khách hàng truyền thống, đồng
thời khai thác khách hàng tiềm năng.
* Huy động nguồn vốn từ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội:
- Triển khai thực hiện tốt dịch vụ thu chi hộ đến các doanh nghiệp nhất là các
doanh nghiệp có nguồn thu thường xuyên để khai thác nguồn tiền gửi không kỳ hạn.
- Thực hiện các chính sách ưu đãi hợp lý đối với các doanh nghiệp có nguồn thu
ngoại tệ cao để khai thác nguồn vốn nhàn rỗi, tăng nguồn huy động ngoại tệ, thực hiện
tốt dịch vụ hỗ trợ khách hàng để mở rộng nghiệp vụ đã được triển khai như thẻ ATM,
bảo lãnh…
- Xây dựng các dự án đầu tư khép kín giữa sản xuất - chế biến – tiêu thụ sản
phẩm, thanh toán xuất nhập khẩu để mở rộng cho vay và thu hút nguồn ngoại tệ.
- Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, công ty cổ phần, các đoàn thể
chính trị - xã hội, cần có biện pháp tiếp cận, giới thiệu các sản phẩm tiện ích của Ngân
hàng, vận động các đơn vị hành chính sự nghiệp trong việc thanh toán tiền lương cho
cán bộ nhân viên thông qua việc mở tài khoản cá nhân và sử dụng thẻ ATM.
5.2.2. Đối với hoạt động cho vay vốn.
Bên cạnh việc huy động vốn vào Ngân hàng ngày càng nhiều với những biện pháp
linh hoạt hấp dẫn thì Ngân hàng cũng phải nỗ lực tìm biện pháp nâng cao hiệu quả cho
vay vốn. Để tránh cho đồng tiền không bị đóng băng làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận
thì Ngân hàng phải có những biện pháp thật sự hài hòa giữa việc huy động vốn và cho
vay vốn nhằm mang lại hiệu quả kinh doanh ngày càng cao.
- Thực hiện chiến lược khách hàng, mở rộng quan hệ tín dụng, từng bước nâng cao
chất lượng tín dụng đồng thời duy trì khách hàng truyền thống của Ngân hàng.
+ Đối với khách hàng truyền thống, vay trả có uy tín, hoạt động sản xuất kinh
doanh có hiệu quả thì Ngân hàng nên dùng một mức cho vay ưu đãi giúp cho doanh
nghiệp phấn đấu hạ giá thành sản phẩm tạo thế cạnh tranh có lợi hơn và qua đó tạo
được mức lợi nhuận cao hơn.
+ Đối với tư nhân cá thể, việc cho vay đều thực hiện các tài sản thế chấp, tuy
nhiên Ngân hàng không nên xem việc thế chấp là yếu tố quyết định cho sự cho vay mà
chủ yếu xem xét mục đích vay có mang lại hiệu quả đích thực có khả năng trả được nợ
mới quyết định cho vay.
+ Một vấn đề quan trọng nữa là trong và sau khi cho vay, Ngân hàng cần thường
xuyên tổ chức kiểm tra việc sử dụng vốn vay, đặc biệt là những khoản vay lớn và những
khách hàng mới giao dịch lần đầu.
+ Tăng cường thông tin giữa các Ngân hàng về tình hình tài chính của các doanh
nghiệp và các sai phạm của khách hàng. Ngân hàng có thể sàng lọc đối tượng vay mạo
hiểm, có triển vọng xấu khỏi quá trình cho vay để hạn chế rủi ro thông qua hệ thống
thông tin phòng ngừa rủi ro.
- Chuyên môn hóa của cán bộ tín dụng: Ban lãnh đạo Ngân hàng cử từng cán bộ
tín dụng chuyên cho vay và thu hồi nợ ở từng khu vực địa bàn nhất định. Việc phân chia
như vậy sẽ giúp cán bộ tín dụng nắm chắc được tình hình tài chính cũng như quan hệ
làm ăn của từng khách hàng, hiểu được nhu cầu vay vốn của họ. Từ đó lập ra phương
án cho vay có hiệu quả, vốn cho vay được cấp phát thật sự đi vào sản xuất kinh doanh
có hiệu qủa. Qua đó thu hồi nợ và lãi một cách nhanh chóng và thuận lợi khi đến kì hạn
thanh toán
- Phát triển nguồn nhân lực: Yếu tố con người luôn là yếu tố hàng đầu để hoạch
định chính sách kinh doanh của Ngân hàng nói chung và chính sách tín dụng nói riêng.
Vì thế Ngân hàng nên tổ chức thực hiện công tác bồi dưỡng cán bộ công nhân viên
ngày càng giỏi về nghiệp vụ giàu kinh nghiệm, phẩm chất đạo đức tốt. Muốn như vậy
Ngân hàng có thể đầu tư cho nhân viên thông qua việc tạo điều kiện cho họ có dịp tìm
hiểu, học hỏi nâng cao trình độ kỹ thuật nghiệp vụ với mọi hình thức: huấn luyện tại
chỗ, tham dự các cuộc hội thảo, các khóa đào tạo ngắn ngày, dài ngày trong nước cũng
như nước ngoài khi có điều kiện.