Tải bản đầy đủ (.pdf) (496 trang)

Giáo trình lí luận chung về nhà nước và pháp luật nguyễn minh đoan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.41 MB, 496 trang )

GIÁO TRÌNH

LÍ LUẬN CHUNG
VỀ NHÀ NƯỚC
VÀ PHÁP LUẬT

1


Giáo trình này đã được Hội đồng nghiệm thu giáo trình Trường Đại học
Luật Hà Nội (thành lập theo Quyết định số 138/QĐ-ĐHLHN ngày 18
tháng 01 năm 2016 của Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội)
đồng ý thông qua ngày 27 tháng 01 năm 2016 và được Hiệu trưởng
Trường Đại học Luật Hà Nội cho phép xuất bản theo Quyết định số
1905/QĐ-ĐHLHN ngày 27 tháng 6 năm 2016.

MÃ SỐ: TPG/K - 17 - 09

3546-2017/CXBIPH/02-275/TP

2


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Giáo trình

LÍ LUẬN CHUNG
VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
(Tái bản lần thứ nhất, có sửa đổi, bổ sung)


NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP
HÀ NỘI - 2017

3


Chủ biên
PGS.TS. NGUYỄN MINH ĐOAN
TS. NGUYỄN VĂN NĂM

Tập thể tác giả
1. PGS.TS. NGUYỄN MINH ĐOAN Chương III, XIV, XV,
XVI, XXI
2. PGS.TS. NGUYỄN VĂN ĐỘNG Chương I, VII, IX
3. PGS.TS. NGUYỄN THỊ HỒI

Chương V, VIII, X

4. ThS. ĐOÀN BẠCH LIÊN

Chương IV, XVII, XVIII

5. PGS.TS. LÊ VĂN LONG

Chương XX

6. TS. NGUYỄN VĂN NĂM

Chương II, XI, XII, XIII


7. TS. BÙI XUÂN PHÁI

Chương VI, XIX

4


LỜI GIỚI THIỆU
Lí luận chung về nhà nước và pháp luật là môn học quan
trọng trong hệ thống khoa học pháp lí. Dựa trên cơ sở học thuyết
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta cũng như tri thức chung của nhân loại về nhà nước và
pháp luật, mơn học này trình bày, chứng giải một cách khoa học
các vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật. Năm 1989, giáo
trình Lí luận chung về nhà nước và pháp luật đã được Hội đồng
khoa học Bộ Tư pháp thông qua, được lưu hành làm tài liệu
giảng dạy, học tập chính thức của Trường Đại học Luật Hà Nội
và các trường đại học khác có dạy luật.
Nhằm đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của giáo viên và
sinh viên, giáo trình Lí luận chung về nhà nước và pháp luật đã
được chỉnh lí, bổ sung và tái bản vào những năm 1992, 1994,
1996, 2003, 2007, đặc biệt năm 2010, Trường Đại học Luật Hà
Nội đã tổ chức biên soạn lại giáo trình này. Thời gian qua, tình
hình trong nước và quốc tế đã có những thay đổi căn bản địi hỏi
lí luận về nhà nước và pháp luật cũng phải có những thay đổi, bổ
sung cho phù hợp tình hình thực tiễn, đáp ứng công cuộc đổi mới
của đất nước. Dưới ánh sáng của các quan điểm mới thể hiện
trong các văn kiện của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà
nước, Trường Đại học Luật Hà Nội tổ chức biên soạn mới giáo
trình Lí luận chung về nhà nước và pháp luật nhằm cập nhật

những kiến thức mới, hiện đại hố về nội dung và hình thức kết
cấu, đáp ứng một cách tốt hơn nhu cầu giảng dạy và học tập của
mơn học ở bậc đại học trong tình hình mới.
5


Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng nhà nước và pháp luật
là hai hiện tượng xã hội hết sức phức tạp, còn nhiều vấn đề
tranh luận, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, việc xây
dựng được giáo trình Lí luận chung về nhà nước và pháp luật
thực sự hồn chỉnh là điều rất khó khăn. Trên tinh thần đó,
chúng tơi mong nhận được những ý kiến góp ý cho việc biên
soạn, chỉnh lí, bổ sung giáo trình này một cách hoàn thiện hơn
nữa trong những năm tới.
Hà Nội, tháng 11 năm 2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

6


Chương I
NHẬP MƠN
LÍ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT MỘT NGÀNH KHOA HỌC PHÁP LÍ
1.1. Đối tượng nghiên cứu của Lí luận chung về nhà nước
và pháp luật
Khoa học là hệ thống tri thức tích lũy trong q trình lịch sử
và được thực tiễn chứng minh, phản ánh những quy luật khách
quan của thế giới bên ngoài cũng như hoạt động tinh thần của con
người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện tại.1 Đối

tượng nghiên cứu của khoa học là những vấn đề cơ bản, quan
trọng nhất được đặt ra mà khoa học phải giải quyết trên cơ sở
phân tích thực tiễn để tìm ra chân lí khách quan. Có nhiều ngành
khoa học khác nhau như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội,
khoa học nhân văn…
Lí luận chung về nhà nước và pháp luật là ngành khoa học
thuộc các ngành khoa học xã hội, bao gồm hệ thống các tri thức
chung, cơ bản về nhà nước và pháp luật, được hình thành và phát
triển trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, có tiếp thu và phát triển tinh hoa trí tuệ của lồi người về
nhà nước và pháp luật, cũng như những thành tựu nghiên cứu
mới của khoa học pháp lí đương đại.
1

Xem: Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, tập thể tác giả, chủ biên: Hoàng
Phê, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Đà Nẵng, 2006, tr. 503.

7


Đối tượng nghiên cứu của lí luận chung về nhà nước và pháp
luật là nhà nước và pháp luật - hai hiện tượng quan trọng và phức
tạp nhất trong thượng tầng chính trị - pháp lí của xã hội. Tuy
nhiên, nhà nước và pháp luật còn là đối tượng nghiên cứu của
một số ngành khoa học xã hội như triết học, kinh tế chính trị học,
chủ nghĩa xã hội khoa học, chính trị học và các khoa học pháp lí
khác. Vì vậy, cần xác định rõ phạm vi nghiên cứu nhà nước và
pháp luật của các ngành khoa học xã hội nói trên.
- Triết học là khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất
của thế giới và sự nhận thức thế giới.1 Kế thừa và phát triển

những tinh hoa trí tuệ của lồi người, triết học Mác - Lênin có nhiệm
vụ nghiên cứu những quy luật chung nhất của quá trình phát sinh,
tồn tại và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy theo quan điểm
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Triết học Mác - Lênin
nghiên cứu nhà nước và pháp luật cùng với những hiện tượng xã
hội khác của thượng tầng chính trị - pháp lí và hạ tầng cơ sở để
tìm ra quy luật phát triển của xã hội lồi người nói chung, trong
đó có nhà nước và pháp luật. Như vậy, triết học Mác - Lênin
nghiên cứu nhà nước và pháp luật cùng với các hiện tượng xã hội
khác một cách chung nhất, khái quát nhất chứ không đi sâu
nghiên cứu từng vấn đề cụ thể của nhà nước và pháp luật.
- Kinh tế chính trị học là khoa học nghiên cứu về quan hệ sản
xuất, các quy luật chi phối quá trình sản xuất, phân phối và trao
đổi của cải vật chất trong xã hội con người ở các giai đoạn phát
triển lịch sử khác nhau của nó.2 Nhà nước và pháp luật cũng là
đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị học Mác - Lênin,
nhưng kinh tế chính trị học Mác - Lênin chỉ nghiên cứu vai trò
của nhà nước và pháp luật trong việc điều hành nền kinh tế và
phân phối sản phẩm lao động xã hội chứ khơng đi sâu nghiên cứu
các vai trị khác của nhà nước và pháp luật.
1
2

Xem: Từ điển tiếng Việt, sđd, tr. 1035.
Xem: Từ điển tiếng Việt, sđd, tr. 530.

8


- Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học nghiên cứu quy luật

của cách mạng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội hiện thực của các dân tộc trên thế giới. Việc nghiên cứu nhà
nước và pháp luật của chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ diễn ra trong
phạm vi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội với những vấn đề cụ thể như: sự ra đời của
nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa, vai trò của nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, các chức năng cơ bản
của nhà nước xã hội chủ nghĩa...
- Chính trị học là khoa học nghiên cứu quy luật hình thành và
vận động của chính trị, quyền lực chính trị, cơ chế và phương
thức thực hiện quyền lực chính trị, đảng chính trị và vai trị của
các đảng chính trị trong cơ chế thực hiện quyền lực chính trị, hệ
thống chính trị, quan hệ chính trị, lợi ích chính trị, hệ tư tưởng
chính trị, ý thức chính trị… Chính trị học Mác - Lênin cũng nghiên
cứu nhà nước và pháp luật trên cơ sở gắn nhà nước, pháp luật với
việc thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội. Một số vấn đề quan
trọng của nhà nước và pháp luật được chính trị học Mác - Lênin
đề cập như quyền lực nhà nước (một dạng của quyền lực chính
trị); mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước với các dạng quyền lực
chính trị khác; vai trị của nhà nước, pháp luật trong việc thực
hiện quyền lực chính trị; quan hệ giữa nhà nước với các đảng
chính trị và các tổ chức xã hội khác trong việc thực hiện quyền
lực chính trị; vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan
hệ chính trị, các nhu cầu và lợi ích chính trị... Như vậy, việc
nghiên cứu nhà nước và pháp luật của chính trị học Mác - Lênin
cũng trong phạm vi, giới hạn nhất định.
- Các khoa học pháp lí ở Việt Nam hiện nay được chia thành
bốn nhóm chính, một là, các khoa học pháp lí lí luận - lịch sử,
gồm Lí luận chung về nhà nước và pháp luật, Lịch sử nhà nước

9


và pháp luật Việt Nam, Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới,
Lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lí; hai là, các khoa học pháp lí
chuyên ngành luật, như Luật hiến pháp Việt Nam, Luật hành chính,
Luật hình sự, Luật dân sự, Luật lao động, Luật kinh doanh...;
ba là, các khoa học pháp lí ứng dụng, như Tội phạm học, Thống
kê tư pháp, Giám định pháp y, Điều tra tội phạm; bốn là khoa học
luật quốc tế.
Tất cả các khoa học pháp lí nêu trên đều nghiên cứu những
vấn đề về nhà nước và pháp luật, nhưng mỗi khoa học pháp lí
chun ngành có đối tượng nghiên cứu riêng. Nói cách khác, mỗi
khoa học pháp lí chun ngành nghiên cứu mặt này hay mặt
khác, khía cạnh này hoặc khía cạnh khác của vấn đề nhà nước
và pháp luật chứ không nghiên cứu một cách chung nhất, khái
quát nhất những vấn đề của nhà nước và pháp luật như Lí luận
chung về nhà nước và pháp luật. Chẳng hạn, “Đối tượng nghiên
cứu của khoa học luật hành chính là hoạt động quản lí hành
chính nhà nước; những quan hệ hình thành trong q trình
quản lí hành chính nhà nước và việc điều chỉnh những quan hệ
ấy; hệ thống các quy phạm pháp luật hành chính và hiệu suất
của sự tác động của chúng đối với hoạt động quản lí hành chính
nhà nước”;1 “Khoa học luật hình sự là ngành luật học nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện các vấn đề lí luận về tội phạm
và hình phạt”;2 “Khoa học luật dân sự nghiên cứu bản thân các
quy phạm pháp luật dân sự, tính mâu thuẫn và thống nhất của
nó, việc áp dụng luật dân sự trong đời sống xã hội, đưa ra
những giải thích có tính khoa học các quy phạm pháp luật dân
1


Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, tập
thể tác giả, chủ biên: TS. Trần Minh Hương, Nxb. Công an nhân dân, H. 2014,
tr. 46 - 47.
2
Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I (in
lần thứ 11), tập thể tác giả, chủ biên: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hịa, Nxb. Cơng an
nhân dân, H. 2007, tr. 24.

10


sự, tìm các lỗ hổng trong pháp luật và biện pháp khắc phục
những lỗ hổng”1…
Sự phân tích trên đây cho thấy, mỗi ngành khoa học đều xuất
phát từ vị trí, vai trò, nhiệm vụ, mục tiêu và đặc điểm về đối tượng
nghiên cứu của riêng mình mà lựa chọn những vấn đề cụ thể của
nhà nước và pháp luật để nghiên cứu, chứ không nghiên cứu tất
cả những vấn đề cơ bản của nhà nước và pháp luật.
Khác với các ngành khoa học nêu trên, Lí luận chung về nhà
nước và pháp luật nghiên cứu nhà nước và pháp luật một cách
toàn diện nhất, khái quát nhất. Đối tượng nghiên cứu của Lí luận
chung về nhà nước và pháp luật là những vấn đề cơ bản sau đây:
- Những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của nhà nước và
pháp luật, chẳng hạn, nguồn gốc, đặc trưng, bản chất, chức năng,
bộ máy, hình thức, vai trị của nhà nước; vị trí, vai trị và mối
quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính
trị; nhà nước pháp quyền…; nguồn gốc, đặc trưng, bản chất, chức
năng, hình thức, vai trị và giá trị xã hội của pháp luật; hình thức
pháp luật, cơ chế điều chỉnh pháp luật…

- Những quy luật và những vấn đề có tính quy luật gắn với sự
phát sinh, tồn tại và phát triển của nhà nước và pháp luật.
- Các mối quan hệ, liên hệ cơ bản, điển hình, phổ biến của
nhà nước và pháp luật (như giữa nhà nước và cá nhân, nhà nước
với pháp luật; nhà nước, pháp luật với các hiện tượng xã hội
khác; giữa các bộ phận cấu thành nhà nước, pháp luật…).
- Những nguyên tắc, quy tắc, phương pháp, hình thức về tổ
chức quyền lực nhà nước; thiết lập trật tự pháp luật và pháp chế;
xây dựng và thực hiện pháp luật; những công cụ và giải pháp tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của nhà nước và pháp luật…
1

Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập thể tác
giả, chủ biên: PGS.TS. Đinh Văn Thanh, TS. Nguyễn Minh Tuấn, Nxb. Công an
nhân dân, H. 2014, tr. 23.

11


Từ sự trình bày ở trên có thể nhận định rằng, Lí luận chung
về nhà nước và pháp luật là hệ thống tri thức về những vấn đề
chung, cơ bản, quan trọng nhất của nhà nước và pháp luật, về
những quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển đặc thù của nhà
nước và pháp luật, về những mối liên hệ cơ bản, những nguyên
tắc, phương pháp, hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, xây
dựng và thực hiện pháp luật…
1.2. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên
cứu của Lí luận chung về nhà nước và pháp luật
- Cơ sở phương pháp luận của Lí luận chung về nhà nước và
pháp luật.

Cơ sở phương pháp luận của một ngành khoa học là lập
trường xuất phát, quan điểm tiếp cận và nghiên cứu của ngành
khoa học ấy. Cũng như nhiều ngành khoa học khác, cơ sở phương
pháp luận của Lí luận chung về nhà nước và pháp luật là phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội cơ bản nhất,
phức tạp nhất trong xã hội có giai cấp. Chúng phát sinh, tồn tại và
phát triển cùng với xã hội có giai cấp và đều chịu sự chi phối của xã
hội đó, trong đó trước hết và quan trọng nhất là đời sống vật chất.
Do đó, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đòi hỏi
phải xem xét nhà nước và pháp luật theo hai quan điểm sau đây:
Một là, quan điểm duy vật biện chứng. Quan điểm duy vật
biện chứng đòi hỏi phải nghiên cứu nhà nước và pháp luật đúng
như nó có, không thêm bớt, không bịa đặt. Đồng thời, nghiên cứu
nhà nước và pháp luật phải đặt chúng trong mối liên hệ chặt chẽ
với đời sống vật chất của xã hội loài người; với các tổ chức xã
hội, các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau trong xã hội có giai
cấp; với đạo đức, tư tưởng, chính trị, tơn giáo, văn hoá, truyền
thống, phong tục tập quán dân tộc... Quan điểm duy vật biện
12


chứng cịn u cầu phải tìm hiểu nhà nước và pháp luật trong sự
phát triển và biến đổi không ngừng của chúng cùng với sự biến đổi
mọi mặt của đời sống xã hội. Quan điểm này cũng đòi hỏi phải gắn
việc nghiên cứu nhà nước, pháp luật với nhu cầu của thực tiễn xã
hội và hoạt động của nhà nước, trong đó có thực tiễn xây dựng
pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.
Hai là, quan điểm duy vật lịch sử. Quan điểm khoa học này
đòi hỏi phải nghiên cứu nhà nước và pháp luật gắn liền với lịch

sử phát triển của xã hội loài người nói chung, của mỗi dân tộc,
mỗi quốc gia nói riêng. Điều đó có nghĩa là phải tìm hiểu kĩ
những đặc điểm, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn
lịch sử cụ thể đã tác động, ảnh hưởng tới sự ra đời, tồn tại, phát
triển của nhà nước và pháp luật như thế nào.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu nhà nước và pháp luật còn phải
dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng
Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, đặc biệt là những
quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
về Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân và về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong bối cảnh
đổi mới toàn diện, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
- Các phương pháp nghiên cứu của Lí luận chung về nhà
nước và pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu là những nguyên tắc và cách thức
hoạt động khoa học nhằm đạt tới chân lí khách quan dựa trên cơ
sở của sự chứng minh khoa học.
Lí luận chung về nhà nước và pháp luật sử dụng các phương
pháp cụ thể như phân tích và tổng hợp, tiếp cận hệ thống, trừu
tượng hoá khoa học, lịch sử và logic, xã hội học, so sánh… để
nghiên cứu nhà nước và pháp luật.
13


Phân tích và tổng hợp là phương pháp được sử dụng rộng rãi
trong nghiên cứu nhà nước và pháp luật. Phân tích là phương
pháp phân chia cái tồn thể hay một vấn đề phức tạp ra thành các
bộ phận, những mặt, yếu tố đơn giản hơn để nghiên cứu. Chẳng
hạn, để lí giải được vấn đề nhà nước nói chung, cần tách nó ra

thành những vấn đề nhỏ như nguồn gốc, bản chất, chức năng, bộ
máy, hình thức, kiểu nhà nước... Tổng hợp là phương pháp liên
kết, thống nhất lại những yếu tố, bộ phận đã được phân tích, vạch
ra mối liên hệ giữa chúng nhằm nhận thức sự vật, hiện tượng
trong một tổng thể thống nhất. Chẳng hạn, sau khi liên kết những
vấn đề cụ thể của nhà nước được nghiên cứu ở trên, chúng ta có
thể hiểu được nhà nước là gì; nhà nước ra đời, tồn tại và phát
triển như thế nào trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Tiếp cận hệ thống là phương pháp được sử dụng để xem xét
các vấn đề về nhà nước và pháp luật theo một hệ thống có cấu trúc
chặt chẽ, gồm nhiều bộ phận hợp thành, có mối quan hệ tương tác
với nhau và vận động, phát triển theo những quy luật, nguyên tắc
nhất định. Nhà nước và pháp luật là những hệ thống toàn vẹn với
nhiều bộ phận hợp thành và mỗi bộ phận lại có thể là một hệ
thống nhỏ hơn. Chẳng hạn, bộ máy nhà nước là một hệ thống lớn,
trong đó mỗi loại cơ quan như lập pháp, hành pháp, tư pháp là
một hệ thống nhỏ, thậm chí, mỗi cơ quan nhà nước lại được xem
là một hệ thống nhỏ hơn nữa (tiểu hệ thống). Hệ thống pháp luật
là một chỉnh thể, bao gồm nhiều hệ thống nhỏ hơn đó là các
ngành luật, mỗi ngành luật lại bao gồm các hệ thống nhỏ hơn nữa
là các chế định pháp luật, mỗi chế định pháp luật cũng có thể coi
như là một tiểu hệ thống trong đó bao gồm các quy phạm pháp luật.
Trừu tượng hoá khoa học là phương pháp nghiên cứu rất
quan trọng trong Lí luận chung về nhà nước và pháp luật, bởi lẽ
nhiệm vụ chủ yếu của khoa học này là xây dựng một hệ thống tri
thức khoa học thống nhất, bao gồm các khái niệm, phạm trù,
14


những luận điểm cơ bản về nhà nước và pháp luật. Trừu tượng hoá

khoa học là phương pháp tư duy trên cơ sở tách cái chung ra khỏi
cái riêng, tạm thời gạt bỏ cái riêng để giữ lấy cái chung. Trong
nghiên cứu nhà nước và pháp luật, bằng phương pháp trừu tượng
hố khoa học, người ta có thể vượt qua những hiện tượng bề ngồi,
những cái ngẫu nhiên, thống qua, bất ổn định, để đi tới cái chung
mang tính tất yếu, bản chất, ổn định, tức là những vấn đề mang
tính quy luật khách quan của nhà nước và pháp luật. Chẳng hạn, từ
khi ra đời đến nay, trải qua nhiều thời đại lịch sử khác nhau, nhà
nước luôn luôn có những hoạt động thường xuyên, chủ yếu trong
lĩnh vực đối nội, đối ngoại, nhằm đạt được mục tiêu, lợi ích mà
giai cấp thống trị đặt ra; từ sự nghiên cứu các hoạt động quan
trọng ấy người ta đã đưa ra khái niệm “chức năng của nhà nước”.
Phương pháp lịch sử và logic được sử dụng trong nghiên cứu
những vấn đề về nhà nước và pháp luật để xây dựng các khái
niệm, phạm trù, định nghĩa và các luận điểm cơ bản thuộc hệ
thống tri thức lí luận về nhà nước và pháp luật. Là một ngành
khoa học lí luận có nhiệm vụ xây dựng hệ thống tri thức khoa học
tổng quát với các khái niệm, phạm trù, các luận điểm cơ bản, Lí
luận chung về nhà nước và pháp luật tất yếu phải kết hợp một
cách hài hoà việc sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học
với phương pháp lịch sử và logic.
Xã hội học là phương pháp được sử dụng để thu thập những
thông tin, tư liệu thực tiễn, thể hiện những quan niệm, quan điểm,
cách đánh giá của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá
nhân khác nhau về những hiện tượng của nhà nước và pháp luật,
tạo căn cứ, cơ sở để nhận thức, phân tích, đánh giá một cách
khách quan, tồn diện các vấn đề của nhà nước và pháp luật, từ
đó hình thành hoặc kiểm nghiệm lại những quan điểm, luận điểm,
khái niệm, kết luận của Lí luận chung về nhà nước và pháp luật,
đề xuất và áp dụng các giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu lực,

hiệu quả của nhà nước, pháp luật trong đời sống xã hội. Phương
15


pháp xã hội học được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau
như theo dõi, phỏng vấn, thăm dò dư luận xã hội, phát phiếu điều
tra xã hội học... Chẳng hạn, có thể thơng qua các cuộc khảo sát,
điều tra, phỏng vấn, thăm dò dư luận xã hội để nghiên cứu về ý
thức pháp luật, văn hoá pháp luật, đánh giá hiệu quả hoạt động
của nhà nước và tác dụng của pháp luật, xác định nhu cầu thông
tin, tư vấn pháp luật…
So sánh là phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu trong
nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Phương pháp so sánh được
sử dụng trong nghiên cứu nhà nước, pháp luật nhằm tìm ra những
đặc điểm chung của các kiểu nhà nước, pháp luật và thấy được
đặc điểm riêng của mỗi kiểu nhà nước, pháp luật hoặc biểu hiện
đặc thù của từng nhà nước, pháp luật trong cùng một kiểu nhà
nước, pháp luật. Chẳng hạn, bằng phương pháp so sánh, chúng ta
nhận thấy, các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều có những đặc điểm
cơ bản giống nhau, nhưng mỗi nhà nước xã hội chủ nghĩa có đặc
điểm riêng về hồn cảnh ra đời và lịch sử phát triển.
Tóm lại, khi nghiên cứu nhà nước và pháp luật cần có quan
điểm, lập trường đúng đắn, khoa học, tức là phải dựa trên cơ sở
phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam;
biết vận dụng thành thạo và kết hợp các phương pháp nghiên cứu
cụ thể để luận giải những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của nhà
nước và pháp luật. Nếu chỉ có quan điểm, lập trường đúng đắn,
khoa học mà khơng sử dụng có hiệu quả các phương pháp nghiên
cứu cụ thể thì khơng lí giải được những vấn đề đặt ra. Ngược lại,

việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể mà không dựa
trên cơ sở phương pháp luận khoa học thì dễ mắc sai lầm và
khơng đạt được kết quả mong muốn.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và văn minh
nhân loại, các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội có sự
16


tương hỗ mạnh mẽ và sự xâm nhập vào nhau, làm xuất hiện nhu
cầu khách quan là các khoa học phải sử dụng kết hợp hài hoà các
phương pháp nghiên cứu của khoa học khác. Theo đó, trong khoa
học pháp lí nói chung, Lí luận chung về nhà nước và pháp luật nói
riêng, việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành ngày
càng trở nên phổ biến, chẳng hạn, phương pháp chính trị - pháp lí;
phương pháp kinh tế - pháp lí; phương pháp xã hội học pháp luật…
1.3. Quan hệ giữa Lí luận chung về nhà nước và pháp luật
với một số khoa học xã hội
1.3.1. Quan hệ giữa Lí luận chung về nhà nước và pháp
luật với Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa
học và Chính trị học
Quan hệ giữa Lí luận chung về nhà nước và pháp luật với
Triết học là quan hệ hai chiều, tác động qua lại lẫn nhau: Triết
học là thế giới quan khoa học, cơ sở phương pháp luận của Lí
luận chung về nhà nước và pháp luật, vì nó cung cấp cho Lí luận
chung về nhà nước và pháp luật các nguyên lí triết học của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; hệ thống
các khái niệm, phạm trù, các quy luật cơ bản của tự nhiên, xã hội
và tư duy con người, giúp cho Lí luận chung về nhà nước và pháp
luật nhận thức đúng đắn và phân tích một cách khoa học, sâu sắc,
toàn diện mọi vấn đề về nhà nước và pháp luật. Trên cơ sở các

nguyên lí, khái niệm, phạm trù, quy luật mà Triết học nêu ra, Lí
luận chung về nhà nước và pháp luật tiếp tục nghiên cứu những
vấn đề cơ bản của nhà nước và pháp luật; bổ sung, làm phong
phú thêm hệ thống tri thức triết học về nhà nước, pháp luật; cung
cấp những tư liệu, số liệu cần thiết để triết học tiếp tục tổng kết,
đánh giá, đưa ra những kết luận khoa học, làm phong phú và sâu
sắc hệ thống tri thức của mình.
Đối với Lí luận chung về nhà nước và pháp luật, Kinh tế
chính trị học cung cấp những tri thức khoa học có tính chất nền
17


tảng. Các khái niệm của Kinh tế chính trị học như quan hệ sản
xuất, lực lượng sản xuất, chế độ sở hữu... được Lí luận chung về
nhà nước và pháp luật vận dụng để nghiên cứu nguồn gốc, bản
chất, chức năng, vai trò, kiểu nhà nước và pháp luật. Đến lượt
mình, Lí luận chung về nhà nước và pháp luật lại làm phong phú
thêm hệ thống tri thức khoa học của Kinh tế chính trị học bằng
những luận điểm mới về vị trí, vai trị của nhà nước và pháp luật
đối với đời sống xã hội nói chung, đối với nền kinh tế nói riêng.
Trong khi thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ, tương tác lẫn nhau
giữa hai ngành khoa học này, chúng ta cũng thấy sự khác nhau
giữa chúng. Nếu đối tượng nghiên cứu của Lí luận chung về nhà
nước và pháp luật là nhà nước và pháp luật, hai bộ phận quan
trọng nhất của thượng tầng kiến trúc thì Kinh tế chính trị học chủ
yếu nghiên cứu các quy luật phát triển của hạ tầng cơ sở.
Trong quá trình nghiên cứu đối tượng của mình, Lí luận
chung về nhà nước và pháp luật cũng dựa trên và vận dụng những
quan điểm, tư tưởng khoa học của Chủ nghĩa xã hội khoa học và
Chính trị học. Đặc biệt, những khái niệm cơ bản của Chính trị

học như quyền lực chính trị, cơ chế và phương thức thực hiện
quyền lực chính trị, quan hệ chính trị... được Lí luận chung về
nhà nước và pháp luật sử dụng để nghiên cứu nội dung, bản chất,
vai trò của nhà nước và pháp luật, cơ chế thực hiện quyền lực nhà
nước… trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia.
1.3.2. Quan hệ giữa Lí luận chung về nhà nước và pháp
luật với các khoa học pháp lí khác
Lí luận chung về nhà nước và pháp luật nghiên cứu nhà nước
và pháp luật một cách toàn diện nhất, khái quát nhất và cơ bản
nhất nhằm tạo ra cơ sở, tiền đề tư tưởng khoa học cho các khoa
học pháp lí khác nghiên cứu sâu hơn và cụ thể hơn từng vấn đề
của nhà nước và pháp luật.
Trong hệ thống các khoa học pháp lí, Lí luận chung về nhà
nước và pháp luật là mơn khoa học pháp lí cơ sở, nền tảng, có
18


nhiệm vụ phân tích sâu sắc, khoa học, tồn diện thực tiễn nhà
nước và pháp luật để đưa ra những kết luận, luận điểm khoa học
làm cơ sở cho việc nghiên cứu của các khoa học pháp lí khác.
Các khoa học pháp lí chuyên ngành khi nghiên cứu đối tượng của
mình ln dựa trên những quan điểm chung đã được Lí luận
chung về nhà nước và pháp luật giải thích và kết luận. Nếu không
dựa trên những kết luận, luận điểm khoa học của Lí luận chung
về nhà nước và pháp luật thì việc nghiên cứu của các khoa học
pháp lí khác sẽ khó thành cơng. V. I. Lênin đã khẳng định: “Người
nào tiếp cận những vấn đề riêng mà trước đó khơng giải quyết
những vấn đề chung thì trong mỗi bước đi sẽ không thể tránh
khỏi những vấn đề chung đó một cách vơ thức”.1 Chẳng hạn,
khoa học luật hiến pháp khi nghiên cứu những vấn đề cơ bản về

ngành luật hiến pháp, về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, về mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, về mối quan hệ
giữa nhà nước với cơng dân…; khoa học luật hình sự khi nghiên
cứu vấn đề bản chất và nguyên nhân của tội phạm, mục đích của
hình phạt… đều có sự đối chiếu với các quan điểm lí luận về bản
chất, chức năng, nguyên tắc, quy luật phát triển của nhà nước và
pháp luật và vận dụng những tri thức do Lí luận chung về nhà
nước và pháp luật cung cấp. Các khái niệm do Lí luận chung về
nhà nước và pháp luật xây dựng nên được các nghiên cứu các
lĩnh vực khoa học pháp lí chun ngành sử dụng như những cơng
cụ quan trọng để nghiên cứu đối tượng của mình. Những kiến
thức mà Lí luận chung về nhà nước và pháp luật cung cấp góp
phần quan trọng đảm bảo tính thống nhất về quan điểm, nguyên
tắc đối với các vấn đề chung, cơ bản nhất của khoa học pháp lí.
Nhờ có những kết luận, luận điểm khoa học mang tính nền tảng
của Lí luận chung về nhà nước và pháp luật mà giữa các nhà khoa
học pháp lí có thể thống nhất được với nhau về nhiều vấn đề lí
1

Xem: Lênin toàn tập, tập 15, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tr. 138 (tiếng Nga).

19


luận và thực tiễn đang đặt ra. Bên cạnh đó, những kết luận khoa
học của các khoa học pháp lí khác cũng góp phần làm phong phú
thêm hệ thống tri thức khoa học của Lí luận chung về nhà nước
và pháp luật. Đặc biệt, các khoa học pháp lí khác cung cấp cho Lí
luận chung về nhà nước và pháp luật những số liệu, tư liệu, các kết

luận, luận điểm khoa học quan trọng và cần thiết để Lí luận chung
về nhà nước và pháp luật tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, phân tích,
đánh giá và đưa ra những kết luận, luận điểm khoa học mới.
II. LÍ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT MỘT MÔN HỌC
2.1. Nội dung của mơn học Lí luận chung về nhà nước và
pháp luật
Hệ thống tri thức của ngành khoa học có thể được biên soạn
thành nội dung chương trình phù hợp để truyền đạt cho đối tượng
người học nhất định, từ đó làm hình thành nên những mơn học
tương ứng. Trong điều kiện ngày nay, mỗi mơn học có thể tương
ứng và quan hệ gắn bó chặt chẽ với một hoặc nhiều ngành khoa
học. Với tư cách là khoa học pháp lí cơ sở, nền tảng, có ý nghĩa
phương pháp luận cho các khoa học pháp lí khác, từ lâu, khoa
học Lí luận chung về nhà nước và pháp luật đã được đưa vào
chương trình đào tạo ở các bậc học từ trung học chuyên nghiệp
đến cao đẳng, đại học, sau đại học chun ngành luật, từ đó hình
thành mơn học Lí luận chung về nhà nước và pháp luật.
Trong hệ thống các môn học của các cơ sở đào tạo cử nhân
luật học, Lí luận chung về nhà nước và pháp luật là mơn học pháp
lí cơ sở, nền tảng cho các môn học khác. Nội dung chủ yếu của môn
học này gồm các vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật, như:
nguồn gốc, bản chất, chức năng, bộ máy, hình thức của nhà nước;
nhà nước trong hệ thống chính trị; nhà nước pháp quyền; nguồn
gốc, bản chất, chức năng, hình thức của pháp luật; quy phạm pháp
luật; hệ thống pháp luật; quan hệ pháp luật; thực hiện pháp luật;
vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí; ý thức pháp luật…
20


Như vậy, nội dung mơn học Lí luận chung về nhà nước và

pháp luật không bao gồm tất cả tri thức của khoa học Lí luận
chung về nhà nước và pháp luật, mà chỉ chứa đựng những tri thức
cơ bản nhất, chủ yếu nhất và quan trọng nhất của khoa học ấy.
Tồn bộ nội dung mơn học Lí luận chung về nhà nước và pháp
luật được thể hiện trước hết trong giáo trình Lí luận chung về nhà
nước và pháp luật, được kết cấu thành các chương, mục cụ thể, có
mối quan hệ chặt chẽ, lơgíc và thống nhất với nhau.
Ngồi giáo trình Lí luận chung về nhà nước và pháp luật, nội
dung mơn học Lí luận chung về nhà nước và pháp luật còn được
chứa đựng trong các tài liệu khoa học khác thuộc chuyên ngành
khoa học Lí luận chung về nhà nước và pháp luật ở trong nước và
ngoài nước, như sách chuyên khảo, sách tham khảo, sách hướng
dẫn, bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí khoa học
chuyên ngành, kỉ yếu hội thảo khoa học…
2.2. Mục đích, u cầu của mơn học Lí luận chung về nhà
nước và pháp luật
Xuất phát từ yêu cầu, địi hỏi của cơng tác đào tạo đại học
luật và trên đại học luật, mơn học Lí luận chung về nhà nước và
pháp luật có mục đích trang bị cho người học những kiến thức cơ
bản, chủ yếu, quan trọng nhất về nhà nước và pháp luật, giúp
người học có được phương pháp tư duy đúng đắn, khoa học về
tất cả các vấn đề của nhà nước và pháp luật, trên cơ sở đó, người
học có thể tiếp tục học tập các mơn học khác.
Với mục đích như vậy, mơn học Lí luận chung về nhà nước
và pháp luật đặt ra yêu cầu đối với nội dung môn học, người dạy
và người học.
Đối với nội dung môn học, cần tiếp tục hồn thiện hệ thống
tri thức khoa học Lí luận chung về nhà nước và pháp luật, cần
truyền bá cho người học trên cơ sở vừa tiếp thu những tri thức
khoa học cũ đã được thực tế kiểm nghiệm, có tính ổn định, vừa

21


bồi bổ thêm những tri thức khoa học mới là những thành tựu
nghiên cứu mới ở trong nước và ngoài nước, mà các tri thức khoa
học ấy phù hợp với yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh đổi mới, phát triển bền vững và
hội nhập quốc tế của nước ta.
Đối với người học, cần chủ động, tự giác, tích cực tìm tịi,
học tập, nghiên cứu dưới các hình thức và bằng những phương
pháp thích hợp, khoa học; phối kết hợp chặt chẽ giữa lí thuyết với
thực hành, giữa mơi trường học tập trong nhà trường với mơi
trường học tập ngồi nhà trường; thường xuyên cải tiến phương
pháp học tập, nghiên cứu.
Về phía người dạy, phải chủ động, tự giác, tích cực đề xuất ý
kiến và thực hiện đổi mới, bổ sung, hoàn thiện, nâng cấp nội
dung giảng dạy; thường xuyên cải tiến phương pháp giảng dạy
theo phương châm kết hợp hài hoà các phương pháp truyền thống
với những phương pháp hiện đại; không ngừng tự học tập, nghiên
cứu, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chun mơn và tinh thần
trách nhiệm đối với người học.
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN ÔN TẬP,
ĐỊNH HƯỚNG THẢO LUẬN
1. Phân tích đối tượng nghiên cứu của khoa học Lí luận
chung về nhà nước và pháp luật.
2. Phân tích phương pháp nghiên cứu của khoa học Lí luận
chung về nhà nước và pháp luật.
3. Tại sao Lí luận chung về nhà nước và pháp luật là khoa
học pháp lí cơ sở có ý nghĩa phương pháp luận đối với các khoa
học pháp lí chuyên ngành.

4. Phân tích mối quan hệ giữa khoa học Lí luận chung về nhà
nước và pháp luật với mơn học Lí luận chung về nhà nước và
pháp luật.
22


Chương II
NGUỒN GỐC VÀ KIỂU NHÀ NƯỚC
I. KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC
Nhà nước là hiện tượng xã hội rất đa dạng và phức tạp, được
nhiều ngành khoa học nghiên cứu ở nhiều góc độ, phạm vi khác
nhau. Ngay từ thời cổ đại, các nhà tư tưởng đã quan tâm nghiên
cứu và đã có những luận giải khác nhau về khái niệm nhà nước.
Trải qua các thời đại khác nhau, nhận thức, quan điểm về vấn đề
này ngày càng thêm phong phú. Tuy nhiên, do xuất phát từ những
góc độ nghiên cứu khác nhau, năng lực nhận thức khác nhau, lại
bị chi phối bởi yếu tố lợi ích, quan điểm chính trị…, vì vậy có
nhiều quan niệm khác nhau về nhà nước.
Aristote, nhà tư tưởng vĩ đại thời kì cổ đại, cho rằng, nhà
nước là sự kết hợp của các gia đình. Đề cập nhà nước trong mối
tương quan với quốc gia, một số tác giả cho rằng, nhà nước là
một đơn vị chính trị độc lập, có một vùng lãnh thổ được cơng
nhận là dưới quyền thống trị của nó.1 Cùng quan điểm trên, một
số tác giả khác cho rằng nhà nước là “tổ chức quyền lực chính trị
của xã hội có giai cấp, có lãnh thổ, dân cư và chính quyền độc
lập, có khả năng đặt ra và thực thi pháp luật nhằm thiết lập trật
tự xã hội nhất định trong phạm vi lãnh thổ của mình”.2 Tiếp cận
1

Xem: Nicholas Bates, Margaret Bates, Carolyn Walker, Legal studies for Victoria,

Butterwoths - 1995, tr. 9.
2
Xem: Viện Khoa học pháp lí (Bộ Tư pháp), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển bách
khoa - Nxb. Tư pháp, H. 2006, tr. 584.

23


nhà nước từ quan niệm về pháp luật và trật tự pháp luật, I. Kant
cho rằng: “Nhà nước là sự liên kết của nhiều người phục tùng
pháp luật”; “Nhà nước là trong tư tưởng là cái gì đó phải phù
hợp với các nguyên tắc của pháp luật”.1 Cùng cách tiếp cận này,
một số tác giả khác cho rằng, “Nhà nước hiểu theo nghĩa rộng là
một tập hợp các thể chế nắm giữ những phương tiện cưỡng chế
hợp pháp, thi hành trên một vùng lãnh thổ được xác định và
người dân sống trên lãnh thổ đó được đề cập như một xã hội”.2
Ăngghen khi nghiên cứu về nguồn gốc của nhà nước đã đề
xuất một số quan niệm về nhà nước. Ông cho rằng, nhà nước là
sản phẩm của xã hội đã phát triển đến giai đoạn nhất định, khi xã
hội đã phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giai cấp là khơng
thể điều hồ được, nhà nước là lực lượng “nảy sinh từ xã hội
nhưng lại đứng trên xã hội”, “có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung
đột và giữ cho sự xung đột đó trong vịng “trật tự”.3 Phát triển
quan điểm của Ăngghen, nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong
việc duy trì sự thống trị giai cấp, Lênin quan niệm: “Nhà nước
bao giờ cũng là một bộ máy nhất định, nó tự tách ra từ xã hội và
gồm một nhóm người chỉ chuyên hay gần như chỉ chuyên, hay
chủ yếu chỉ chuyên làm công việc cai trị”.4 Theo Lênin, nhà nước
sinh ra để thực hiện sự thống trị giai cấp: “Nhà nước là bộ máy
dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp

khác”.5 Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, ơng cịn nhấn
mạnh: “Nhà nước theo đúng nghĩa của nó, là bộ máy trấn áp đặc
biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác”.6
1

Xem: Hợp tuyển Lí luận nhà nước và pháp luật (tiếng Nga), tập 1, Nxb. Luật
gia, Matxcơva, 2001, tr. 165.
2
Xem: Ngân hàng thế giới, Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Báo
cáo về tình hình thế giới năm 1997, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1998, tr. 34.
3
Xem: Mác - Ăngghen toàn tập, tập 21, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2004, tr. 253.
4
Xem: Lênin toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến bộ, M. 1976, tr. 84.
5
Xem: Lênin toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến bộ, M. 1976, tr. 84.
6
Xem: Lênin toàn tập, tập 33, Nxb. Tiến bộ, M. 1976, tr. 110.

24


Tóm lại, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm
nhà nước, mỗi cách tiếp cận xây dựng nên khái niệm nhà nước
với ý nghĩa riêng, phục vụ mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
riêng. Điều này cũng chứng tỏ, nhà nước là một hiện tượng đa
dạng, phức tạp, khái niệm nhà nước có nội hàm phong phú, có
tính đa diện, đa chiều.
Là một hình thức tổ chức của con người, nhà nước khơng
đồng nhất với xã hội, nó chỉ là một bộ phận của xã hội. Nhà

nước bao gồm những người không tham gia vào hoạt động sản
xuất trực tiếp, nó được tổ chức ra để quản lí xã hội, điều hành
mọi hoạt động của xã hội. Sự ra đời, tồn tại của nhà nước trong
đời sống xã hội là tất yếu trước nhu cầu phối hợp hoạt động
chung, duy trì trật tự chung, phịng chống ngoại xâm, thiên tai,
bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng. Nhà nước được xem như cơ
quan quyền lực tối cao của xã hội nhưng lại bị chi phối bởi
những kẻ mạnh, lực lượng này dùng nhà nước vừa thực hiện
việc điều hành các hoạt động chung của xã hội, vừa làm lợi
riêng cho giai cấp mình.
Nhà nước cũng khơng hồn tồn đồng nhất với quốc gia, nó
chỉ là một trong ba yếu tố hợp thành quốc gia. Mặc dù nhà nước
và pháp luật có sự gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau, tuy nhiên đó
là hai hiện tượng khác nhau, do vậy về mặt nhận thức, không thể
đồng nhất nhà nước và pháp luật.
Từ những phân tích nêu trên, có thể định nghĩa: Nhà nước là
tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người
được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ
chức và quản lí xã hội, phục vụ lợi ích chung của tồn xã hội
cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền trong xã hội.
So với các tổ chức xã hội khác (tổ chức phi nhà nước), nhà
nước có các đặc trưng sau đây:
25


×