Tải bản đầy đủ (.pdf) (399 trang)

Giáo trình luật hình sự việt nam, phần chung nguyễn ngọc hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.6 MB, 399 trang )

PHẦN CHUNG

1


4430-2017/CXBIPH/03-651/CAND

2


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Giáo trình
PHẦN CHUNG
(In lần thứ 23 có sửa đổi, bổ sung)

NHÀ XUẤT BẢN CƠNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2017

3


Chủ biên
GS.TS. NGUYỄN NGỌC HOÀ

Tập thể tác giả
GS.TS. NGUYỄN NGỌC HOÀ

Chƣơng I đến Chƣơng XI

TS. HOÀNG VĂN HÙNG



Chƣơng XIII

TS. HOÀNG VĂN HÙNG &
TS. TRẦN VĂN DŨNG

Chƣơng XVI

TS. NGUYỄN TUYẾT MAI

Chƣơng XV

GS.TS. LÊ THỊ SƠN

Chƣơng XIV

PGS.TS. TRƢƠNG QUANG VINH

Chƣơng XII

Thƣ kí nhóm biên soạn: TS. TRẦN THÁI DƢƠNG

4


LỜI NĨI ĐẦU
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tồn tập) được biên soạn
lần đầu năm 2000 trên cơ sở kế thừa, phát triển các giáo trình
luật hình sự của Nhà trường được ấn hành từ năm 1992 và đều
do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hồ làm chủ biên. Giáo trình này đã

được in lại nhiều lần. Lần in năm 2017 là lần in thứ 23.
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khố XIII, kì họp thứ 10
thơng qua ngày 27 tháng 11 năm 2015, được sửa đổi, bổ sung
năm 2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.
Trước tình hình đó, tập thể tác giả đã tổng rà sốt lại tồn
bộ Giáo trình về nội dung khoa học cũng như về hình thức thể
hiện. Trên cơ sở rà soát này, các tác giả đã chỉnh lí, bổ sung và
hồn thiện Giáo trình luật hình sự Việt Nam cho phù hợp với nội
dung của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 đã được sửa đổi,
bổ sung năm 2017, kịp thời phục vụ nhu cầu học tập, nghiên
cứu, giảng dạy của giảng viên, sinh viên và các đối tượng khác.
Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật
Hà Nội được tái bản có chỉnh lí lần này gồm 3 quyển: Quyển 1
về Phần chung; Quyển 2 và Quyển 3 về Phần các tội phạm.
Các chương của Giáo trình về cơ bản vẫn giữ kết cấu như các
lần in trước đây, cụ thể:
5


- Về nội dung, ở các chương về phần chung, Giáo trình
được kết cấu theo các vấn đề và ở các chương về phần các tội
phạm, giáo trình được kết cấu theo nhóm các tội phạm (các
chương trong Phần các tội phạm của BLHS).
- Về sự giải thích, Giáo trình đảm bảo kết hợp giữa tính
khoa học với tính có căn cứ theo luật định. Tuy nhiên, với yêu
cầu của chương trình đào tạo luật ở bậc đại học, sự giải thích
trong Giáo trình cũng có mức độ nhất định; mặt khác, nhiều
vấn đề trong Bộ luật cần phải được sự giải thích chính thức
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Về cách trình bày, các tác giả lưu ý bạn đọc về các định
nghĩa khái niệm dưới hình thức in nghiêng. Các chữ viết tắt,
các thuật ngữ được sử dụng thống nhất ở tất cả các chương,
mục của Giáo trình.
Với sự tham gia biên soạn của các giảng viên có kinh
nghiệm, hi vọng rằng bộ Giáo trình này sẽ đáp ứng được sự
mong đợi của bạn đọc. Trường Đại học Luật Hà Nội xin
trân trọng giới thiệu bộ Giáo trình luật hình sự Việt Nam và
rất mong nhận được sự góp ý, phê bình của bạn đọc để bộ
Giáo trình này ngày càng hồn thiện.
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

6


7


BẢNG TỪ VIẾT TẮT

8

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự


CTTP

Cấu thành tội phạm

QHNQ

Quan hệ nhân quả

TNHS

Trách nhiệm hình sự

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


CHƢƠNG I
KHÁI NIỆM, NHIỆM VỤ VÀ CÁC NGUYÊN TẮC
CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM LUẬT HÌNH SỰ
Luật hình sự là ngành luật trong hệ thống pháp luật có đối
tƣợng và phƣơng pháp điều chỉnh đặc biệt, tuân theo các nguyên
tắc và thực hiện các nhiệm vụ riêng.(1) Với tính chất là ngành
luật, luật hình sự đƣợc hiểu là hệ thống các quy phạm pháp luật
xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm
và quy định hình phạt có thể áp dụng cho các tội phạm đó.
Với hai nội dung nhƣ vậy mà ngành luật này có tên gọi gắn
với một trong hai nội dung đó - tội phạm hoặc hình phạt. Ví dụ:
Trong tiếng Anh, ngành luật này thƣờng đƣợc gọi là Criminal

Law (pháp luật hay ngành luật về tội phạm); còn trong tiếng
Đức, ngành luật này lại thƣờng đƣợc gọi là Strafrecht (pháp
luật hay ngành luật về hình phạt). Trong tiếng Việt, hình sự có
nghĩa là sự trừng trị, trừng phạt và ngành luật hình sự cũng có
nghĩa là ngành luật về trừng phạt hay về hình phạt.
(1). Khái niệm luật hình sự có thể đƣợc dùng để chỉ ngành luật nhƣng cũng có
thể đƣợc hiểu là một trong những hình thức văn bản quy phạm pháp luật - luật
(hoặc bộ luật) của ngành luật hình sự. Luật hình sự cịn có thể đƣợc dùng để
chỉ mơn khoa học nghiên cứu ngành luật hình sự.

9


Quy phạm pháp luật của ngành luật hình sự đƣợc hình thành
qua các quy định của pháp luật. Đó là các quy định chung về tội
phạm và hình phạt, là các quy định về các tội phạm cụ thể và
các khung hình phạt cụ thể. Các quy định này đều phải đƣợc thể
hiện ở hình thức văn bản quy phạm pháp luật cao nhất trong hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam hay nói cách khác,
các quy định về tội phạm và hình phạt phải do cơ quan quyền
lực nhà nƣớc cao nhất của Nhà nƣớc Cộng hoà XHCN Việt
Nam ban hành vì tính đặc biệt của các quy định này.
Bên cạnh nội dung quy định hình phạt, ngành luật hình sự
cịn quy định các biện pháp hình sự khác khơng phải là hình
phạt. Trong các BLHS Việt Nam, các biện pháp này có tên gọi
là các biện pháp tƣ pháp và đƣợc coi là các biện pháp hỗ trợ
hoặc thay thế cho hình phạt. Các biện pháp phi hình phạt này
có xu hƣớng phát triển trong luật hình sự của các nƣớc cũng
nhƣ của Việt Nam. Tuy nhiên, hình phạt vẫn là biện pháp
cƣỡng chế hình sự chính và có tính đặc trƣng của ngành luật

hình sự. Do vậy, khi nói về ngành luật hình sự, các tài liệu
thƣờng chỉ nói đến hình phạt. BLHS Việt Nam khi xác định
nhiệm vụ của mình cũng chỉ viết: “… Bộ luật này quy định về
tội phạm và hình phạt”. (Điều 1 BLHS)
Với nội dung xác định tội phạm và quy định hình phạt,
ngành luật hình sự có đối tượng điều chỉnh và phương pháp
điều chỉnh đặc biệt.
1. Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự
Đối tƣợng điều chỉnh của ngành luật hình sự trƣớc hết là
quan hệ xã hội giữa Nhà nƣớc và ngƣời phạm tội. Khi có sự
10


kiện tội phạm xảy ra - một loại quan hệ xã hội đặc biệt giữa
Nhà nƣớc và chủ thể đã gây ra sự kiện tội phạm đó đƣợc phát
sinh. Ngành luật hình sự điều chỉnh quan hệ xã hội này qua
việc xác định quyền và nghĩa vụ pháp lí của hai chủ thể - Nhà
nƣớc và ngƣời phạm tội. Trong quan hệ này, ngƣời phạm tội
có nghĩa vụ pháp lí phải chịu TNHS, trong đó có hình phạt cịn
Nhà nƣớc có quyền buộc ngƣời phạm tội phải thực hiện nghĩa
vụ pháp lí đó. Đối với ngƣời phạm tội, Nhà nƣớc có quyền
buộc họ phải chịu TNHS; đối với xã hội, Nhà nƣớc có trách
nhiệm xử lí nghiêm minh những ngƣời đã thực hiện hành vi
phạm tội để bảo đảm trật tự xã hội, trấn áp tội phạm. Ngƣời
phạm tội, tuy có nghĩa vụ pháp lí phải chịu TNHS nhƣng cũng
có quyền yêu cầu Nhà nƣớc chỉ đƣợc buộc mình chịu TNHS
đúng với quy định của pháp luật.
Với việc quy định TNHS của pháp nhân thƣơng mại, luật
hình sự Việt Nam đã mở rộng phạm vi chủ thể phải chịu
TNHS và do vậy cũng mở rộng đối tƣợng điều chỉnh của mình.

Theo đó, ngành luật hình sự cũng điều chỉnh quan hệ giữa Nhà
nƣớc với pháp nhân thƣơng mại phải chịu TNHS. Trong quan
hệ này, Nhà nƣớc có quyền và nghĩa vụ đối với pháp nhân
thƣơng mại phải chịu TNHS tƣơng tự nhƣ đối với ngƣời phạm
tội. Trái lại, pháp nhân thƣơng mại phải chịu TNHS cũng có
nghĩa vụ và quyền tƣơng tự nhƣ ngƣời phạm tội.
Đối tƣợng điều chỉnh của luật hình sự là quan hệ xã hội có
tính đặc thù. Quan hệ xã hội là đối tƣợng điều chỉnh của ngành
luật hình sự khơng những khơng cần thiết cho sự tồn tại và
phát triển của xã hội mà trái lại, xã hội đã phải chịu sự tác động
11


xấu khi quan hệ xã hội này phát sinh. Các quan hệ xã hội cần
thiết cho xã hội đƣợc các ngành luật khác điều chỉnh nhƣ quan
hệ sở hữu đƣợc ngành luật dân sự điều chỉnh, quan hệ vợ
chồng đƣợc ngành luật hơn nhân và gia đình điều chỉnh v.v.
đều không phải là đối tƣợng điều chỉnh của ngành luật hình sự
nhƣng có thể là đối tượng bảo vệ của ngành luật hình sự khi bị
xâm hại ở mức độ nhất định. Các ngành luật khác có thể vừa
điều chỉnh và vừa bảo vệ cùng nhóm các quan hệ xã hội nhất
định, cịn ngành luật hình sự chỉ điều chỉnh một loại quan hệ xã
hội - quan hệ giữa Nhà nƣớc và ngƣời phạm tội cũng nhƣ với
pháp nhân thƣơng mại phải chịu TNHS và bảo vệ nhiều loại
quan hệ xã hội khác đƣợc các ngành luật khác điều chỉnh.(1) Với
lí do này mà quy phạm pháp luật hình sự có thể đƣợc coi là quy
phạm pháp luật bảo vệ mà không phải là quy phạm pháp luật
điều chỉnh.(2) Quy phạm pháp luật hình sự khơng chỉ xác định
quyền và nghĩa vụ pháp lí của các chủ thể của quan hệ pháp
luật hình sự mà cịn là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh

giá hành vi của con ngƣời có phải là tội phạm hay khơng.(3) Là
tiêu chuẩn đánh giá hành vi của con ngƣời, quy phạm pháp luật
hình sự tuy khơng trực tiếp điều chỉnh xử sự của con ngƣời
(1). Theo GS.TSKH. Đào Trí Úc thì luật hình sự có thể bảo vệ cả các quan hệ xã
hội chƣa đƣợc ngành luật nào điều chỉnh (Đào Trí Úc, Luật hình sự Việt Nam,
Quyển 1 - Những vấn đề chung, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 84).
(2). Theo cách phân loại quy phạm pháp luật đƣợc trình bày trong Giáo trình lí
luận nhà nước và pháp luật của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2008, tr. 396; (hoặc trong cuốn Lí luận về nhà nước và pháp
luật của PGS.TS. Nguyễn Văn Động, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2008, tr. 258).
(3). Xem: Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lí luận nhà nước và pháp
luật, sđd, tr. 379.

12


trong cuộc sống hàng ngày nhƣ các ngành luật khác (mà chỉ
điều chỉnh xử sự của Nhà nƣớc và ngƣời phạm tội cũng nhƣ
pháp nhân thƣơng mại phải chịu TNHS sau khi có sự kiện tội
phạm xảy ra) nhƣng vẫn có tác động điều chỉnh xử sự đó của
con ngƣời. Quy phạm pháp luật hình sự xác định tội phạm, quy
định hình phạt và qua đó gián tiếp “cấm đốn” việc thực hiện
những hành vi bị coi là tội phạm - những hành vi đã đƣợc quy
định trong luật hình sự. Với lí do này mà quy phạm pháp luật
hình sự cịn có thể đƣợc coi là quy phạm pháp luật cấm đoán
và sự cấm đoán này gián tiếp điều chỉnh xử sự của con ngƣời
theo hƣớng tránh thực hiện hành vi phạm tội.
2. Phương pháp điều chỉnh của luật hình sự
Xuất phát từ đặc điểm của đối tƣợng điều chỉnh cũng nhƣ
nội dung quyền, nghĩa vụ pháp lí của các chủ thể trong quan hệ

pháp luật hình sự, có thể rút ra phƣơng pháp điều chỉnh của
ngành luật hình sự là phƣơng pháp mệnh lệnh - phục tùng.
Trong quan hệ pháp luật hình sự, Nhà nƣớc có quyền buộc
ngƣời phạm tội phải chịu TNHS, phải chịu hình phạt; ngƣời
phạm tội có nghĩa vụ pháp lí phải thực hiện TNHS, chấp hành
hình phạt và việc chấp hành này khơng thể tránh khỏi vì nó
đƣợc bảo đảm bằng cƣỡng chế của Nhà nƣớc.
Trong trƣờng hợp pháp nhân thƣơng mại cùng phải chịu
TNHS với cá nhân về tội phạm đã xảy ra, Nhà nƣớc có quyền
buộc pháp nhân thƣơng mại phải chịu hình phạt; pháp nhân
thƣơng mại có nghĩa vụ pháp lí phải chấp hành hình phạt.
Phƣơng pháp điều chỉnh của ngành luật hình sự là phƣơng
pháp mệnh lệnh - phục tùng. Theo đó, các quy phạm pháp luật
13


hình sự đều có cách thức tác động chung là bắt buộc ngƣời
phạm tội cũng nhƣ pháp nhân thƣơng mại trong trƣờng hợp
nhất định phải thực hiện nghĩa vụ pháp lí là TNHS.
Qua đó, quy phạm pháp luật hình sự cũng gián tiếp điều
chỉnh hành vi của con ngƣời trong cuộc sống hàng ngày với
cách thức tác động là cấm đốn.
Ngồi ra, trong luật hình sự cịn có một số điều luật mà
cách thức tác động là cho phép (đƣợc thực hiện quyền nhất
định nhƣ quyền phịng vệ chính đáng v.v.). Tuy nhiên, cách
thức tác động cấm đoán và cho phép đều không phải là cách
thức tác động đặc trƣng của ngành luật hình sự.
Tóm lại, phƣơng pháp điều chỉnh của ngành luật hình sự là
phƣơng pháp mệnh lệnh - phục tùng và cách thức tác động đặc
trƣng là bắt buộc.

3. Quy phạm pháp luật hình sự
Nội dung của quy phạm pháp luật hình sự đƣợc thể hiện
thơng qua các quy định của luật. Đó là các quy định chung về
tội phạm và hình phạt; các quy định về các tội phạm cụ thể và
các khung hình phạt cụ thể. Các quy định chung về tội phạm
và hình phạt tạo thành Phần chung của luật hình sự; Phần các
tội phạm của luật hình sự là phần đƣợc hình thành bởi các quy
định về tội phạm cụ thể và khung hình phạt cụ thể có thể đƣợc
áp dụng cho tội phạm cụ thể đó.
Quy phạm pháp luật hình sự đƣợc thể hiện qua các quy định
của luật hình sự hay nói cách khác là qua các điều luật. Giữa
quy phạm pháp luật hình sự và điều luật của luật hình sự có sự

14


khác nhau.(1) Một điều luật quy định về tội phạm cụ thể mới chỉ
thể hiện nội dung cơ bản của một quy phạm pháp luật hình sự
mà chƣa phải là một quy phạm pháp luật hình sự hồn chỉnh.
Một quy phạm pháp luật hình sự hồn chỉnh ln bao gồm nội
dung của điều luật về một tội phạm cụ thể và nội dung các điều
luật quy định về những vấn đề chung của tội phạm. Ví dụ: Điều
141 BLHS có nội dung:“Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng
vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng khơng thể tự vệ được của nạn
nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt
tù từ 02 năm đến 07 năm”. Nội dung này mới chỉ là phần cơ bản
của quy phạm pháp luật hình sự vì trong nội dung này chƣa có
nội dung giải thích dấu hiệu “ngƣời nào”. Dấu hiệu này đƣợc
giải thích qua các điều luật về tuổi chịu TNHS (Điều 12 BLHS)

và về tình trạng khơng có năng lực TNHS (Điều 21 BLHS).
Với nội dung là xác định tội phạm và quy định hình phạt,
quy phạm pháp luật hình sự địi hỏi phải có hai bộ phận cấu
thành - bộ phận xác định tội phạm và bộ phận quy định hình
phạt. Tuy nhiên, việc xác định hai bộ phận đó trong cấu trúc
của quy phạm pháp luật nói chung cũng nhƣ của quy phạm
pháp luật hình sự nói riêng có sự khơng thống nhất giữa các
nhà nghiên cứu và giảng dạy. Bên cạnh quan điểm cho rằng
quy phạm pháp luật nói chung cũng nhƣ quy phạm pháp luật
hình sự nói riêng có ba bộ phận (giả định, quy định và chế

(1). Về vấn đề này có thể xem thêm: Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình
lí luận nhà nước và pháp luật, sđd, tr. 394 và các tr. tiếp theo.

15


tài)(1) cũng có quan điểm cho rằng quy phạm pháp luật chỉ có
hai bộ phận (giả định và quy định hoặc giả định và chế tài)).(2)
Tác giả cho rằng quy phạm pháp luật hình sự là loại quy phạm
tƣơng đối đặc biệt so với quy phạm pháp luật của các ngành
luật khác nên khó có sự thống nhất trong cách hiểu về nội dung
cũng nhƣ cấu trúc của loại quy phạm pháp luật này. Nhƣng
điều chắc chắn là quy phạm pháp luật hình sự phải có hai bộ
phận - bộ phận mô tả tội phạm và bộ phận xác định khung hình
phạt (chế tài) có thể đƣợc áp dụng đối với tội phạm đó. Trong
đó, bộ phận mơ tả tội phạm gồm 2 phần: Phần mô tả chủ thể
cùng các điều kiện khác (nếu có) và phần mơ tả hành vi phạm
tội. Ví dụ: Bộ phận mơ tả tội phạm tại Điều 132 BLHS. Tội
không cứu giúp ngƣời đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến

tính mạng là: “Người nào thấy người khác đang ở trong tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà khơng cứu
giúp dẫn đến hậu quả người đó chết”. Trong đó, phần mơ tả chủ
thể là “ngƣời nào”, phần mô tả điều kiện khác là “có điều kiện
(cứu giúp)”; phần mơ tả hành vi phạm tội là “không cứu giúp
dẫn đến hậu quả người đó chết”. Theo cơng thức chung của quy
phạm pháp luật (nếu - thì - mà khác thì sẽ…)(3) phần mô tả chủ
(1). Xem: Trung tâm đào tạo từ xa của Đại học Huế, Giáo trình luật hình sự
Việt Nam - Phần chung, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 88; Khoa luật Đại học
quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần chung, Nxb. Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001, tr. 76.
(2). Xem: Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lí luận nhà nước và pháp
luật, sđd, tr. 383.
(3). Công thức chung này đƣợc trích trong Giáo trình lí luận chung về nhà
nước và pháp luật của Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học quốc
gia Hà Nội, 2007, tr. 381.

16


thể và các điều kiện khác thuộc về giả định (“nếu”), phần mô tả
hành vi phạm tội thuộc về quy định (“mà khác”). Phần quy định
(“thì”) là phần ẩn trong quy phạm pháp luật hình sự (trong ví dụ
trên, phần ẩn đƣợc hiểu là thì phải cứu giúp).
II. CÁC NHIỆM VỤ (CHỨC NĂNG) CỦA LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM
Trong sách báo pháp lí, nhiệm vụ của luật hình sự thƣờng
đƣợc nói đến khi các tác giả viết về ngành luật hình sự và
trong BLHS Việt Nam, Điều 1 cũng đề cập nhiệm vụ của
BLHS. Tuy nhiên, vì luật hình sự đƣợc xem là “cơng cụ” nên

nói chức năng của luật hình sự phù hợp hơn so với nói nhiệm
vụ của luật hình sự.(1) Với nội dung của ngành luật hình sự
đƣợc nêu trên có thể rút ra chức năng của luật hình sự là
phƣơng tiện chống và phịng ngừa tội phạm, là phƣơng tiện
bảo vệ và giáo dục. Với cách nói tắt thì luật hình sự có các
chức năng: Chức năng chống và phòng ngừa tội phạm, chức
năng bảo vệ và chức năng giáo dục. Các chức năng này tuy có
nội dung riêng nhƣng khơng độc lập hồn tồn mà có mối
quan hệ biện chứng với nhau.
1. Chức năng chống và phịng ngừa tội phạm của luật
hình sự
Chống tội phạm và phịng ngừa tội phạm là hai hoạt động
tuy có nội dung khác nhau nhƣng không tách rời nhau. Trong
(1). Theo Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hố-thơng tin, Hà Nội, 1998:
Nhiệm vụ là công việc phải làm (tr. 1251) cịn chức năng là nhiệm vụ, cơng
dụng và vai trị (tr. 413). Theo đó, nhiệm vụ thƣờng gắn với chủ thể hành động
cịn chức năng ở nghĩa cơng dụng và vai trò thƣờng gắn với phƣơng tiện hành động.

17


đó, chống tội phạm là hoạt động trực diện với tội phạm - hoạt
động phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử tội phạm. Phòng
ngừa tội phạm bao gồm nhiều hoạt động khác nhau nhằm ngăn
ngừa không để cho tội phạm xảy ra và đều có quan hệ mật thiết
với hoạt động chống tội phạm. Chống tội phạm có hiệu quả
khơng chỉ có tác dụng răn đe, ngăn ngừa tội phạm mà cịn có
thể định hƣớng cho các hoạt động phòng ngừa tội phạm. Do
vậy, hoạt động chống tội phạm cũng đƣợc coi là hoạt động
phòng ngừa tội phạm đặc biệt. Hoạt động chống và phòng ngừa

tội phạm phải dựa trên cơ sở pháp lí chung hay nói cách khác là
đều phải sử dụng cơng cụ pháp lí chung là luật hình sự. Hiệu
quả của chống và phịng ngừa tội phạm phụ thuộc một phần
quan trọng vào độ hoàn thiện của luật hình sự. Do vậy, luật hình
sự đã đƣợc coi “là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu
để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm…”.(1) Chức năng
chống và phịng ngừa tội phạm của luật hình sự đƣợc khẳng
định rõ tại Điều 1 BLHS. Để thực hiện tốt chức năng chống và
phòng ngừa tội phạm đòi hỏi luật hình sự phải ln ln đƣợc
hồn thiện theo sát sự thay đổi của tình hình tội phạm, đáp ứng
đƣợc yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tội phạm.(2)
2. Chức năng bảo vệ của luật hình sự
Qua chức năng chống và phịng ngừa tội phạm, luật hình sự
đồng thời có chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội quan trọng
cần thiết cho sự ổn định và phát triển của xã hội trƣớc sự xâm
hại của tội phạm. Ngành luật hình sự là cơng cụ pháp lí “góp
(1). Lời nói đầu BLHS Việt Nam năm 1999.
(2). Xem: Nguyễn Ngọc Hồ, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Cơng an
nhân dân, Hà Nội, 2008, tr. 252 và các tr. tiếp theo.

18


phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức,
góp phần duy trì trật tự an tồn xã hội, trật tự quản lí kinh tế,
bảo đảm cho mọi người được sống trong một mơi trường xã hội
và sinh thái an tồn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao”.(1)
Đối tƣợng bảo vệ của ngành luật hình sự đều đƣợc xác định

rõ ràng trong các BLHS: BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và
BLHS năm 2015. Theo Điều 8 BLHS năm 2015, đối tƣợng bảo
vệ của luật hình sự là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, quyền con ngƣời, quyền, lợi ích hợp pháp
khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật.
Để thực hiện tốt chức năng bảo vệ của mình, ngành luật hình
sự cần phải xác định đúng, đầy đủ và kịp thời những hành vi có
thể gây nguy hiểm cho các đối tƣợng bảo vệ để quy định là tội
phạm. Có nhƣ vậy ngành luật hình sự mới có thể trở thành
cơng cụ pháp lí hữu hiệu bảo vệ các quan hệ xã hội đã đƣợc
xác định qua việc chống và phòng ngừa một cách tồn diện tất
cả các tội phạm, khơng có hành vi nào nguy hiểm (ở mức tội
phạm) cho đối tƣợng bảo vệ của ngành luật hình sự bị bỏ qua.
3. Chức năng giáo dục của luật hình sự
Chống tội phạm qua việc xử phạt ngƣời phạm tội (cũng
nhƣ pháp nhân thƣơng mại trong trƣờng hợp nhất định) khơng
(1). Lời nói đầu BLHS Việt Nam năm 1999.

19


chỉ nhằm trừng trị mà cịn nhằm mục đích giáo dục họ và giáo
dục mọi ngƣời nói chung. Do vậy, ngành luật hình sự khơng
chỉ là cơng cụ chống tội phạm mà cịn có chức năng giáo dục.
Cũng chính qua chức năng giáo dục mà ngành luật hình sự có
thể thực hiện đƣợc chức năng phòng ngừa tội phạm của mình.
Ngành luật hình sự khơng chỉ là cơng cụ răn đe ngƣời phạm tội
mà còn răn đe cả những ngƣời khác và qua đó giáo dục ngƣời

phạm tội cũng nhƣ mọi ngƣời ý thức tuân thủ pháp luật, tránh
các hành vi phạm tội. Ngành luật hình sự cũng là cơng cụ giáo
dục ý thức tham gia chống và phòng ngừa tội phạm cho tất cả
mọi ngƣời với vai trò là cơng dân cũng nhƣ với vai trị là thành
viên của cơ quan hay tổ chức. Chức năng giáo dục của ngành
luật hình sự dựa trên cơ sở chức năng chống tội phạm nhƣng
đồng thời cũng là cơ sở cho chức năng phòng ngừa tội phạm và
chức năng bảo vệ của ngành luật này.
Chức năng giáo dục của ngành luật hình sự đƣợc xác định
cụ thể tại Điều 1 và Điều 31 BLHS (Điều 1. Nhiệm vụ của
BLHS quy định: “… giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp
luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.”; Điều 31.
Mục đích của hình phạt quy định: “… mà cịn giáo dục họ ý
thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, …giáo
dục người, pháp nhân thương mại khác tơn trọng pháp luật,
phịng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.”).
III. CÁC NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Cũng nhƣ các ngành luật khác, ngành luật hình sự đƣợc
xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc nhất định, trong đó có
những ngun tắc có tính chất chung cho cả hệ thống pháp luật
20


và những ngun tắc có tính đặc thù của ngành luật hình sự.
Việc tuân thủ những nguyên tắc này trong xây dựng cũng nhƣ
áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự sẽ đảm bảo cho ngành
luật hình sự thực hiện đƣợc các chức năng của mình. Nhìn tổng
thể, các quy phạm pháp luật hình sự phải thể hiện đƣợc các nội
dung của nguyên tắc đã đặt ra. Có thể có những quy định cụ
thể khơng thể hiện trực tiếp nội dung của nguyên tắc nào của

ngành luật hình sự nhƣng những quy định này đều không đƣợc
trái với các nguyên tắc đó.
Hiện nay, chƣa có sự thống nhất trong việc xác định những
nguyên tắc thuộc hệ thống các nguyên tắc của ngành luật hình
sự.(1) Tác giả xác định có 6 nguyên tắc của luật hình sự, trong
(1). Trong cuốn sách chuyên khảo Luật hình sự Việt Nam, Quyển 1 - Những vấn
đề chung, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2000, tác giả Đào Trí Úc xác định có 7 ngun
tắc của luật hình sự (nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc mọi cơng dân
đều bình đẳng trƣớc pháp luật, ngun tắc trách nhiệm cá nhân, nguyên tắc
TNHS trên cơ sở lỗi, nguyên tắc công bằng về TNHS, nguyên tắc nhân đạo,
nguyên tắc dân chủ); Trong Giáo trình luật hình sự - Phần chung của Khoa
luật Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb. ĐHQGHN, Hà Nội, 2001, tác giả cũng xác
định có 7 ngun tắc của luật hình sự nhƣng khơng trùng hồn tồn với 7
ngun tắc mà tác giả Đào Trí Úc đã xác định (nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc
bình đẳng trƣớc pháp luật, nguyên tắc công minh, nguyên tắc nhân đạo,
nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm, nguyên tắc trách nhiệm do lỗi,
nguyên tắc trách nhiệm cá nhân); Trong Giáo trình luật hình sự - Phần chung
của Trung tâm giáo dục từ xa Đại học Huế, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001, tác
giả xác định có 12 nguyên tắc của luật hình sự (nguyên tắc dân chủ XHCN,
nguyên tắc nhân đạo XHCN, nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc kết hợp
hài hoà chủ nghĩa yêu nƣớc và đoàn kết quốc tế, nguyên tắc chịu trách nhiệm
chỉ đối với hành vi phạm tội cụ thể, nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng
trƣớc pháp luật, ngun tắc khơng tránh khỏi TNHS và hình phạt, nguyên tắc
trách nhiệm cá nhân, nguyên tắc trách nhiệm trên cơ sở lỗi, nguyên tắc phân
hoá trách nhiệm tuỳ thuộc vào tình tiết của việc thực hiện tội phạm, nguyên tắc
cá thể hoá trách nhiệm và hình phạt, ngun tắc cơng bằng).

21



đó có 3 nguyên tắc là những nguyên tắc đặc thù của luật hình
sự. Cụ thể 6 ngun tắc đó là: Nguyên tắc pháp chế; nguyên
tắc bình đẳng trƣớc pháp luật; nguyên tắc nhân đạo; nguyên tắc
hành vi; nguyên tắc có lỗi và ngun tắc phân hố TNHS.
1. Ngun tắc pháp chế
Nguyên tắc pháp chế là nguyên tắc chung của cả hệ thống
pháp luật Việt Nam, đƣợc tuân thủ trong tất cả các ngành luật
cụ thể. Trong ngành luật hình sự, nguyên tắc này đòi hỏi tất cả
các vấn đề về tội phạm và hình phạt đều phải đƣợc quy định cụ
thể, rõ ràng trong văn bản luật (hiện nay là BLHS); việc xác
định tội phạm và hình phạt trong áp dụng luật đều phải dựa
trên các điều luật cụ thể. Nhƣ vậy, nguyên tắc này đòi hỏi phải
đƣợc tuân thủ trong cả hoạt động lập pháp và hoạt động áp
dụng luật. Cụ thể:
- Những hành vi bị coi là tội phạm phải đƣợc quy định thành
các tội danh cụ thể và đƣợc mô tả rõ ràng bởi quy phạm pháp
luật hình sự;
- Những loại hình phạt có thể đƣợc áp dụng cho ngƣời
phạm tội (cũng nhƣ cho pháp nhân thƣơng mại phải chịu
TNHS) phải đƣợc quy định bởi quy phạm pháp luật hình sự và
phải đƣợc xác định cho từng tội danh đã đƣợc quy định;
- Các căn cứ của việc quyết định hình phạt cụ thể cho ngƣời
phạm tội (cũng nhƣ cho pháp nhân thƣơng mại phải chịu TNHS)
phải đƣợc quy định thống nhất bởi quy phạm pháp luật hình sự;
- Việc truy cứu TNHS ngƣời phạm tội (cũng nhƣ pháp
nhân thƣơng mại phải chịu TNHS) phải tuân thủ các quy định
của ngành luật hình sự: Chỉ đƣợc kết tội họ về tội danh đã
22



đƣợc quy phạm pháp luật hình sự quy định cũng nhƣ chỉ đƣợc
tuyên hình phạt trong phạm vi mức độ cho phép của quy phạm
pháp luật hình sự.
Những yêu cầu trên đây của nguyên tắc pháp chế đã đƣợc
thể hiện trong các điều luật của BLHS. Khoản 1 Điều 2 quy
định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định
mới phải chịu TNHS”. Tƣơng tự nhƣ vậy, khoản 2 Điều 2 cũng
xác định pháp nhân thƣơng mại chỉ có thể phải chịu TNHS
theo các tội danh đƣợc quy định tại Điều 76 khi thoả mãn các
điều kiện của Điều 75. Điều 8 cũng khẳng định tội phạm phải
là hành vi đã đƣợc quy định trong BLHS. Điều 30 khi định
nghĩa hình phạt đã khẳng định: Hình phạt “… được quy định
trong Bộ luật này, do toà án quyết định áp dụng…”. Điều 50
quy định: “Khi quyết định hình phạt, toà án căn cứ vào quy
định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,
các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS”.
Từ ngun tắc pháp chế (có tính chất chung), ngành luật
hình sự Việt Nam thừa nhận một số nguyên tắc có tính đặc thù
của ngành luật hình sự nhƣng cũng chỉ là sự biểu hiện của
nguyên tắc pháp chế. Trƣớc hết phải kể đến nguyên tắc đã
đƣợc thừa nhận chung “Nullum crimen sine lege” (khơng có
tội khi khơng có luật). Cũng từ ngun tắc này, ngành luật hình
sự Việt Nam khơng chấp nhận nguyên tắc “áp dụng tương tự”
và nguyên tắc “hiệu lực trở về trước” (còn đƣợc gọi là nguyên
tắc “hồi tố”) để truy cứu TNHS một ngƣời (có hành vi nguy

23



hiểm cho xã hội).(1) Điều 2 và Điều 8 BLHS đã đƣợc nêu trên
thể hiện rõ ràng quan điểm cấm“áp dụng tương tự” để truy
cứu TNHS. Điều 7 BLHS là điều luật thể hiện rõ quan điểm
cấm áp dụng“có hiệu lực trở về trước” để truy cứu TNHS.
2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Điều 16 Hiến pháp quy định: “Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật. Khơng ai bị phân biệt đối xử trong đời sống
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội”. Tƣơng tự nhƣ vậy,
Điều 51 Hiến pháp cũng khẳng định: “Các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng,…”. Cụ thể hố ngun tắc hiến
định này, Điều 3 BLHS Việt Nam quy định: “Mọi người phạm
tội đều bình đẳng trước pháp luật, khơng phân biệt giới tính,
dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần, địa vị xã hội”.
Ngồi ra, điều luật này cịn xác định, mọi pháp nhân thƣơng
mại, khi phải chịu TNHS đều bình đẳng trƣớc pháp luật, khơng
phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.
Ngành luật hình sự với các quy định về tội phạm và các
quy định về hình phạt có giá trị nhƣ nhau đối với tất cả mọi
ngƣời cũng nhƣ mọi pháp nhân thƣơng mại nói chung và đặc
biệt đối với tất cả những ngƣời đã có hành vi phạm tội nói
(1). Áp dụng tương tự để truy cứu TNHS có nghĩa áp dụng một điều luật của luật
hình sự để truy cứu TNHS một ngƣời về hành vi chƣa đƣợc quy định trong luật
hình sự là tội phạm nhƣng tƣơng tự với hành vi đã đƣợc quy định là tội phạm trong
điều luật đó;
Áp dụng hiệu lực trở về trước để truy cứu TNHS là áp dụng một điều luật của
luật hình sự để truy cứu TNHS một ngƣời về hành vi mà ngƣời đó đã thực hiện
trƣớc khi điều luật này có hiệu lực thi hành. Vấn đề này đƣợc trình bày tiếp ở
Chƣơng II.

24



riêng. Ngành luật hình sự khơng đƣợc phép quy định đặc điểm
nhân thân nhƣ đặc điểm về giới tính, về tôn giáo, về thành phần,
địa vị xã hội là cơ sở để truy cứu TNHS. Trong áp dụng luật hình
sự, đặc điểm về nhân thân cũng không đƣợc phép ảnh hƣởng
đến việc truy cứu TNHS theo hƣớng định kiến hay thiên vị.(1)
Cụ thể: Việc xử lí tội phạm khơng bị chi phối bởi giới tính, dân
tộc, tín ngƣỡng, tơn giáo, thành phần, địa vị xã hội của ngƣời
phạm tội; việc truy cứu TNHS pháp nhân thƣơng mại cũng
không bị chi phối bởi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế
của pháp nhân thƣơng mại. Tất cả các cá nhân và pháp nhân
thƣơng mại đều bình đẳng trƣớc pháp luật nói chung cũng nhƣ
pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Ngƣời
phạm tội cũng nhƣ pháp nhân thƣơng mại phải chịu TNHS đều
phải đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng đối xử bình đẳng trong
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
3. Nguyên tắc nhân đạo
Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc chung và là nguyên tắc
đƣợc đặc biệt chú ý trong ngành luật hình sự vì hậu quả mà
ngƣời phạm tội phải chịu theo ngành luật này là hình phạt “biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước…”
(Điều 30 BLHS).
Ngành luật hình sự Việt Nam thể hiện nguyên tắc nhân đạo
qua nhiều điều luật khác nhau. Trong đó có các điều luật về
(1). Ở đây cần phân biệt giữa nguyên tắc này với việc quy định chủ thể đặc
biệt cũng nhƣ việc quy định những đặc điểm nhất định về nhân thân là dấu
hiệu định khung hình phạt hoặc dấu hiệu tăng nặng, giảm nhẹ TNHS (những
vấn đề này đƣợc trình bày ở các chƣơng tiếp theo).

25



×