Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TẠI SGDI-NHĐT&PTVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.2 KB, 27 trang )

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KINH TẾ
NGOÀI QUỐC DOANH TẠI SGDI-NHĐT&PTVN
3.1. Định hướng mở rộng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở
các ngân hàng thương mại.
3.1.1. Chuyển dịch cơ cấu cho vay - một chiến lược quan trọng của các Ngân
hàng thương mại.
Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, các Ngân hàng thương mại
cũng đang xây dựng chiến lược kinh doanh cho phù hợp. Sự thu hẹp của kinh tế Nhà
nước cùng với sự mở rộng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã mở ra một thị
trường mới cho hoạt động Ngân hàng. Hệ thống ngân hàng Việt Nam với 4 Ngân hàng
thương mại quốc doanh là chủ chốt, từ trước đến nay vẫn tập trung cho vay vào các
doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các tổng Công ty 90 - 91. Chủ trương sắp xếp, cổ
phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đã làm cho số lượng các doanh nghiệp này bị thu
hẹp lại. Do vậy, các Ngân hàng thương mại không thể chỉ mãi chú trọng tới nhóm
khách hàng này. Trong khi đó, các Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên
doanh với chiến lược khách hàng của mình đã nhanh chóng chuyển hướng sang thị
trường khách hàng ngoài quốc doanh. Trên thực tế, tỷ trọng cơ cấu cho vay của các
Ngân hàng này khá cao (thường từ 60 - 70%), trong khi tỷ trọng này ở các Ngân hàng
quốc doanh mới chỉ vài phần trăm. Do đó, trước hết vì lợi ích chính bản thân mình, các
Ngân hàng thương mại cần có sự chuyển dịch cơ ấu cho vay chú trọng sang thị trường
kinh tế ngoài quốc doanh.
Để có thể chuyển dịch cơ cấu cho vay của mình, các Ngân hàng cần xây dựng
được kế hoạch, chiến lược kinh doanh phù hợp, trong đó chính sách tín dụng phù hợp là
vấn đề hết sức quan trọng. Muốn vậy, các ngân hàng cần xem xét tất cả các yếu tố ảnh
hưởng đến hoạt động chung của ngành Ngân hàng và đặc biệt là những nhân tố ảnh
hưởng trực tiếp đến việc mở rộng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Phương hướng mở rộng tín dụng của Ngân hàng có thể được xâydựng theo nhiều
hướng khác nhau, căn cứ vào nhiều yếu tố. Nhìn chungm đối với khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh, Ngân hàng có thể mở rộng tín dụng theo những hướng sau.
3.1.2. Mở rộng về đối tượng cho vay.
Như đã phân tích ở trên, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển với nhiều loại hình


kinh tế khác nhau: kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân và các
hình thức liên kết khác. Căn cứ vào từng loại hình mà Ngân hàng sẽ có chính sách phù
hợp.
Đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ: nhu cầu vốn vay của loại hình này thường không
nhiều, chủ yếu vay ngắn hạn để bổ sung lượng tiền mặt thiếu hụt tạm thời. Đứng trên
giác độ quản lý ngân hàng, khoản chi phí mà ngân hàng bỏ ra để thực hiện trên mỗi
món vay là lớn hơn so với việc cho các doanh nghiệp vay. Do đó, bên cạnh việc trực
tiếp cho từng cá nhân vay vốn, đối với những khách hàng có cùng hoạt động sản xuất
kinh doanh, Ngân hàng có thể hướng dẫn họ tập hợp lại nhóm khoảng từ 5 đến 6 người
để thực hiện việc cho vay. Cán bộ tín dụng chỉ cần làm việc với 1 hoặc 2 người đại diện
cả nhóm. Người náỹe trực tiếp chịu trách nhiệm trước ngân hàng về việc sử dụng vốn
vay của tất cả các thành viên trong nhóm cũng như chuyển khoản vay từ ngân hàng tới
các thành viên khác. Bằng cách này, Ngân hàng giảm được chi phí vay, khách hàng bớt
được các thủ tục rườm rà.
Đối với kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân: đây là những đơn vị kinh tế được
tổ chức theo Luật doanh nghiệp. Ngân hàng sẽ căn cứ vào đặc trưng của từng loại hình
mà áp dụng các chính sách tín dụng khác nhau. Ví dụ, bên cạnh việc cho vay ngắn hạn
để bổ sung vốn lưu động, Ngân hàng có thể cho các doanh nghiệp vay để thực hiện dự
án trung và dài hạn. Dựa trên giấy yêu cầu vay vốn của khách hàng, Ngân hàng có thể
cho vay để mua vật tư, hh… các nhu cầu tài chính khác theo quy định của NHNN. Việc
cho vay có bảo đảm hay không bảo đảm đến mức độ nào cũng căn cứ vào tính pháp lý
của từng loại hình doanh nghiệp.
Tóm lại, việc mở rộng đối tượng cho vay không những giúp Ngân hàng có thể
thiết lập quan hệ với nhiều khách hàng mà còn giúp Ngân hàng đa dạng hoá được các
khoản đầu tư của mình. Nhờ vậy, Ngân hàng hạn chế được rủi ro đồng thời bẫn thực
hiện được nhịêm vụ cung ứng vốn cho nền kinh tế.
3.1.3. Mở rộng về quy mô khoản vay
Các đơn vị kinh tế thường có nhu cầu không giống nhau do đặc điểm sản xuất
kinh doanh khác nhau. Bởi vậy, để đáp ứng nhu cầu khách hàng, Ngân hàng có thể mở
rộng việc cho vay theo số lượng và kỳ hạn khác nhau.

Trước hết, để thực hiện việc mở rộng theo hướng này, Ngân hàng phải căn cứ vào
tiềm lực về vốn của mình. Nguồn vốn mà Ngân hàng huy động được có thể theo nhiều
nguồn khác nhau: từ các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân…và gắn liền với kỳ hạn khác
nhau: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng…Thông thường, quy mô của các nguồn này không
giống nhau. Có người chỉ gửi vài ba trăm nghìn, có người lại gửi đến hàng trăm triệu.
Trong khi đó, khách hàng vay vốn cũng có yêu cầu khác nhau về số lượng, thời hạn
cũng như quy mô của cả khoản cho vay và huy động không phải lúc nào cũng phù hợp
với nhau. Do đó, có thể mở rộng theo hướng này, Ngânhàng phải kế hoạch hoá được
nguồn vốn của mình để có sự chủ động, linh hoạt khi cho vay.
3.1.4. Mở rộng theo phương thức cho vay.
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng từng khoản vốn của khách hàng, mối quan hệ giữa
khách hàng và Ngân hàng, Ngân hàng và khách hàng thoả thuận để lựa chọn phương
thức cho vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Xuất phát từ
điều này, Ngân hàng có thể tiến hành cho vaytheo các phương thức như:
- Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và ngân hàng thực hiện thủ tục
vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng và khách hàng xác định thoả thuận
một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Ngân hàng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các
dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời
sống.
- Cho vay hợp vốn: một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án
vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một tổ chức tín dụng
làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
- Cho vay trả góp: khi vay vốn, Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận
số lãi vay vốn phải trả cộng với số nợ gốc được chia để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong
thời hạn cho vay.
- Cho vạy theo hạn mức tín dụng dự phòng; Ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn
sàngcho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Ngân hàng và
khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả

cho hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: ngân hàng chấp
nhận cho khách hàng sử dụng vốn vay trọng phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán
tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền
mặt là đại lý của Ngân hàng.
- Cho vạy theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà Ngân hàng thoả thuận bằng
văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của
khách hàng.
Việc mở rộng, cung ứng các phương thức cho vay phù hợp với đặc điểm, tính chất
kinh doanh của khách hàng sẽ giúp Ngân hàng dễ dàng, thuận tiện hơn trong việc kiểm
tra, giám sát và thu hồi vốn vay. Qua đó, giúp cho hiệu quả kinh doanh của khách hàng
cũng như Ngân hàng được tốt hơn, mối quan hệ giữa hai bên được củng cố, tạo điều
kiện để mở rộng phạm vi hoạt động của Ngân hàng.
3.1.5. Mở rộng theo hình thức cho vay.
Theo hình thức cho vay, Ngân hàng có thể cho khách hàng vay có bảo đảm hoặc
không bảo đảm.
Thông thường khi vay Ngân hàng, khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh phải có tài sản thế chấp đảm bảo. Mặc dù vậy, Ngân hàng có bảo đảm hay không
có bảo đảm. Việc cho vay có thể được đảm bảo bằng tài sản của người vay, bằng bảo
lãnh của bên thứ ba hoặc bằng tài sản hình thành từ chính vốn vay. Đối với những
khách hàng mới hoặc có độ tin cậy không cao, việc bắt buộc phải có biện pháp bảo đảm
là cần thiết cho hoạt động ngân hàng được an toàn.
Bên cạnh đó, ngân hàng có thể cho vay không cần các biện pháp đảm bảo. Hình
thức cho vay này được áp dụng đối với những khách hàng truyền thống, có hoạt động
kinh doanh tốt, có uy tín với ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể tài trợ cho
khách hàng thông qua việc mở L/C trả chậm cho hoạt động xuất nhập khẩu hoặc cho
khách hàng vay thông qua việc mua lại các chứng từ có giá trong thời hạn thanh toán,
bao gồm việc chiết khấu các loại thương phiếu và mua lại các khoản nợ của doanh
nghiệp.
3.1.6. Đảm bảo an toàn vốn - một yêu cầu trong công tác mở rộng tín dụng đối với

kinh tế ngoài quốc doanh.
Dù mở rộng cho vay theo hướng nào, yêu cầu đảm bảo an toàn vốn của ngân hàng
luôn đặt lên hàng đầu, bởi lẽ nguồn vốn mà ngân hàng cho khách hàng vay, là khoản
tiền gửi mà ngân hàng huy động được. Do đó, ngân hàng có trách nhiệm bảo toàn và
hoàn trả lại cho người gửi. Đặc biệt, khi cho kinh tế ngoài quốc doanh vay độ rủi ro của
khoản vốn là cao hơn so với khu vực kinh tế Nhà nước.
Thực tế, mỗi ngân hàng có những biện pháp riêng để bảo toàn những nguồn vốn
của mình. Có ngân hàng chú trọng khâu thẩm định dự án, có ngân hàng lại thực hiện tốt
khâu giám sát sau khi cho vay. Nhưng nhìn chung, việc tuân thủ quy trình tín dụng một
cách chặt chẽ, thực hiện tốt chính sách tín dụng sẽ giúp ngân hàng vừa mở rộng hoạt
động cho vay đồng thời vẫn đảm bảo chất lượng của khoản vay. Do vậy, lợi ích của cả
khách hàng, ngân hàng và xã hội đều được đảm bảo.
3.2. Định hướng về hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh của
sở giao dịch I – NHĐT & PTVN.
Đối với NHTM, việc nâng cao chất lượng tín dụng là một vấn đề hết sức
cấp bách bởi Ngân hàng không chỉ tăng cường cung ứng vốn đáp ứng cho nhu cầu phát
triển kinh tế mà còn là vấn đề quyết định sự tồn tại và phát triển của bản thân Ngân
hàng. Do vậy, bất cứ một Ngân hàng nào cũng đều cố gắng tìm ra những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Tuỳ theo đặc điểm riêng của từng Ngân hàng, mục
tiêu theo đuổi riêng và tình hình phát triển của nền kinh tế thời kỳ đó mà mỗi Ngân
hàng có quan điểm về mở rộng tín dụng riêng và cố gắng tìm ra giải pháp thích hợp cho
mình. Đối với SGD NHĐT&PTVN mục tiêu xuyên suốt trong quá trình hoạt động của
SGD là: hiệu quả khách hàng là phương châm hoạt động. Vì vậy, quan điểm nâng cao
chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh của SGD là:
-Cần hướng tập trung vào các khách hàng ngoài quốc doanh làm ăn có
hiệu quả, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của đất nước cũng như đặc thù kinh
tế trên địa bàn Hà Nội. Nhưng việc mở rộng tín dụng không có nghĩa là mở rộng một
cách tràn lan mà phải nằm trong khả năng quản lý và kiểm soát của SGD. Vì vậy, nếu
Ngân hàng chỉ chạy theo khối lượng tín dụng cung cấp cho khu vực này mà không quan
tâm đến khả năng kiểm soát của Ngân hàng thì chất lượng tín dụng giảm sút, nợ khó đòi

tăng là một điều tất yếu.
- Đảm bảo nhu cầu và lợi ích của khách hàng, lợi nhuận và an toàn cho
Ngân hàng đồng thời phải đúng pháp luật và phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế.
SGD sẽ phân loại khách hàng theo hai hình thức:
- Phân loại khách hàng để tiếp cận:
+ Khách hàng thuọc kinh tế ngoài quốc doanh
+ Khách hàng thuộc kinh tế nhà nước
+ Khách hàng thuộc loại hình liên doanh, có vốn đầu tư nước ngoài...
- Phân loại theo dự án: Tập trung vào những dự án và phương án kinh
doanh có hiệu quả với bất cứ thành phần kinh tế nào để tiếp cận.
SGD đã hình thành một phòng tín dụng "chuyên môn hoá" cho kinh tế
ngoài quốc doanh. Phòng này sẽ chuyên sâu về tín dụng đối với khu vực này và sẽ là cơ
sở nghiên cứu, tiếp cận và mở rộng tín dụng trong thời gian tới.
Mục tiêu đến năm 2005 sẽ đạt được và những năm tiếp theo:
- Dư nợ 42% cho KTQD và 58% cho KTNQD.
- Tổng dư nợ: tằng trưởng tín dụng toàn hệ thốngtối đa 19%
- Nợ quá hạn <4% (theo tiêu chuẩn về nợ quá hạn theo Quyết định
1627/2001/QĐ-NHNN chưa sửa đổi)
- Chênh lệch lãi suất đầu vào vả đầu ra : tối thiểu là 2,8%
- Lãi treo giảm 50%. Trong đó : miễn giảm lãi theo các quy định hiện hành
khoảng 30%, tận thu khoảng 20%. Đối với dư nợ vay thương mại mới phát sinh
phải thu lãi đúng kỳ hạn.
Đổi mới nhận thức và mạnh dạn cho vay khách hàng không kể thành
phần kinh tế nào và chỉ tiêu bao nhiêu nhưng định hướng và nhiệm vụ cho mỗi cán bộ
tín dụng trong 6 tháng phải có một khách hàng mới.
Trước đây, SGD chưa coi họ là đối tượng khách hàng chính nhưng hiện
tại và tương lai SGD sẽ coi kinh tế ngoài quốc doanh là đối tượng khách hàng chủ yếu
của mình và thông qua tín dụng Ngân hàng sẽ thúc đẩy thành phần kinh tế này ngày
càng phát triển.

3.3.Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh
tại SGD I – NHĐT & PTVN.
Trong điều kiện nền kinh tế còn đang trong giai đoạn sắp xếp lại, hành lang pháp
lý còn chưa đồng bộ, sự cạnh tranh gay gắt của các NHTM trên địa bàn v.v... thì tình
trạng giành giật khách hàng là không tránh khỏi ,việc cố tình hạ thấp điều kiện tín dụng
làm nguy cơ rủi ro hoạt động tín dụng sẽ rất cao.Kinh tế ngoài quốc doanh cũng không
nằm ngoài quy luật ấy.Để củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng đôí với thành phần
này tại SGD, em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp chính sau:
3.3.1.Nâng cao năng lực tài chính, huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu
quả.
Nguồn vốn điều lệ hiện nay của SGDI là quá nhỏ so với yêu cầu đòi hỏi.Để
đảm bảo có đủ khả năng tài chính đứng vững trong cạnh tranh,SGD cần nâng cao năng
lực tài chính bằng việc nâng cao nguồn vốn tự có bằng nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ
và NHNN. Cụ thể là đề nghị Nhà nước,Chính phủ,NHNN,BTC cấp bổ xung vốn điều
lệ.
Vì phục vụ chủ yếu cho qúa trình CNH-HĐH đất nước nên phải luôn coi tạo
vốn là khâu mở đường, tạo mặt bằng vốn vững chắc ngày càng tăng trưởng,việc đa
dạng hoá các hình thức,các biện pháp,các kênh huy động vốn từ mọi nguồn trong và
ngoài nước.Vì vậy cần phát huy lợi thế hoạt động ngân hàng để huy động vốn.
3.3.2. Nâng cao chất lượng thẩm định khi cho vay đối với kinh tế ngoài
quốc doanh
Việc nâng cao chất lượng tín dụng là cần thiết để phát triển hoạt động kinh
doanh của SGD bởi vấn đề chất lượng tín dụng mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và
phát triển của SGD. Nếu SGD gia tăng khối lượng tín dụng mà không quan tâm đến
chất lượng tín dụng thì chẳng khác nào cho vay mà không thu hồi nợ. Chất lượng tín
dụng là kết quả các khoản tín dụng được thực hiện trọn vẹn, người vay thực hiện đúng
các cam kết vay tiền, SGD thu được gốc và lãi đúng hạn. Trên thực tế trong quan hệ tín
dụng thì quyền cho vay thực tế là ở SGD, quyền trả nợ thực tế là ở người vay. Do đó,
khi SGD đã quyết định và khoản vay đã được thực hiện thì việc thu hồi vốn lại phụ
thuộc vào người vay hay nói đúng hơn là phụ thuộc vào chính kết quả sử dụng vốn vay.

Như vậy, trong quan hệ tín dụng, việc cho vay hoàn toàn đơn giản vì nó phụ thuộc vào
quyền quyết định của SGD còn việc thu hồi nợ sẽ là khó khăn vì nó phụ thuộc vào thái
độ và khả năng thực hiện các cam kết nghĩa vụ trả nợ của người vay. Vì vậy, thẩm định
khi cho vay là rất quan trọng, đòi hỏi cán bộ SGD phải tuân thủ các nguyên tắc, nội
dung cơ bản của việc phân tích thẩm định khi cho vay.
-Thẩm định tư cách pháp lý và khả năng tài chính của khách hàng
-Thẩm định dự án, phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng
- Phân tích tính cách và uy tín của khách hàng
3.3.3.Đổi mới chính sách tín dụng
3.3.3.1 Đa dạng hoá các hình thức về lãi suất
SGD cũng như các NHTM khác, cho vay dựa vào huy động vốn, do đó
không thể tăng quy mô tín dụng cho nền kinh tế nếu công tác huy động vốn của Ngân
hàng không được cải thiện. Với cơ chế lãi suất hợp lý sẽ là một cơ hội để huy động
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp,
tổ chức kinh tế, kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Sử dụng tốt công
cụ lãi suất trên cơ sở SGD hạn chế tối đa các chi phí không cần thiết để hạ thấp lãi suất
đầu vào nhằm tăng trưởng tín dụng. Bên cạnh đó, cần có các công cụ huy động vốn
hiệu quả hơn như tăng lãi suất đầu vào, nghiệp vụ hoán đổi lãi suất SWAP
- Chính sách lãi suất phải linh hoạt theo đối tượng vay vốn. Trên thực tế,
lãi suất mà SGD áp dụng cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường cao hơn các
Doanh nghiệp Nhà nước. Do đó, tạo sự không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế .
Vì vậy, với các khách hàng quen thuộc, có uy tín vay trả sòng phẳng thì có thể được
hưởng một mức lãi suất ưu đãi thấp hơn, điều đó sẽ góp phần củng cố mối quan hệ lâu
dài với khách hàng, vừa khuyến khích khách hàng tăng cường mối quan hệ với SGD,
vừa tích cực làm ăn có hiệu quả, trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho Ngân hàng.
- Đa dạng hoá các hình thức lãi suất để tạo điều kiện phù hợp với chu kỳ
sản xuất kinh doanh của khách hàng. Dựa vào từng loại lãi suất và từng kỳ hạn, khách
hàng có nhiều cơ hội lựa chọn những khoản vay thích hợp đảm bảo cho hoạt động kinh
doanh của họ đạt hiệu quả cao, đảm bảo trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn.
3.3.3.2. Thay đổi phương pháp tính hạn mức tín dụng.

Theo quyết định số 1627/2001 QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống
đốc NHNNVN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng có quy định"các tổ chức tín dụng có thể áp dụng các phương thức cho vay phù
hợp với từng khách hàng". Nhu cầu vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất
lớn, với vị thế của mình thành phần này không thể đáp ứng được nguồn vốn cho mình
mà phải dựa phần lớn vào Ngân hàng. Chính vì lý do đó, Ngân hàng quy định cho vay
từng lần và hạn mức cho vay đối với đơn vị kinh tế này tối đa không vượt quá 1,5 lần
vốn tự có (thấp hơn nhiều so với khu vực kinh tế quốc doanh), trong khi đó vốn tự có
của kinh tế ngoài quốc doanh so với kinh tế quốc doanh lại quá nhỏ bé sẽ gây ra những
thủ tục phiền hà cho cả khách hàng và cán bộ tín dụng và nhiều thiệt thòi cho kinh tế
ngoài quốc doanh.
Ngoài ra, để cải thiện tình hình cho vay thì SGD ngoài việc chú trọng đến khả
năng tài chính và tài sản đảm bảo cũng nên xem xét đánh giá đúng các phương án kinh
doanh của khối doanh nghiệp này để quyết định cho vay một lượng vốn phù hợp hơn,
thực hiện điều này cũng là tạo cơ hội phát triển cho các thành phần kinh tế phát triển
cân đối hơn.
3.3.3.3 Đa dạng hoá hình thức bảo đảm tiền vay.
Thông thường từ trước đến nay, đối với thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh, SGD vẫn yêu cầu có tài sản thế chấp. Tuy nhiên, không phải vấn đề này lúc nào
cũng thực hiện được. Do đó, bên cạnh việc cho vay theo hình thức này, SGD có thể
nghiên cứu cho vay theo các hình thức khác như kết hợp linh hoạt linh hoạt các hình
thức bảo đảm bằng tín chấp, tín chấp và thế chấp, tín chấp, thế chấp và bảo lãnh.
Với sự phát triển của nền kinh tế hiện nay thì việc cho vay bằng tín chấp
có những khả năng phát triển. Mặc dù không phải cho vay bằng tín chấp là Ngân hàng
có thể bỏ qua những thủ tục cần thiết. Khách hàng cũng cần phải có số liệu chứng minh
tình hình tài chính lành mạnh, phải có tài sản cố định và tài sản lưu động lớn, đối tượng
cho vay là những sản phẩm có hiệu quả và ổn định trên thị trường.
Các biện pháp bảo đảm tiền vay đều phải lập thành văn bản, nhưng lập
chung với hợp đồng tín dụng hay lập thành văn bản riêng là do các bên thoả thuận phù
hợp với tính chất của của tài sản, không bắt buộc phải có hợp đồng riêng như trước đây.

Như vậy sẽ đơn giản hoá thủ tục cho các hộ gia đình vay món nhỏ, hoặc khi khách hàng
cầm cố các chứng từ có giá, vàng bạc thì chỉ cần ghi vào hợp đồng chính là hợp đồng
tín dụng mà không nhất thiết phải có hợp đồng riêng về thế chấp, cầm cố. Đối với các
loại thế chấp bất động sản hoặc cầm cố các loại tài sản lớn, phức tạp thì các bên có thể
thoả thuận lập hợp đồng riêng để thuận cho việc quản lý và xử lý sau này.
3.3.4. Đổi mới chính sách khách hàng.
Một thực tế cho thấy hiện nay các NHTM nói chung và SGD nói riêng
mới bắt đầu chú trọng tới công tác Marketing, hoạt động của phòng quản lý khách hàng
chưa mang tính nghiệp vụ cao và hiệu quả rõ nét. Vì vậy cần tăng cường hoạt động trên
các phương tiện thông tin đại chúng để SGD tự giới thiệu mình với khách hàng.Cụ thể:
-Tăng cường công tác tìm kiếm khách hàng, chủ động đặt qua hệ với khác hàng,
dùng các chính sách ưu đãi thu hút khách hàng.
-SGD cần tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo các chính sách chế, thể lệ
cho vay tới tới kinh tế ngoài quốc doanh.
-SGD cũng cần tiến hành phân loại khách hàng để cho vay. SGD cần phải phân
loại khách hàng theo những tiêu thức nhất định nhằm chọn ra những khách hàng tốt
nhất để có chính sách riêng đối với họ. Có thể phân loại đơn vị kinh tế theo các mức
sau:
Đơn vị xếp loại A: là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định có lãi
trong hai năm liên tiếp gần nhất, đang kinh doanh những mặt hàng được thị trường ưa
chuộng hoặc trong tương lai được thị trương ưa chuộng, thực hiện tốt các nghĩa vụ đối
với Nhà nước, không có nợ quá hạn đối với Sở giao dịch. Nếu doanh nghiệp loại này có
phương án khả thi thì có thể cho vay ưu tiên về thủ tục, lãi suất, trong chừng mực nào
đó thì có thể cho vay bằng tín chấp.
Đơn vị xếp loại B: là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định, uy tín
trên thị trường chưa cao, lãnh đạo doanh nghiệp là những người có năng lực, coi trọng
chữ tín. Đối với đơn vị này thì cho vay trên trên cơ sở tài sản thế chấp, cầm cố và bảo
lãnh của bên thứ ba.
Đơn vị xếp loại C: là những đơn vị kinh doanh thua lỗ không có biện
pháp khắc phục, quan hệ với Ngân hàng và bạn hàng không sòng phẳng, thường xuyên

có nợ quá hạn thì SGD phải tìm cách từ chối hợp lý, nhanh chóng thu hồi vốn.
Tuy nhiên đây chỉ là cách phân loại tạm thời, không phải là khuôn mẫu để
quyết định cho vay đối với khách hàng mà điều cốt yếu là phương án sản xuất kinh
doanh nếu tỏ ra thực sự có hiệu quả thì Sở giao dịch có thể nới rộng ở mức độ nào đó
nhưng trong điều kiện cho phép.

×