Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền theo luật cạnh tranh của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.44 MB, 72 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN KIM PHƯỢNG

KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG
VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỂN
THEO LUẬT CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM






CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

Mã số: 60.38.50
THƯ VIỆN
: •UUNGĐAIHỌCLÙÂTHÀNỘI ị

LUẬN VÃN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI - 2007



LỜI CẢM ƠN

Khố luận được hồn thành, người đầu tiên em muốn bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới thầy giáo, TS. Bùi Ngọc Cường người đã trực tiếp
hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình làm luận văn thạc sĩ.
Em củng xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo giảng
dạy và làm việc tại Trường Đ ại học Luật Hà N ội đã nhiệt tình truyền
giảng những kiến thức quý báu cho em.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã quan
tám động viên, giúp đỡ em trong suốt thời gian qua.

Hà Nội, ngày 28 tháníỊ 12 năm 2007

Nguyễn Kim Phượng


BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
AFTA

: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

APEC

: Diễn đàn hợp tác Châu Á - Thái Bình Dương

EU

: Liên minh Châu Âu

FTC


: u ỷ ban thương mại liên bang Hoa Kỳ

OECD

: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

TRIPS

: Hiệp định Bảo vệ Quyền Sở hữu

Trí tuệ liên quan đến

thương mại
ƯNCTA
WTO

: Tổ chức thương mại và phát triển Liên hiệp quốc
: Tổ chức thương mại thế giới


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT s ố VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM DỤNG VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ Đ ộ c QUYỀN VÀ PHÁP LUẬT

KIỂM SỐT ĐỐI VỚI HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ
TRƯỜNG, VỊ TRÍ Độc QUYỀN............................................................................... 5
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH
THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ Độc QUYỀN........................................................................5

1.1.1. Quan niệm về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị tríđộc quyền............... 5
1.1.2. Các yếu tố cấu thành của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị
trí độc quyền.................................................................................................................. 8
1.1.3. Nguyên nhân và tác động của hành vi lạm dụng vítríthống lĩnh thị
trường, vi trí độc quyền trong nền kinh tế thị trường...............................................11
1.2. PHÁP LUẬT KIẾM SOÁT ĐỐI VỚI HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ Độc QUYỀN........................................ 16
1.2.1 Khái niệm và đặc diểm của pháp luậtkiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền.........................................................................16
1.2.2. Vai trị của pháp luật trong việc kiếm sốt hành vi lạiudụng vị trí thống
lĩnh thị trường, vị trí độc quyền................................................................................... 18
1.3.

PHÁP LUẬT KIỂM SỐT ĐỐI VỚI HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG

LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ Đ ộc QUYỀN MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI....... 20
1.3.1. Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền theo pháp
luật của M ỹ ..................................................................................................................20
1.3.2. Kiểm soát hành vi lạm dụns vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền theo pháp
luật của Liên minh châu Âu (EƯ)............................................................................... 22
1.3.3. Kiêm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền theo pháp
luật Trung Quốc...........................................................................................................23
CHƯƠNG 2: KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH
THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN THEO LUẬT CẠNH TRANH VIỆT
NAM............................................................................................................................26


2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ XÁC ĐỊNH THỊ TRƯỜNG LIÊN QUAN, XÁC
ĐỊNH VỊ TRÍ THỐNG LĨNH, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN CÙA DOANH NGHIỆP ...26
2.1.1. Xác định thị trường liên quan........................................................................... 26

2.1.2. Xác định vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền...................................................... 32
2.2. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH
THỊ TRƯỜNG ĐÊ HẠN CHÉ CẠNH TRANH........................................................ 39
2.3. NHŨNG QUY ĐỊNH VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ Đ ộ c QUYỀN

ĐẺ HẠN CHẾ CẠNH TRANH................................................................................. 43
CHƯƠNG 3: MỘT s ố GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN Ở VIỆT NAM................... 44
3.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG,
VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN................................................................................................ 44
3.1.1. Hồn thiện pháp luật kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền phải phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế và hướng
tới mục đích đảm bảo duy trì mơi trường cạnh tranh lành mạnh.............................. 44
3.1.2. Pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thổng lĩnh thị trường, vị trí
độc quyền phải phù hợp với thông lệ quốc tế.............................................................47
3.1.3. Đảm bảo đồng bộ các yếu tố: xây dựng pháp luật, tổ chức bộ máy quản
lý cạnh tranh; cơ chế thực thi pháp luật......................................................................49
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG
LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ Đ ộ c QUYÊN........................................................... 51
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường, vị trí độc quyền......................................................................................... 51
3.2.2. Tơ chức bộ máy quản lý Nhà nước kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thốne lĩnh thị trường, vị trí độc quyền........................................................................54
3.2.3. Xây dựng cơ chế thực thi pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thơns lĩnh thị trường, vị trí độc quyền........................................................................57
KẾT LU ẬN ................................................................................................................ 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................64



LỜI NÓI ĐẦU

I. rinh câp thiêt cua đê tài nghiên cứu
r-M-1ĩ __1_

_ Ạ ___.11

• Ạ



-* Ạ

i 1 •

_____ 1



__ _____ '

Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng từ năm
1986 đến nay đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành cơng bước đầu đó, chúng ta cũng đang phải đối mặt với những
hệ quả tiêu cực của cơ chế thị trường, đó là sự cạnh tranh không lành mạnh và
tỉnh trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế.

Trong điều kiện của Việt Nam, một nền kinh tế vừa thoát ra từ cơ chế
kế hoạch hoá tập trung với một loạt các vấn đề cần quan tâm như: sự quản lý
và điều tiết của Nhà nước còn đang tiến dần đến sự phù hợp với các nguyên
tắc của kinh tế thị trường; sự thống trị của các doanh nghiệp quốcdoanh
còn dai dắng; sự gia tăng nhanh chóng và khơng ngừng lớnmạnh

vẫn

của các

doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân; sự hiện diện của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi có sự vượt trội về khả năng tài chính, tư duy
kinh tế và kinh nghiệm thương trường... đã khiến cho tình trạng cạnh tranh
thiếu lành mạnh và lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền
vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước, gây ra những hậu quả tương đối nặng
nề đối với môi trường đầu tư của Việt Nam nói riêng và nền kinh tế - xă hội
nói chung.
Vì vậy, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và xem xét, đối chiếu với
thực tiễn để xây dựng một chính sách pháp luật về cạnh tranh và kiểm sốt
tình trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, duy trì trật tự
cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ lợi ích cho các chủ thể trong nền kinh tế, trả lại
sự thơng thống cho mơi trường đầu tư là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt.


2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc
quyền là những vấn đề cịn khá mới ở nước ta. Do đó, cho đến nay việc
nghiên cứu lý luận trong những lĩnh vực này cũng còn mới chỉ dừng lại ở mức

độ khá khiêm tốn. Tuy đã có một số cơng trình nghiên cứu về vấn đề này như:
Đặng Vũ Huân (2002), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chổng cạnh
tranh không lành mạnh ở Việt Nam , Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội; Viện nghiên cứu quản lý trung ương (2002), Các vấn đề pháp lý
và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh, Dự
án hồn thiện mơi trường kinh doanh VIE/97/061, NXB Giao thơng vận tải,
Hà Nội; PGS.TS Nguyễn Như Phát, Ths. Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Phân tích
và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, NXB Tư pháp,
Hà Nội.

V .V ..

Tuy nhiên, những cơng trình này hoặc là tiếp cận ở phạm vi

rộng, hoặc là chỉ đề cập đến một vài khía cạnh cụ thể của vấn đề. Một cơng
trình nghiên cứu chun sâu, mổ xẻ các khía cạnh liên quan đến hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, đặc biệt là pháp luật về
kiểm soát vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền ở nước ta hầu như chưa
có. Tác giả hy vọng với việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần đặt những nền
móng đầu tiên cho việc nghiên cún lý luận về lĩnh vực còn hết sức mới mẻ
này ở Việt Nam.
3. Phirong pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thực hiện đề tài là phương
pháp luận của triết học Mác - Lê nin. Trên nền tảng các phương pháp đó, tác
giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học xã hội như
phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, hệ thống hóa...
Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu, tác giả cịn bám sát các chủ
trương đường lối của Đảng và Nhà nước ta về chính sách cạnh tranh và kiểm
sốt vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, được thể hiện trong các văn

kiện của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà Nước.


3

4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu cúa đề tài này là các quan điểm, tư tưởng luật học
về cạnh tranh và pháp luật về cạnh tranh; pháp luật quốc tế về cạnh tranh, đặc
biệt là về vấn đề kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh; Thực tiễn xây dựng và
áp dụng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam; đi sâu vào nghiên cứu lý luận và
thực tiễn xây dựng, áp dụng các quy định về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền ở Việt Nam hiện nay.
5. Mục đích của việc nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí
độc quyền và việc kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị
trí độc quyền, phân tích nguyên nhân kinh tế xã hội, những tác động tích cực
cũng như tiêu cực về kinh tế-xã hội của tình trạng thống lĩnh thị trường, độc
quyền và đặc biệt là của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền.
- Tìm hiểu chính sách pháp luật về kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh, vị trí độc quyền ở một số nước tiêu biểu trên thể giới, rút ra nhũng
kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam.
- Chỉ ra thực trạng thống lĩnh thị trường, độc quyền và tình trạng lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền ở Việt Nam hiện nay, phân
tích những đặc thù và những nguyên nhân của nó.
- Đe xuất những giải pháp nhằm góp phần xây dựng và thực thi chính
sách pháp luật về kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị
trí độc quyền ở nước ta.
6. Kết quả nghiên cứu
- Đề tài đã trình bày khái quát những vấn đề lý luận về vị trí thống lĩnh

thị trường, vị trí độc quyền và việc kiểm sốt vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí
độc quyền, phân tích nguyên nhân, những tác động tích cực và tiêu cực về


4

kinh tế - xã hội của tình trạng thống lĩnh thị trường, độc quyền và đặc biệt là
cua hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền.
- Đề tài đã trình bày khái quát pháp luật về kiềm sốt hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền của các doanh nghiệp ở một số
nước trên thế giới, qua đó rút ra được những nét chung trong pháp luật về
kiểm soát vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền ở những nước đó, làm
cơ sở và kinh nghiệm tham khảo cho Việt Nam.
- Đề tài đã nghiên cứu và trình bày khá tồn cảnh về thực trạng thống
lĩnh thị trường, độc quyền và tình trạng lạm dụng vị thế thống lĩnh và vị thế
độc quyền ở Việt Nam hiện nay, phân tích những đặc thù cũng như những
nguyên nhân của những đặc thù về thực trạng thống lĩnh thị trường, độc
quyền và lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền ở nước ta.
- Trên cơ sở đó, đề tài đã đưa ra một số giải pháp đề xuất nhằm góp
phần kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền
ở nước ta.
7. Co cấu của luận văn
Ngồi lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
chia làm 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền và pháp luật kiểm sốt đối với hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền.
Chương 2: Kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị
trí độc quyền theo luật cạnh tranh Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao

hiệu quả kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc
quyền ở Việt Nam.


5

CHƯƠNG 1

MỘT SỚ VẤN ĐÈ LÝ LƯẬN VỀ LẠM DỤNG VỊ TRÍ THĨNG LĨNH










THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN VÀ PHÁP LUẬT KIẺM SOÁT
ĐỐI VỚI HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ








TRƯỜNG, VỊ TRÍ Đ ộ c QUYỀN

1.1. MỘT SỐ VÁN ĐỀ LÝ LUẬN VÈ LẠM DỤNG VỊ TRÍ THĨNG LĨNH
THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ ĐỘC QUN

1.1.1. Quan niệm về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trưịng, vị trí
độc quyền
Nền kinh tế thị trường vận động theo những quy luật kinh tế khách
quan, trong đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh, theo một mặt nào đó, cũng
có ý nghĩa tích cực là nó duy trì áp lực liên tục lên tất cả các đối thủ trên
thương trường, buộc chúng phải ln tìm cách đổi mới để thích nghi và tồn
tại, nếu không muốn bị loại khỏi cuộc chơi. Nhưng mặt khác, sự cạnh tranh sẽ
dẫn đến việc các đối thủ sẽ tìm mọi cách tiêu diệt, thơn tính lẫn nhau để chiếm
lĩnh thị trường và khẳng định sức mạnh kinh tế của mình. Quá trình này
thường diễn tiến theo logic từ cạnh tranh lành mạnh đến cạnh tranh không
lành mạnh và dẫn đến một hệ quả tất yếu là sản sinh ra tình trạng thống lĩnh
và độc quyền.
Vị trí thống lĩnh được hiểu là khả năng kiêm soát thực tế hoặc tiềm
năng đổi với thị trường liên quan của một loại hoặc một nhóm hàng hố, dịch
vụ của một hoặc một số doanh nghiệp. Với cách hiểu như vậy thì vị trí thống
lĩnh khơng chỉ được xem xét dưới góc độ vị trí của một doanh nghiệp mà cịn
có thể là vị trí của một nhóm doanh nghiệp cùng hành động. Tức là giữa
nhóm doanh nghiệp này khơng có sự thoả thuận trước nhưng đã cùng hành
động, cùng nhau thực hiện các hành vi như bán hàng hố, cung ứng dịch vụ
dưới giá thành tồn bộ để loại bỏ đối thủ... Trong khi đó, vị trí độc quyền
được hiểu là vị trí của một doanh nghiệp khi khơng cịn đổi thủ nào cạnh
tranh với doanh nghiệp đó hoặc có sự cạnh tranh nhưng sự cạnh tranh đó rất


6

yếu ớt và khơng đáng kê. Nói cách khác sự cạnh tranh trên thị trường liên

quan của doanh nghiệp hầu như bị loại trừ. Chính vì vậy việc xác định vị trí
độc quyền tương đối dễ dàng, nhưng trong trường hợp chưa đạt được vị trí
độc quyền thì việc xác định vị trí thống lĩnh là khá phức tạp. Vì vị trí thống
lĩnh chỉ cho thấy sức mạnh kinh tế vượt trội của doanh nghiệp hoặc một nhóm
doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường liên quan đối
với một hoặc một nhóm hàng hố, dịch vụ cụ thể. Như vậy, cho dù doanh
nghiệp hay nhóm doanh nghiệp đã có vị trí thống lĩnh thị trường thì trên thị
trường vẫn có sự cạnh tranh từ các đối thủ yếu hon. Điều đó có nghĩa là sự
cạnh tranh trên thị trường vẫn tồn tại. Mặc dù có những nét đặc trung khác
biệt vị trí thống lĩnh và vị trí độc quyền như vậy, song khơng có nghĩa là
chúng hồn tồn khác biệt mà thực chất vị trí độc quyền chỉ là một dạng đặc
thù của vị trí thống lĩnh.
Khi đã xác lập được vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền, các doanh
nghiệp thống lĩnh, độc quyền ln tìm mọi cách để duy trì địa vị thống lĩnh
thị trường của mình với các cách thức như: thơn tính, tiêu diệt các đối thủ
cạnh tranh, ngăn cản khơng cho các đối thủ tiềm năng gia nhập thị trường,
tiếp tục củng cố ưu thế và sức mạnh thị trường bằng việc lôi kéo các đối thủ
liên kết tạo sức mạnh, phân chia thị trường, định giá cả...
Các nhà kinh tế học đều thống nhất rằng thống lĩnh và độc quyền là
những hiện tượng khách quan, tồn tại trong tất cả các nền kinh tế. Nó là kết
quả của quá trình cạnh tranh, một yếu tố khơng thể thiếu để thúc đẩy nền kinh
tế phát triển, thậm chí một số hình thái độc quyền cịn được Nhà nước xác lập
và duy trì như là một trạng thái cần thiết cho sự phát triển cân bằng của nền
kinh tế. Vấn đề là ở chỗ, các doanh nghiệp sau khi đã có được vị trí thống
lĩnh, độc quyền hoặc được Nhà nước xác lập cho vị trí thống lĩnh, độc quyền
thì ln có xu hướng lạm dụng vị trí của mình để thu lợi nhuận, gây hại đến
lợi ích của các chủ thể khác và của Nhà nước. Chính từ thực trạng các doanh
nghiệp khi có vị trí thống lĩnh, độc quyền thường lạm dụng vị trí của mình đã
làm cho pháp luật tất yếu phải có những quy định để điều chỉnh và kiểm soát.



7

Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để kiếm lợi và xâm
phạm đến lợi ích của các chủ the khác thì bị coi là bất chính [17]
Đe kiểm sốt được một quan hệ nào đó thì trước hết pháp luật phải nhận
diện được đối tượng đó và những thuộc tính của nó. Tương tự như vậy, để điều
chỉnh hành vi thống lĩnh và độc quyền thì pháp luật về cạnh tranh và chống lạm
dụng vi trí thống lĩnh và vị trí độc quyền cũng phải đưa ra được khái niệm về
thống lĩnh, độc quyền và những tiêu chí để xác định đâu là hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh, vi trí độc quyền. Tùy theo đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau mà
pháp luật của mỗi nước cũng đưa ra những quan niệm và tiêu chí xác định hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vi trí độc quyền khác nhau.
Điều 79 Luật cạnh tranh của Canada quy định ba dấu hiệu của hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh là (i) một hoặc một nhóm doanh nghiệp kiểm sốt
thị trường liên quan (ii) thực hiện hành vi phản cạnh tranh được quy định
trong luật cạnh tranh; (iii) hành vi đó đã, đang hoặc có thể làm cản trở, làm
giảm cạnh tranh trên thị trường một cách đáng kể [10]. Bên cạnh đó, cịn có
một xu hướng khác trong pháp luật cạnh tranh trên thế giới khi định nghĩa về
hành vi lạm dụng. Bộ quy tẳc về cạnh tranh của Liên hiệp quốc được thông
qua ngày 22 tháng 4 năm 1980 và Luật mẫu về cạnh tranh của Tổ chức
thương mại và phát triển Liên hiệp quốc định nghĩa hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh và vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh là hành vi hạn chế cạnh
tranh mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền sử dụng đê duy trì
hay tăng cường vị trí của nó trên thị trường bằng cách hạn chế khả năng gia
nhập thị trường hoặc hạn chế quá mức cạnh tranh [21, tr 52]. Ớ đây có sự
khác nhau giữa Luật Cạnh tranh của Canada và Bộ quy tắc mẫu ở dấu hiệu
chủ quan của hành vi. Nếu như Luật cạnh tranh Canada mô tả hành vi lạm
dụng luôn mang trong mình nó khả năng (hậu quả) làm sai lệch, cản trở hoặc
làm giảm cạnh tranh, thì Bộ quy tắc và luật mẫu về cạnh tranh lại nhấn mạnh

đến mục đích duy trì, củng cổ vị trí của doanh nghiệp vi phạm bằng cách
ngăn cản người khác gia nhập thị trường hoặc hạn chế quá mức cạnh tranh.


8

Nếu so sánh từ góc độ lý luận, cách tiếp cận của Luật cạnh tranh
Canađa có vẻ trừu tượng hơn so với khái niệm của Luật mẫu về cạnh tranh,
bởi iẽ việc xác định mức độ sai lệch, giảm hoặc cản trở cạnh tranh không phải
là việc đơn giản, do cạnh tranh là khái niệm phản ánh mối quan hệ ganh đua
trên thương trường nên khó có đại lượng khách quan nào có thề cân đong
được mức độ của quan hệ cạnh tranh một cách chính xác. Trong khi đó, xác
định khả năng duy trì và củng cố vị trí của doanh nghiệp sẽ là đơn giản hơn,
người ta có thể dựa vào những thông số kinh tế, kỹ thuật trên thị trường liên
quan về số lượng doanh nghiệp, về thị phần, mức chênh lệch thị phần giữa
các doanh nghiệp... là có thể đưa ra các kết luận khá chính xác.
1.1.2.

Các yếu tố cấu thành của hành vi lạm dụng vị trí thống

lĩnh thị trường, vị trí độc quyền
Cho dù được mô tả bàng nhiều cách thức khác nhau, song nhìn chung
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền thường có ba
dấu hiệu để nhận dạng.
Dấu hiệu thứ nhất: Chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp hoặc
nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị trường
liên quan. Lý thuyết cạnh tranh đã chỉ ra rằng vị trí thống lĩnh, vị trí độc
quyền có thế được hình thành từ sự tích tụ trong q trình cạnh tranh; từ
những điều kiện tự nhiên của thị trường như: yêu cầu về quy mô hiệu quả tối
thiếu, sự biến dị của sản phẩm, sự tồn tại của các rào cản gia nhập thị trường;

hoặc sự bảo hộ của quyền lực nhà nước.. .Trong những trường hợp nói trên, vị
trí thống lĩnh hoặc độc quyền của doanh nghiệp là hợp pháp và đem lại cho
doanh nghiệp quyền lực thị trường, hay còn gọi là khả năng chi phối các quan
hệ trên thị trường.
Theo cuốn Từ điển kinh tế học hiện đại quyền lực thị trường là khả
năng của một doanh nghiệp hoặc một nhóm các doanh nghiệp trong việc tác
động đến giá cả thị trường của một loại hàng hoá hoặc dịch vụ mà họ bản
hoặc mua.[ 12, tr 682]


9

v ề mặt học thuật, có hai vấn đề cần phải làm rõ là: thứ nhát, hành vi
lạm dụng chỉ xảy ra sau khi vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị
tnrờng liên quan đã được xác lập. Do đó, pháp luật chống lạm dụng khơng
nhằm đến việc xố bỏ vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp, pháp luật chỉ hướng
đến việc loại bỏ hành vi lạm dụng vị trí thống trị thị trường để trục lợi hoặc để
bóp méo cạnh tranh. Một khi doanh nghiệp có quyền lực thị trường chưa có
các biểu hiện của sự lạm dụng thì chúng vẫn là chủ thể được pháp luật bảo vệ;
thứ hai, chủ thế thực hiện việc lạm dụng có thể là một doanh nghiệp đơn lẻ
hoặc một nhóm doanh nghiệp (tối đa là 4) có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc
quyền trên thị trường liên quan.
Đối với vụ việc điều tra về hành vi lạm dụng của nhóm doanh nghiệp
có quyền lực thị trường, cơ quan có thẩm quyền cần phải phân biệt được hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Bởi trong
pháp luật về hạn chế cạnh tranh, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và hành vi lạm
dụng có một số điểm giống nhau, ví dụ (i) đều có thể do một nhóm doanh
nghiệp thực hiện; (ii) nội dung của chúng cũng giống nhau, như: phân chia thị
trường, hạn chế sản sản xuất, phân phối sản phẩm, hạn chế phát triển khoa
học kỹ thuật.... Tuy nhiên, khi một nhóm doanh nghiệp (với tổng thị phần kết

hợp đủ để thống lĩnh thị trường) thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường để hạn chế cạnh tranh thì giữa họ khơng có sự thoả thuận trước.
Ngược lại, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền có đủ chứng cứ chứng minh
rằng đã tồn tại một thoả thuận trong nhóm doanh nghiệp đó để thực hiện
những hành vi nói trên thì hành động của họ sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật
chống thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Dấu hiệu thứ hai: Hành vỉ lạm dụng là những hành vi được luật cạnh
tranh liệt kê. Ngoài những khái niệm căn bản mang tính học thuật về hành vi
hạn chế cạnh tranh nói chung, cần phải gọi tên được từng hành vi lạm dụng.
Dựa vào đó, người ta có thể phân tích bản chất của hành vi dưới góc độ của lý
thuyết, đồng thời trong cơng tác thực thi pháp luật, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền có thể dễ dàng xác định sự vi phạm bàng cách đối chiếu các hành vi


10

thực tê với những quy định của pháp luật. Một hành vi của doanh nghiệp
thống lĩnh hoặc độc quyền trên thị trường chỉ bị quy kết là lạm dụng đề hạn
chế cạnh tranh khi nó mang đầy đủ các dấu hiệu của một hành vi nào đó đà
được luật quy định là lạm dụng. Khi chưa thể hoặc chưa có đủ chứng cứ cần
thiết để kết luận về việc doanh nghiệp đã thực hiện một trong số các dạng vi
phạm được quy định thì cũng khơng thể quy kết trách nhiệm về sự lạm dụng
[18]. Dưới góc độ lý luận, hành vi lạm dụng mang trong mình nó khơng chỉ là
những thủ đoạn lợi dụng lợi thế do quyền lực thị trường đem lại cho doanh
nghiệp, mà còn là nguyên nhân gây ra những hậu quả khơng tốt cho tình trạng
cạnh tranh trên thị trường hiện tại hoặc tương lai.
Dấu hiệu thứ ba: Hậu quả của hành vi lạm dụng là làm sai lệch, cản
trở hoặc giảm cạnh tranh trên thị trường liên quan. Dấu hiệu này cho thấy
khả năng hạn chế cạnh tranh của hành vi lạm dụng và tác hại của nó đối với
thị trường. Như đã phân tích, doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng với

mục đích duy trì, củng cố vị trí hiện có hoặc tận hưởng các lợi ích có được từ
việc bóc lột khách hàng. Các nhà hoạch định chính sách cạnh tranh của Tổ
chức IIợp tác và phát triển kinh tế (viết tắt là OECD) đã đưa ra nhiều khuyến
nghị về việc xác định hành vi lạm dụng, trong đó họ cảnh báo rằng chỉ có thể
chống lại sự lạm dụng quyền lực thị trường thành công, khi pháp luật và
người thi hành nó xác định được những hành vi cụ thể có thể gây hại cho
cạnh tranh và đánh giá được những tác động tồn diện của chúng trên thị
trường có liên quan [22, tr 160]. Đối với hành vi hạn chế cạnh tranh, lý luận
và kinh nghiệm pháp lý của các nước đã chỉ ra rằng, nhóm hành vi này có 3
loại vi phạm với bản chất pháp lý khác nhau là thoả thuận hạn chế cạnh tranh,
lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và tập trung kinh tế, nên không thể
đưa ra một khái niệm chung chứa đựng những căn cứ cụ thể cho mọi trường
hợp. Trong tình trạng đó, dấu hiệu về hậu quả của hành vi hạn chế cạnh tranh
chỉ được diễn tả rất khái quát, mang tính định dạng về mặt lý luận hơn là
lượng hoá bằng những căn cứ cụ thể. Mặt khác, do hành vi vi phạm được liệt
kê rất đa dạng bao gồm các hành vi về việc định giá bán, giá mua sản phẩm,


hành vi hạn chế sản lượng sản xuất, phân phổi, hạn chế thị trường; hành vi
phân biệt đối xử; áp đặt các điều kiện thương mại bất hợp lý đối với khách
hàng..., mồi hành vi có đối tượng xâm hại khác nhau và mức độ thiệt hại có
thể gây ra cũng không giống nhau, nên việc đưa ra một tiêu chuẩn chung để
làm căn cứ xác định hậu quả gây ra của mọi hành vi là khơng thề. Vì thế,
khoa học pháp lý và thực tiễn áp dụng buộc phải dựa vào việc phân tích từng
hành vi vi phạm để kết luận về khả năng và mức gây thiệt hại của nó đối với
thị trường. Theo đó, từng hành vi có thể làm cản trở, giảm và sai lệch cạnh
tranh ở những mức độ khác nhau.
Dấu hiệu về hậu quả của hành vi là căn cứ để phân biệt hành vi lạm
dụng với hiện tượng tập trung kinh tế (cũng là một loại hành vi hạn chế cạnh
tranh). Tập trung kinh tế được luật cạnh tranh mô tả thông qua bốn biểu hiện

cụ thế là sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh, là những chiến lược do
các doanh nghiệp thực hiện có khả năng hình thành nên các thế lực độc
quyền khơng thơng qua sự tích tụ dần từ hiệu quả kỉnh tế. Như vậy, nếu mức
giảm, sai lệch hoặc hạn chế cạnh tranh mà hành vi lạm dụng gây ra được
chứng minh bằng những lợi ích mà các doanh nghiệp khác, hoặc khách hàng
phải gánh chịu, thì đối với tập trung kinh tế, điều đó sẽ được chứng minh
bằng những suy đoán là việc các doanh nghiệp sáp nhập, hợp nhất, mua lại
hay liên doanh có thể làm thay đổi cấu trúc và tương quan cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trên thị trường do chúng đã tạo ra doanh nghiệp, nhóm doanh
nghiệp có quyền lực thị trường. Nói cách khác, pháp luật chống lạm dụng
hướng đến việc cấm đốn hành vi, cịn pháp luật kiểm sốt tập trung kinh tế
có nhiệm vụ ngăn chặn khả năng hình thành các thế lực có quyền lực trên thị
trường bằng việc tiến hành tập trung kinh tế.
1.1.3.

Nguyên nhân và tác động của hành vi lạm dụng ví trí

thống lĩnh thị trưịng, vi trí độc quyền trong nền kinh tế thị trường
Ngồi ngun nhân cạnh tranh khốc liệt như đã nói ở trên, có thể chỉ ra
3 nguyên nhân khác dẫn đến vị trí thống lĩnh và độc quyền: (i) sự thông đồng
ngâm giữa các doanh nghiệp ở trong ngành; (ii) những cản trở đối với việc


12

nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm năng, và (iii) độc quyền nhà nước và
độc quyên tự nhiên.
Thống lĩnh và độc quyền có thể xuất hiện với tính cách là hậu quả của
thủ pháp thông đồng ngầm giữa các doanh nghiệp về giá, sản lượng, khách
hàng hoặc vùng tiêu thụ nhằm tối đa hoá lợi nhuận của ngành. Thống lĩnh và

độc quyền cũng có thể xuất hiện do sự tồn tại của những vật cản đối với khả
năng nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm năng. Đó là những vật cản mang
tính pháp lý, hành chính và những vật cản mang tính kinh tế. Những vật cản
mang tính pháp lý chính là các điều luật loại bỏ hồn tồn sự nhập cuộc của
các doanh nghiệp tiềm năng vào một ngành kinh tế trong một giai đoạn nhất
định. Một ví dụ phổ biến nhất trong thực tế là lĩnh vực bảo hộ việc độc quyền
khai thác các đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp của chủ văn bằng
bảo hộ. Việc làm này, một mặt khuyến khích đầu tư cho khoa học kỹ thuật,
mặt khác lại gây ra sự thiệt hại cho xã hội do có sự độc quyền. Bởi vậy, pháp
luật phải tìm được thời hạn tối ưu cho việc khai thác độc quyền các đối tượng
của quyền sở hữu công nghiệp của chủ văn bằng bảo hộ.
Mặc dù độc quyền gây nhiều hậu quả cho xã hội, song ở một số ngành
đặc biệt (hàng hố và dịch vụ cơng cộng, ảnh hưởng tới an ninh quốc gia)
nhiều nước đã phải duy trì tình trạng độc quyền nhà nước ở mức độ nhất định
để đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng và duy trì chi phí sản xuất xã hội ở
mức hợp lý do tính kinh tế của quy mơ sản xuất lớn.
Độc quyền tự nhiên xuất hiện thốt ly ý thức chủ quan của nhà kinh
doanh. Tự nhiên ở đây nói lên rằng, cơ cấu độc quyền là do đặc điểm công
nghệ và nhu cầu đối với sản phẩm của ngành tạo ra chứ không phải là yếu tố
lịch sử hay ảnh hưởng của cơ chế chính sách kinh tế. Hay nói cách khác,
trong những điều kiện về công nghệ và nhu cầu như vậy, sự tồn tại của độc
quyền là khách quan và do đó biện pháp duy nhất mà Nhà nước có thể làm là
điều tiết những độc quyền đó. Hình thái độc quyền tự nhiên thường gặp trong
các ngành cơng nghiệp như: điện, khí đốt, nước sạch, viễn thông...


13

Giống như các hiện tượng khác, thống lĩnh và độc quyền có tác động
rất lớn đối với đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, theo cả chiều hướng

tích cực và tiêu cực.
v ề mặt tích cực, thống lĩnh và độc quyền góp phần đẩy nhanh q trình
tích tụ, tập trung các nguồn lực để phát triển, nhất là trong những ngành kinh
tế mũi nhọn. Sau khi đã xác lập được vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền, các
công ty thống lĩnh, độc quyền thường phát triển nhanh chóng thành những tập
đồn hùng mạnh. Sự tích tụ và tập trung nguồn lực vào tay một hoặc một
nhóm các doanh nghiệp tạo điều kiện đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa
học công nghệ, mở rộng quy mô, tăng năng suất lao động, tạo ra những bước
ngoặt mang tính đột phá cho bản thân doanh nghiệp và cho ngành sản xuất đó
[14, tr 32]. Sự mở rộng về quy mơ sản xuất, đến lượt nó sẽ tạo động lực kích
thích trở lại các doanh nghiệp, bởi trên thực tế ai cũng biết rằng lợi nhuận của
một doanh nghiệp sẽ tăng lên theo quy mô sản xuất kinh doanh. Không phải
ngẫu nhiên mà nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ là Joseph Schumpeter
(1883 - 1950) đã ủng hộ mô hình kinh tế trong đó có sự tồn tại của các thế lực
thống lĩnh và độc quyền.
Đối với độc quyền nhà nước, nếu duy trì ở quy mơ thích hợp và được
kiểm sốt tốt sẽ góp phần tạo ra sự ổn định cho nền kinh tế cũng như trong
việc thực thi các chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ, tạo thế
chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ các ngành và các cơ sở sản
xuất trong nước, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và đáp ứng tốt các nhu
cầu của quốc kế dân sinh. Ở hầu hết các quốc gia, độc quyền nhà nước được
sử dụng như là một công cụ kinh tế hữu hiệu bên cạnh các công cụ khác trong
việc điều tiết nền kinh tế quốc dân.
Nhưng bên cạnh những tác động tích cực nói trên, thống lĩnh và độc
quyền cũng có những mặt trái của nó:
Thứ nhất thống lĩnh và độc quyền đi ngược lại trật tự cạnh tranh lành
mạnh, kìm hãm động lực phát triển của nền kinh tế. Khi đă có vị trí thống
lĩnh, vị trí độc quyền, các doanh nghiệp ln tìm cách duy trì vị trí thống lĩnh,



14

độc qun của mình băng cách tiêu diệt các đơi thủ tiêm năng, hạn chê sự
xuất hiện trên thị trường của các đối thủ này. Bằng thủ đoạn bóp chết đối thủ
cạnh tranh thực chất đã triệt tiêu sự cạnh tranh trên thương trường, mà một
khi khơng cịn cạnh tranh thì sẽ khơng cịn áp lực để các doanh nghiệp phát
triên.
Thứ hai, thống lĩnh và độc quyền tạo ra nguy cơ khủng hoảng và suy
thoái của nền kinh tế. Các doanh nghiệp thống lĩnh và độc quyền sử dụng vị
thế này vào việc tự định giá cả hàng hoá độc quyền, kìm hãm sản lượng hàng
hố để tăng giá bán nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch mà không chú trọng tới
việc đổi mới cơng nghệ, tăng năng suất nữa. Tình trạng này kéo dài sẽ làm
cho năng lực của các công ty thống lĩnh và độc quyền bị suy yếu, thậm chí
dẫn đến suy giảm và suy thối của cả một ngành sản xuất nào đó. Sự khan
hiếm của hàng hóa và giá cả leo thang do tình trạng thống lĩnh và độc quyền
gây ra sẽ là nguyên nhân đưa đến sự lạm phát và gây mất ổn định nền kinh tế,
làm tăng số người thất nghiệp.
Thứ ba, thống lĩnh và độc quyền tạo ra cho các công ty thống lĩnh và
độc quyền những khoản thu nhập bất chính từ lợi nhuận siêu ngạch, góp phàn
làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, bất công trong xã hội. Ngay từ thế kỷ
XIX, trong tác phẩm nổi tiếng “Sự giàu có của các quốc gia”, Adam Smith đã
chỉ ra bản chất của độc quyền là: “Bằng cách làm cho thị trường luôn luôn
không đủ dự trữ, các nhà độc quyền...đã bán háng hoả của họ với mức giá
cao hơn giá tự nhiên rất nhiều, và nhờ đó, tăng phần thu nhập của họ dưới
dạng tiền thưởng hay lợi nhuận...” Như vậy, lợi nhuận mà các cơng ty độc
quyền có được thực chất là nhờ vào việc hưởng mức chênh lệch quá đáng từ
giá cả độc quyền so với giá tự nhiên của hàng hóa, tức là đã bịn rút thu nhập
của đại bộ phận người tiêu dùng bỏ vào túi một số ít công ty độc quyền, đẩy
những người nghèo đi đến chồ ngày càng nghèo thêm, cịn các cơng ty độc
quyền thì phất lên nhanh chóng.

Cũng cần nói thêm rằng người tiêu dùng khơng chỉ phải chi phí đắt
thêm cho hàng hóa, dịch vụ thống lĩnh, độc quyền, mà họ cịn chịu thiệt thòi


15

khi không được hưởng những thành quả sáng tạo trong sản xuất. Nhà sản xuất
sau khi đâ đạt đến vị trí thống lĩnh và độc quyền sẽ lơ là việc đầu tư cho
nghiên cứu, phát minh vì giờ đây họ khơng cịn đối thủ đế ganh đua nữa, thay
vào đó họ chỉ lo việc khống chế sản lượng để tăng giá nhằm thu về lợi nhuận
thống lĩnh, độc quyền tối đa. Kết quả là nền sản xuất bị giậm chân tại chỗ, thị
trường sẽ thiếu vắng những sản phẩm dịch vụ mới với chất lượng tốt hơn, còn
người tiêu dùng thì vẫn phải chấp nhận những sản phẩm, dịch vụ cũ với giá
cao vì họ khơng cịn có sự lựa chọn nào khác.
Thứ tư, thống lĩnh và độc quyền còn dẫn đến tình trạng “cửa quyền”
hay “đặc quyền” cho một nhóm người có lợi ích. Thống lĩnh, độc quyền tất
yếu sẽ sản sinh ra cơ chế “xin - cho”, “ban phát” và điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến sinh hoạt và sản xuất. Nói về tác hại của độc quyền đối với sự
phát triển của nền kinh tế, Thủ tướng Phan Văn Khải cũng đã từng nhận định:
“...Độc quyền sẽ dẫn đến cửa quyền...Độc quyền sẽ làm cho những nhân tố
tích cực, những người làm ăn giỏi khơng ngóc đầu dậy được...” [23]
Ngồi ra thống lĩnh và độc quyền cịn là bạn đồng hành với tiêu cực và
tham nhũng. Các doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền ln có xu hướng liên
hệ và tranh thủ sự ủng hộ của các cơ quan quản lý Nhà nước để bảo vệ vị thế
thống lĩnh và độc quyền của mình. Điều này làm xuất hiện nguy cơ tham
nhũng, tha hố trong bộ máy cơng quyền. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho
thấy, khi các Chaebol vượt ra ngồi tầm kiểm sốt, chúng quay trở lại mua
chuộc, lôi kéo các quan chức nhà nước, gây nên nạn tham nhũng trầm trọng
[25, tr 84]. Ở Việt Nam hiện nay cũng vậy, trong bói cảnh dự luận xã hội
đang lên tiếng mạnh mẽ phản đối tình trạng thống lĩnh, độc quyền nhà nước,

đế duy trì vị thế thống lĩnh, độc quyền, các doanh nghiệp thống lĩnh, độc
quyền phải tìm cách “ni” bộ máy cơng quyền, mua chuộc những nhà chức
trách có thẩm quyền để họ lên tiếng bảo vệ sự thống lĩnh và độc quyền. Một
số vụ án kinh tế lớn được đưa ra xét xử trong thời gian qua có liên quan đến
các quan chức cấp cao trong bộ máy Nhà nước đã phần nào minh chứng cho
điều này.


16

1.2.

PHÀP LUẬT KIÊM SOAT ĐỒI VỜI HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ

THỊNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ

1.2.1

Độc QUN

Khái niệm và đặc điểm của pháp luật kiểm soát hành vi

lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trưịng, vị trí độc quyền
Nhằm nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, điều hịa lợi
ích của các chủ thể trên thị trường, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, các quốc
gia đều phải xây dựng một khung pháp luật về cạnh tranh và kiểm soát thống
lĩnh, độc quyền. Theo giáo sư Yves Serra, Giám đốc trung tâm nghiên cứu
Luật cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng, khoa Luật, Đại học Montpellier,
luật cạnh tranh được hiểu là “tỏng họp các quy phạm pháp luật áp dụng đổi
với các tác nhân kinh tể trong hoạt động cạnh tranh nhằm bảo đảm cho cạnh

tranh diễn ra một cách hợp lý, tức là không thái quả. ” Luật cạnh tranh thực
chất là tổng hợp các biện pháp tác động ngược trở lại các quyền tự do này
bằng cách xác định những hành vi mà các chủ thể kinh doanh khơng được
phép làm. Nói cách khác, luật cạnh tranh chính là các biện pháp mà nhà nước
sử dụng để điều tiết, đảm bảo cho cạnh tranh khơng diễn ra một cách ngun
thủy, vơ chính phủ.
Hoa Kỳ là nước đầu tiên trên thế giới ban hành đạo luật chống độc
quyền. Đó là đạo luật Sherman năm 1890, sau đó là đạo luật Clayton năm
1914. Mục đích của việc ban hành những đạo luật này là nhằm ngăn cản độc
quyền hay sự tập trung quá mức của quyền lực kinh tế, ngăn cản những hành
vi hạn chế, phá hoại cạnh tranh. Những quy định trong hai đạo luật nói trên
của Hoa Kỳ sau này đã ảnh hưởng đến hầu hết các quốc gia phương Tây cũng
như các quốc gia khác.
Tiếp sau Hoa Kỳ, hàng loạt các nước Châu Âu và Châu Á đã ban hành
đạo luật riêng rẽ hoặc các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh,
trong đó có các quy định về kiếm sốt hành vi thống lĩnh và độc quyền
Mặc dù chính sách cạnh tranh và kiểm soát thống lĩnh, độc quyền của
từng nước là khác nhau, song vẫn có thể nhận thấy bên cạnh những điểm đăc


17

thù do sự chi phối bởi các yếu tố chính trị và truyền thống, pháp luật về kiểm
soát thống lĩnh, độc quyền của các quốc gia vẫn có những điểm chung.
Thứ nhất, pháp luật về kiểm soát thống lĩnh, độc quyền của hầu hết các
nước đều tập trung vào hai vấn đề trọng tâm là quy định hành lang pháp lý để
kiêm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền của các cơng ty
thống lĩnh, độc quyền, và kiểm soát hoạt động tập trung quyền lực kinh tế
thông qua việc hợp nhất, sáp nhập, mua lại quyền điều hành dưới mọi hình
thức. Trong đó khía cạnh thứ hai được pháp luật kiểm soát hành vi thống lĩnh,

độc quyền của các nước đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, pháp luật các nước có
sự điều chỉnh cũng khơng hồn tồn giống nhau về kiểm sốt việc hợp nhất,
sáp nhập doanh nghiệp.
Thứ hai, pháp luật về kiểm soát thống lĩnh, độc quyền ở các nước đều
quy định các biện pháp chế tài rất nghiêm khắc đối với những hành vi bị coi
là vi phạm pháp luật chống độc quyền hoặc tập trung kinh tế trái pháp luật đối
với các công ty thống lĩnh, độc quyền cũng như đối với những người lãnh
đạo, quản lý các cơng ty đó. Những chế tài này có thể bao gồm từ chế tài hành
chính (như hủy bỏ vụ sáp nhập, buộc phải chia tách...) chế tài kinh té (phạt
tiền) đến chế tài hình sự (bỏ tù những cá nhân sai phạm..)
Thứ ba, cho dù nội dung cụ thể có khác nhau, nhưng mục đích chung
của việc điều chỉnh các quan hệ cạnh tranh và kiểm soát thống lĩnh, độc
quyền bằng pháp luật ở các nước là nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh
lành mạnh, điều hịa lợi ích của các chủ thể trên thị trường, thúc đẩy nền kinh
tế phát triển. Pháp luật chống các hành vi hạn chế cạnh tranh, kiểm sốt độc
quyền nhằm mục đích đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh, cơng bằng và từ đó
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được cơng bằng, tự do. Nó là cơng cụ
trong tay Nhà nước để duy trì quyền tự do cạnh tranh lành mạnh bằng việc
hạn chế các đặc quyền kinh tế trong kinh doanh. Mục đích lớn nhất của pháp
luật chống các thoả thuận hoặc hành vi hạn chế cạnh tranh, kiểm soát độc
quyền là đảm bảo sự điều hành nền kinh tế phát triển một cách tự do, xác lập
các hoạt động kinh doanh công bằng. Và ngày nay, ở nhiều nước trên thế giới

THU VIỆN
■-ư U N & G A I H O C LÙẬT HÀ NỘi

'

eoc. _


I __ _ i


18

người ta nói rằng, pháp luật chống các thoả thuận hoặc hành vi hạn chế cạnh
tranh, kiểm soát độc quyền được xem như là Hiến pháp của kinh tế.
Thứ tư, Pháp luật kiểm soát thống lĩnh, độc quyền bao gồm những quy
phạm pháp luật nội dung và các quy phạm pháp luật tố tụng. Các quy phạm
pháp luật tố tụng là những đảm bảo pháp lý quan trọng cho việc thực thi các
quy phạm pháp luật nội dung trong thực tiễn. Pháp luật kiểm soát thống lĩnh,
độc quyền cũng quy định cụ thể về các thiết chế có thẩm quyền thực thi pháp
luật kiếm soát thống lĩnh, độc quyền như cơ quan quản lý cạnh tranh, hội
đồng cạnh tranh. Bên cạnh đó pháp luật kiểm sốt thống lĩnh, độc quyền có
mối quan hệ chặt chẽ với các ngành luật khác như luật hiến pháp, luật hình sự,
luật hành chính và các lĩnh vực luật khác như luật tài sản, luật hợp đồng, luật
về bồi thường thiệt hại, luật sở hữu trí tuệ...
1.2.2.

Vai trị của pháp luật trong việc kiểm sốt hành vi lạm

dụng vị trí thống lĩnh thị trưịng, vị trí độc quyền
Hầu hết các quốc gia đều nhận thức được rằng khơng thể xóa bỏ thống
lĩnh, độc quyền bằng sức mạnh nhà nước hay bằng bất kỳ cách thức nào khác,
trái lại, Nhà nước chỉ có thể áp dụng những biện pháp nhằm hạn chế và kiểm
sốt nó. Bằng những thuộc tính của mình, đặc biệt là tính quy phạm và tính
cưỡng chế bắt buộc, pháp luật được xem là cơng cụ quan trọng nhất cho việc
kiểm sốt thống lĩnh, độc quyền. Tình trạng lạm dụng vị thế thống lĩnh, độc
quyền chỉ được kiểm soát tốt nếu như các hành vi của doanh nghiệp bị kiềm
tỏa bởi hệ thống các quy định của pháp luật ổn định, chặt chẽ, đi kèm những

chế tài nghiêm khắc. Ngược lại, nếu thiếu điều này thì các giải pháp kiểm sốt
thống lĩnh, độc quyền khác sẽ khó phát huy tác dụng.
Thơng qua pháp luật, Nhà nước xác định ranh giới pháp lý mà nếu vượt
q ranh giới đó thì một doanh nghiệp sẽ bị coi là ở vào vị thế thống lĩnh hoặc
độc quyền, pháp luật cũng xác định đâu là những hành vi lạm dụng vị thế
thống lĩnh, độc quyền mà doanh nghiệp bị cấm hoặc bị hạn chế và những chế
tài nếu doanh nghiệp vi phạm. Pháp luật về chống độc quyền cịn thiết lập cơ
chế pháp lý nhằm kiềm sốt từ xa tất cả các thoả thuận, liên kết và các hành vi


19

tập trung kinh tế có thể dẫn đến sự hạn chế hoặc triệt tiêu cạnh tranh và tạo ra
nguy cơ hình thành độc quyền. Có thể nói, mục đích lớn nhất của pháp luật
kiểm soát thống lĩnh, độc quyền là duy trì sự tương quan thị trường trong một
mơi trường cạnh tranh lành mạnh, giới hạn và điều hoà giữa lợi ích của các
chủ thề có vị thế độc quyền trên thị trường với lợi ích chung của tồn xã hội.
Thông qua cơ chế điều chỉnh như trên, pháp luật về kiểm sốt hành vi
thống lĩnh và độc quyền có những vai trò như sau:
- Đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế thị trường, ngăn
chặn các tác hại và khuyến khích những mặt tích cực của hoạt động cạnh
tranh trong cơ chế thị trường;
- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trước những hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh, vị trí độc quyền của các doanh nghiệp hoặc tổ chức có vị trí thống
lĩnh, vị trí độc quyền;
- Đảm bảo quyền lợi của các chủ thể kinh doanh khác trong một thị
trường liên quan (bảo đảm quyền lợi của các đối thủ cạnh tranh đối với cùng
một loại hàng hoá, dịch vụ ở một khu vực địa lý nhất định);
- Đảm bảo độc quyền Nhà nước trong một số lĩnh vực, đối tượng hàng
hoá, dịch vụ trong một khoảng thời gian, không gian nhất định nhằm đảm bảo

an ninh quốc phòng, bảo đảm sự ổn định tương đối của thị trường, đảm bảo
sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Tựu chung lại, vai trị của pháp luật cạnh tranh là duy trì sự tương quan
thị trường trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh, duy trình cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và các doanh
nghiệp khác trên thị trường, góp phần tạo lập và duy trì mơi trường kinh
doanh bình đăng. Với vai trị phân tích ở trên, việc ban hành pháp luật cạnh
tranh được xem là công cụ pháp lý hữu hiệu nhất trong tay nhà nước đề can
thiệp, điều tiết cạnh tranh, kiểm sốt độc quyền có hiệu quả, duy trì sự vận
hành bình thường của nền kinh tế, góp phần tạo lập và duy trì mơi trường
kinh doanh bình đẳng.


×