Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

KHÁI QUÁT TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.83 KB, 20 trang )

KHÁI QUÁT TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.1. Tín dụng trung - dài hạn và vai trò của tín dụng - trung dài hạn
1.1.1. Khái niệm tín dụng trung – dài hạn
Tín dụng (credit), xuất phát từ tiếng Latinh là credo – là sự tin tưởng, sự tín
nhiệm và được định nghĩa dưới nhiều giác độ khác nhau:
- Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả.
- Tín dụng là quá trình tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ hay hiện vật trên
nguyên tắc có hoàn trả.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang
người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị
ban đầu.
- Tín dụng là sự chuyển dịch vốn dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật của một tổ
chức, cá nhân này cho một tổ chức, cá nhân khác sử dụng trong một thời gian nhất định
trên nguyên tắc hoàn trả.
Như vậy, tín dụng có thể được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhưng bản
chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa một bên là người đi vay và một bên là
người cho vay trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi.
Đối với một ngân hàng thương mại, tín dụng là chức năng cơ bản của ngân hàng,
là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng được định
nghĩa như sau:
Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phản ánh một giao dịch về tài
sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay là ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng và
bên đi vay là các cá nhân, doanh nghiệp, chủ thể sản xuất kinh doanh, trong đó bên cho
vay chuyển tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả
thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay
khi đến hạn thanh toán.
Về các hình thức của tín dụng ngân hàng thì có nhiều tiêu thức khác nhau để
phân chia tín dụng ngân hàng. Dưới đây là một cách phân chia phổ biến mà Ngân hàng
thường sử dụng khi phân tích và đánh giá:
• Phân theo thời hạn tín dụng ta có:


- Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để bổ sung
sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp, và nó còn có thể được vay cho
những tiêu dùng cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1-5 năm. Loại hình tín
dụng này thường được dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới
kỹ thuật, mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng có thời gian trên 5 năm. Loại tín dụng này
được dùng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các
công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất,…
Nói chung, tín dụng - trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định
của khách hàng, mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của
doanh nghiệp để từ đó cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở
rộng sản xuất chiếm lĩnh thị trường..
1.1.2. Đặc diểm tín dụng trung dài hạn
Tín dụng trung dài hạn có những đặc điểm quan trọng sau:
- Tín dụng trung - dài hạn được cấp cho khách hàng nhằm hỗ trợ cho họ trong
việc mua sắm, tạo lập tài sản cố định. Do đó, đối tuợng cho vay chủ yếu của ngân hàng
thương mại trong hình thức tín dụng này là vốn thiếu hụt tạm thời của các doanh
nghiệp.
- Do gắn liền với tài sản cố định và vốn vố định của khách hàng, tín dụng trung -
dài hạn của ngân hàng thương mại thường gắn liền với các dự án đầu tư. Tuy nhiên, với
tín dụng trung hạn thường đầu tư theo chiều sâu, trong khi đó tín dụng dài hạn tập trung
cho các dự án đầu tư mở rộng.
- Tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng thương mại có thời gian hoàn vốn
chậm. Nguồn trả tiền vay cho ngân hàng chủ yếu được lấy từ quỹ khấu hao và một phần
từ lợi nhuận của chính dự án mang lại. Vì thế, khách chỉ có thể hoàn trả khoản vay có
quy mô lớn thành nhiều lần khác nhau – thời hạn cho vay kéo dài trong nhiều năm.
- Tín dụng trung - dài hạn thường có thời gian kéo dài, quy mô tín dụng thường
lớn, nguy cơ rủi ro cao vì nền kinh tế quốc gia luôn biến động. Sự biến động này có thể
tích cực hoặc tiêu cực mà chúng ta không thể biết được. Do đó mà môt khoản vay dài

hạn thường đem lại nhiều rủi ro hơn là một khoản vay ngắn hạn vì thời gian càng dài thì
xác suất xảy ra những biến động này lớn hơn . Mặt khác, lãi suất của cho vay trung - dài
hạn thường lớn hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Vì độ rủi ro cao hơn, thời gian thu hồi
vốn lâu hơn.
1.1.3. Các hình thức tín dụng trung - dài hạn
1.1.3.1. Tín dụng theo dự án đầu tư
a. Cho vay đồng tài trợ ( Synđicate loan):
- Là quá trình cho vay của một nhóm tổ chức tín dụng (từ 2 tổ chức tín dụng trở
lên) cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm đầu mối, phói hợp với các bên bên
đồng tài trợ để thực hiện, nhằn phân tán rủi ro của các tổ chức tín dụng.
- Hình thức này được được áp dụng trong các trường hợp : Các dự án đầu tư đòi hỏi
một khoản vốn lớn mà các ngân hàng riêng lẻ thìo không đáp ứng hết được ngân hàng
thường chỉ được phép đầu tư vốn tới một mức độ nhất định so với tổng nguồn vốn của
mình và không được đầu tư qúa nhiều vốn vào một công ty để đảm bảo an toàn vốn tài sản.
Thậm chí đối với một vài dự án ngân hàng có thể đáp ứng toàn bộ nhưng rủi ro quá lớn
ngân hàng không muốn đảm nhận hết. Do vậy, cho vay đồng tài trợ là một họat động tín
dụng giúp ngân hàng phân tán rủi ro và có thể sử dụng tối đa nguồn vốn của họ cho đầu tư
vào các dự án dài hạn.
b. Cho vay trực tiếp theo dự án:
- Đây là hình thức tín dụng trung – dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
ngân hàng thương mại tiến hành mọi hoạt động và tự chịu trách nhiệm với từng dự án
đầu tư của khách hàng mà họ đẫ lựa chọn để tài trợ.
Chính vì vậy, công việc của ngân hàng không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn
phải quán xuyến hàng loạt các công việc khác có liên quan đến trực thi có hiệu quả của
dự án như : quy hoạch sản xuất, thiết kế, quy trình công nghệ, tiêu chuẩn thiết bị máy
móc, giá cả thị trường, hiệu quả đầu tư.. Bởi vì việc quy định cấp một khoản tín dụng sẽ
dàng buộc ngân hàng với người vay trong một số thời gian, cho nên cần phải nghiên
cứu một cách nghiêm túc và xem xét kỹ lưỡng các rủi ro có thể xẩy ra.
1.1.3.2. Tín dụng thuê mua (leasing credit)
- Thuê mua là hình thức cho vay tài sản thông qua một hợp đồng tín dụng thuê

mua qua đó người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người
đi thuê sử dụng và ngưòi thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn
thuê và có thể đựoc quyền sở hữu tài sản thuê, được quyền mua tài sản thuê hoặc được
quyền thuê tiếp theo các điều kiện đã được hai bên thoả thuận.
* Tài sản thuê bao gồm cả động sản và bất động sản :
- Động sản chủ yếu gồm máy móc thiết bị, ô tô dây chuyền công nghệ…
- Bất động sản chủ yếu là cửa hàng, văn phòng làm việc, cơ sở sản xuất…
Về mặt pháp lý, tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của người cho thuê, còn đi thuê
chỉ được quyền sử dụng. Vì vậy, người đi thuê không đựơc bán chuyển nhượng cho
người khác. Song họ được hưởng những lợi ích do việc sử dụng tài sản đó đem lại,
đồng thời chịu phần vốn rủi ro có liên quan đến tài sản. Tín dụng thuê mua có một số
hình thức như : thuê mua có tham gia của ba bên, thuê mua có sự tham gia của hai bên,
tái thuê mua (sale – base back), thuê mua hợp tác (levereged lease, thuê mua giáp lưng
(under lease)…
* Xét về lợi ích thì cả ngân hàng và khách hàng đều có lợi
- Đối với ngân hàng (bên cho thuê): đây là hình thức tài trợ bổ sung cho các hình
thức tài trợ khác đang tồn tại ở ngân hàng, nó giúp ngân hàng mở rộng dịch vụ, nâng
cao năng lực cạnh tranh, giảm mức độ rủi ro, đảm bảo nguyên tắc vốn vay được sử
dụng đúng mục đích.
- Đối với các doanh nghiệp : hình thức này có thể giúp các doanh nghiệp có thể
sử dụng vốn vay dưới dạng các máy móc, thiết bị... mà không phải bỏ vốn lớn, không
ảnh hưởng tới bảng tổng kết tài sản và hạn mức tín dụng của doanh nghiệp việc cấp tín
dụng thuê mua thường nhanh chóng, từ đó cho phép đầu tư khẩn cấp, đáp ứng được
thời cơ sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, mặt khác phương thức thanh
toán tiền thuê linh hoạt thích ứng với hoàn cảnh và điều kiện sản xuất cũng như tiêu thụ
sản phẩm của doanh nghiệp và mỗi cá nhân.
- Đối với các công ty nhỏ hoặc công ty không có uy tín : ngân hàng có thể không
chấp nhận cho vay dài hạn nhưng có thể cho hưởng tín dụng thuê mua. Có thể nói, mô
hình tín dụng thuê mua rất có ý nghĩa đối với nền kinh tế thị trường, nhất là đối với nền
kinh tế nhiều thành phần như ở Việt Nam hiện nay.

1.1.4. Vai trò của tín dụng trung - dài hạn trong nền kinh tế thị trường
1.1.4.1. Đối với nền kinh tế
Tín dụng có vai trò quan trọng trọng nền kinh tế, hoạt động tín dụng trung - dài hạn
nếu có hiệu quả sẽ có tác động tới mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội. Phát triển cho
vay tín dụng trung - dài hạn sẽ giảm bớt đáng kể các khoản bao cấp từ ngân sách cho
đầu tư xây dựng cơ bản và giảm bớt thâm hụt ngân sách. Xuất phát từ chức năng tập
trung và phân phối lại vốn trong nền kinh tế tín dụng trung - dài hạn đã thu hút được
nguồn vốn dư thừa, tạm thời nhàn rỗi để đưa vào sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu
vốn cho doanh nghiệp, từ đó phục vụ cho sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Mặt khác, trong qúa trình huy động vốn và cho vay cũng như tổ chức thanh toán
cho khách hàng, ngân hàng có thể đánh giá được tình hình tiêu thụ sản phẩm, tinh hình
sản xuất kinh doanh cũng như khả năng thanh toán chi trả của khách hàng. Trong quá
trình cho vay, để tránh rủi ro ngân hàng luôn đánh giá, phân tích khả năng tài chính và
thường xuyên giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh để có thể điều chỉnh, tác động
kịp thời khi cần thiết, hướng cho hoạt động của doanh nghiệp đi đúng hướng, từng
bước tạo tiền đề vật chất cho xã hội.
Mặc dù là một đơn vị kinh doanh, nhưng các ngân hàng quốc doanh vẫn là một
bộ phận của nhà nước, hoạt động tín dụng trung - dài hạn cũng nhằm thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế quốc gia thông qua các chính sách ưu đãi trong tín dụng. Về
nguyên tắc, ngân hàng ưu đãi đối với các công trình sản xuất trực tiếp tạo ra sản phẩm
hàng hoá và thắt chặt điều kiện vay vốn với doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh
dịch vụ.
Đầu tư tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng theo trọng điểm của ngành và
trong nội bộ từng ngành góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Hoạt động tín dụng
theo chiều sâu, xây dựng mới… đã tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật vững chắc cho nền
kinh tế phát triển lâu dài, góp phần tăng cường kim ngạch xuất khẩu, tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Với năng lực
sản xuất tăng, hàng hoá sản phẩm nhiều hơn đủ tiêu dùng và dư thừa cho xuất khẩu.
Nhiều xí nghiệp với máy móc hiện đại sản xuất ra sản phẩm thay thế hàng nhập. Tất cả
các kết quả đó góp phần tiết kiệm chi ngoại tệ, tăng thu ngoại tệ, tạo cán cân thanh toán

quốc tế lành mạnh.
Ngoài ra, tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng còn góp phần ổn định đời sống,
tạo ra công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội bởi lẽ tín dụng trung -dài hạn đầu tư
vào những lĩnh vực mới,cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất nên sẽ tạo nhiều công ăn
việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, do năng lực sản xuất được nâng lên số
lượng sản phẩm tiêu thụ nhiều, đó là nguồn thu nhập của cán bộ trong xí nghiệp và góp
phần ổn định đời sống cho chính họ.
Tín dụng trung - dài hạn cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ
cấu đầu tư, làm cho cơ cấu của nền kinh tế trở lên hợp lý từ đó làm tiền đề cho sự ổn
định và trật tự an toàn xã hội.
1.1.4.2. Đối với doanh nghiệp
Trong môi trường kinh tế cạnh tranh, để có thể tồn tại và phát triển được thì các
doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư vào tài sản cố định. Bởi lẽ tài sản cố định là tư
liệu chủ yếu, chiếm bộ phận lớn trong tổng giá thành, là yếu tố quan trọng quyết định
lợi thế cạnh tranh… Tuy nhiên, trong thực tế giá trị tài sản cố định thường rất cao, nếu
chỉ trông chờ vào nguồn vốn tự tích luỹ thì cần phải mất rất nhiều thời gian doanh
nghiệp mới đổi mới được tài sản cố định và sẽ bị tụt lại xa so với các doanh nghiệp có
vốn đã trang bị hiện đại. Vì thế lối thoát duy nhất cho doanh nghiệp là đi vay để đổi
mới. Khi tìm kiếm các nguồn vốn từ bên ngoài, doanh nghiệp mong muốn có đựơc
những khoản tín dụng trung - dài hạn từ ngân hàng. Có người cho rằng cách tốt nhất để
huy động vốn là doanh nghiệp phát hàng cổ phiếu, trái phiếu huy động vốn dài hạn.
Chúng ta không phủ nhận những mặt tích cực của thị truờng chứng khoán trong việc
phục vụ nhu cầu bổ sung vốn cho doanh nghiệp, nhưng hình thức này chỉ phát huy hiệu
quả ở những nước có thị trường vốn và thị trường chứng khoán hoàn hảo. thậm trí ở
những nước này trong nhiều trường hợp doanh nghiệp có thể giảm bớt những khoản chi
phí mà lẽ ra họ phải trả khi tổ chức phát hành chứng khoán. Đối với những khoản đi
vay doanh nghiệp được chủ động điều hành các hoạt động kinh doanh, tiến hành các dự
án lớn mà không phải phân chia quyền lực nếu lựa chọn việc tài trợ thông qua phát
hành cổ phiếu, không phải đối phó với các trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi khi doanh
nghiệp không còn cần vốn nữa và có ý muốn thu lại số cổ phiếu này. Mặt khác, việc trả

nợ trung - dài hạn cũng được ấn định theo định kỳ theo từng kỳ hạn hợp lý và ổn
định.Vì vậy, doanh nghiệp có cơ sở để thực hiện trách nhiệm trả nợ của họ.
Như vậy, tín dụng trung - dài hạn đã giúp các doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà
xưởng, mua sắm máy móc thiết bị… để cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và mở rộng chiếm
lĩnh thị trường mới. Có thể nói, tín dụng trung - dài hạn là trợ thủ đắc lực cho các doanh
nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh : lợi nhuận, an toàn, phát triển không ngừng...
trong khi nguồn vốn trung - dài hạn doanh nghiệp có trong tay không đủ đáp ứng nhu
cầu.
1.1.4.3. Đối với ngân hàng
Nếu ngân hàng có một nguồn vốn ổn định trong thời gian dài để đầu tư dài hạn
sẽ tạo ra lợi nhuận cao hơn rất nhiều so với việc dùng nó để cho vay ngắn hạn, vì mỗi
món vay trung - dài hạn cấp cho doanh nghiệp thường là rất lớn, lãi suất cao. Bên cạnh
khoản lợi nhuận hấp dẫn, tín dụng trung - dài hạn còn là vũ khí cạnh tranh rất có hiệu
quả giữa các ngân hàng với nhau. Với các sản phẩm này, ngân hàng sẽ phục vụ tốt hơn
cho các chủ doanh nghiệp và thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng.
Khi xác định mở rộng cho vay trung - dài hạn, các ngân hàng không chỉ nhìn vào lợi
ích trước mắt mà còn nhìn vào lợi ích lâu dài hơn đó là mở rộng tín dụng trung - dài hạn
để đẩy mạnh cho vay ngắn hạn. Các doanh nghiệp sau khi được ngân hàng cho vay vốn,
trang bị máy móc mới hay xây dựng mở rộng, năng lực sản xuất sẽ tăng lên. doanh
nghiệp lại cần có nhiều vốn lưu động hơn để đáp ứng cho sản xuất. Lúc này, người đầu
tiên mà doanh nghiệp tìm đến chính là các ngân hàng đã đầu tư cho họ. Bởi lẽ, doanh
nghiệp dễ dàng tìm được sự thông cảm vì hai bên đã hiểu nhau, ngân hàng đã nắm được
tình hình tài chính và các khoản thu chi của doanh nghiệp nên các dịch vụ sẽ tiện lợi
hơn.
1.2. Chất lượng tín dụng trung - dài hạn trong hoạt động của các ngân
hàng thương mại
1.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài
hạn
1.2.1.1. Nâng cao chất lượng tín dụng trung - đài hạn là đòi

hỏi bức thiết đối với sự phát triển kinh tế
Trước hết, ta hiểu chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng phù
hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng trung - dài hạn chính là vốn cho vay trung - dài hạn của ngân hàng
được khách hàng đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ … để tạo ra một số tiền
lớn hơn thông qua đó ngân hàng sẽ thu được cả gốc và lãi cho ngân hàng đúng thời hạn,
bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Như vậy, qua một quá trình chu chuyển vốn, ngân
hàng sẽ thu hồi vốn và lãi cón khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả. Xét về tổng thể
ngân hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế vừa tạo ra được hiệu quả xã hội.
Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá, tín dụng đã có những đóng góp đáng kể trong
việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để đẩy mạnh tiến trình phát triển của
nền kinh tế. Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá, tín dụng đã có những đóng góp đáng kể
trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để đẩy mạnh tiến trình phát triển
của xã hội. lịch sử đã chứng minh điều đó thông qua sự ra đời và phát triển của xã hội
loài người qua các hình thái kinh tế -xã hội.
Ngày nay cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng
cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để đáp ứng
nhu cầu giao dịch ngày càng tăng trong xã hội. Trong điều kiện đó, chất lượng tín dụng
ngày càng được quan tâm bởi vì:
Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung tâm
thanh toán: khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín dụng, với
một khối lượng tiền như cũ, có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo điều kiện tiết
kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng tiền.
Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng
kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Xuất phát từ chức năng tập trung và phân phối lại vốn
trong nền kinh tế, tín dụng trung - dài hạn đã thu hút những nguồn vốn dư thừa, tạm
thời nhàn rỗi để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu vốn cho
doanh nghiệp từ đố phục vụ cho sự tăng trưởng nền kinh tế. Mặt khác tín dụng trung -
dài hạn là một trong những cách để đưa tiền vào lưu thông nhằm làm cho khối lượng
tiền tệ trong nền kinh tế phù hợp với khối lượng hàng hoá. Xuất phát từ chức năng tạo

tiền của các ngân hàng thương mại, thông qua cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh
toán không dùng tiền mặt, các ngân hàng thương mại có thể mở rộng tiền ghi sổ gấp
nhiều lần so với sô tiền thực có hoặc vì lý do nào đó, các chủ tài khoản có khả năng
phát hành séc và thanh toán bằng các phương tiện khách cho khách vượt quá số tiền gửi
thực tế của hộ … nhưng khi đi vào lưu thông chúng đều có quyển thanh toán, chi trả
như các phương tiện khác và thường chúng được chuyển thành tiền mặt. Như vậy
nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền
mặt trong lưu thông và là nguyên nhân tiềm ẩn của lạm phát. Đảm bảo chất lượng tín
dụng sẽ tạo khả năng giảm bớt lượng tiền thừa trong lưu thông, góp phần hạn chế lạm
phát, ổn định tiền tê, tăng uy tín quốc gia bằng việc phát huy tác dụng của các sản
phẩm, dịch vụ trương tương lai của các công trình đầu tư.
Tín dụng là công cụ thực hiện chủ trưởng của Đảng và Nhà nước về phát triển
kinh tế - xã hội theo từng ngành, từng lĩnh vực, mặt khác, thông qua sự phân tích đánh
giá khả năng phát triển của đối tượng định đầu tư để có những quyết định đầu tư đúng
đắn nhằm khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên, lao động, tiền vốn… để tăng
cường năng lực sản xuất, cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, giải quyết
công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động… chất lượng tín dụng trung - dài
hạn được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân
đối giữa các vùng, các ngành trong cả nước, ổn định và phát triển kinh tế.
Chất lượng tín dụng trung - dài hạn góp phần làm lanh mạnh quan hệ tín dụng:
hoạt động tín dụng được mở rộng với các thủ tục đơn giản hoá, thuận tiện nhưng vẫn
tuân thủ các nguyên tắc tín dụng sẽ góp phần cho vay đúng các đối tượng cần thiết,
giảm thiểu và đi đến xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi chủ yếu hiện nay đang hoành hành ở

×